Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Hội chứng thận hư – Phần 1 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.94 KB, 11 trang )

Hội chứng thận hư – Phần 1

1. Đại cương.
1.1. Định nghĩa:
Thận hư là hội chứng lâm sàng và sinh hoá được đặc trưng bởi: protein niệu
nhiều (>3,5g/24giờ), protein máu giảm (<60g/l), albumin máu giảm (<30g/l), lipit
máu tăng và có phù.
1.2. Quan niệm về thuật ngữ:
Thuật ngữ thận hư (nephrose) do Muller Friedrich Von đưa ra từ năm 1905 để chỉ
các bệnh lý ở thận có tính chất thoái hoá mà không phải do viêm.
Năm 1913, Munk đưa ra thuật ngữ thận hư nhiễm mỡ để chỉ một nhóm triệu
chứng
gồm: phù, protein niệu, giảm protein máu và tăng lipit máu, đồng thời có hiện
tượng nhiễm mỡ trong các tế bào ống thận, trong khi các cầu thận gần như nguyên
vẹn. Cùng thời gian
đó (1914), Volhard F. và Fahr T. cho rằng: thận hư chỉ là một bệnh thoái hoá của
ống thận. Từ đó thuật ngữ “thận hư nhiễm mỡ” được dùng để chỉ bệnh thận do
nhiễm mỡ ở ống thận.
Cho đến 1937, Epstein đề xướng giả thuyết cho rằng “thận hư nhiễm mỡ” không
phải
là một bệnh ở thận mà là một tình trạng rối loạn chuyển hoá lipit của cơ thể. Quan
điểm này được các nhà thận học thời gian đó ủng hộ rộng rãi, và trong suốt thời
gian dài, nhiều tác giả gọi “thận hư nhiễm mỡ “ là bệnh Epstein.
Cho đến những năm 1950, nhờ có kính hiển vi điện tử, người ta đã phát hiện ra
những tổn thương trong bệnh “thận hư nhiễm mỡ” hoặc “bệnh Epstein” không
phải là do nhiễm mỡ ở ống thận gây nên, mà tổn thương mô bệnh học chủ yếu lại
thấy ở cầu thận. Các nghiên cứu sau này cho thấy các triệu chứng của thận hư có
thể gặp trong nhiều bệnh cầu thận tiên phát và thứ phát. Tổn thương thận cũng đa
dạng, mặc dù các biểu hiện lâm sàng và sinh hoá tương đối giống nhau. Vì vậy,
thận hư không phải là một bệnh đơn thuần như quan niệm trước kia, cũng không
phải do nhiễm mỡ ở ống thận hay do rối loạn chuyển hoá lipit gây nên, mà là biểu


hiện của bệnh lý ở cầu thận do nhiều nguyên nhân khác nhau gây nên. Do đó, đa
số các nhà thận học đều thống nhất sử dụng thuật ngữ “hội chứng thận hư”. Một số
tác giả vẫn còn giữ thuật ngữ “thận hư nhiễm mỡ” để chỉ thể bệnh thận hư đơn
thuần có tổn thương tối thiểu (minimal change disease), tức là thể thận hư mà tổn
thương mô bệnh học duy nhất được quan sát thấy qua kính hiển vi điện tử là mất
chân lồi các tế bào biểu mô mao quản cầu thận.
1.3. Nguyên nhân và phân loại hội chứng thận hư:
Bảng phân loại hội chứng thận hư ở người lớn bao gồm hội chứng thận hư tiên
phát hay nguyên phát (idiopathic or primary nephrotic syndrome) và hội chứng
thận hư thứ phát hay hội chứng thận hư kết hợp (secondry nephrotic
syndrome or nephrotic syndrome associated with specific causes).
1.3.1. Hội chứng thận hư nguyên phát:
+ Hội chứng thận hư đơn thuần: bệnh cầu thận tổn thương tối thiểu, chiếm tỉ lệ
20% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
+ Hội chứng thận hư do viêm cầu thận mạn bao gồm:
- Xơ hoá cầu thận ổ-đoạn: chiếm tỉ lệ 15-20% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.

- Bệnh cầu thận màng: chiếm tỉ lệ 25-30% số bệnh nhân có hội chứng thận hư.
- Viêm cầu thận màng tăng sinh: chiếm tỉ lệ 5-10% số bệnh nhân có hội chứng
thận hư.
- Các bệnh viêm cầu thận tăng sinh và xơ hoá khác: chiếm tỉ lệ 15-30% số bệnh
nhân có hội chứng thận hư.
1.3.2. Hội chứng thận hư thứ phát:
+ Bệnh hệ thống:
- Đái tháo đường.
- Luput ban đỏ hệ thống và các bệnh collagen khác.
- Bệnh thận nhiễm bột.
- Bệnh viêm mạch máu do miễn dịch (cryoglobulin máu hỗn hợp, u hạt Wegener,
viêm nhiều động mạch, viêm thành mạch dị ứng ).
+ Bệnh nhiễm khuẩn:

- Nhiễm vi khuẩn (nhiễm liên cầu khuẩn, giang mai, viêm màng trong tim nhiễm
khuẩn bán cấp và cấp tính).
- Nhiễm virút (virút viêm gan B, virút viêm gan C, HIV, Cytomegalovirut).
- Nhiễm ký sinh trùng (sốt rét, Toxoplasma, sán máng ).
+ Do thuốc:
- Muối vàng, thuỷ ngân và các kim loại nặng.
- Penicillamin.
- Các thuốc kháng viêm không steroit.
- Líthium.
- Catopril.
- Heroin.
- Các thuốc khác (probenecit, chlopropamit, ripampicin, tolbutamit, phenindion ).
+ Dị ứng, nọc rắn, nọc ong và miễn dịch.
+ Ung thư.
- Bệnh Hodgkin, bệnh bạch cầu lympho (thường gây ra bệnh cầu thận tổn thương
tối thiểu).

- Các khối u đặc (thường gây ra bệnh cầu thận màng).
+ Bệnh di truyền và chuyển hoá:
- Hội chứng Alport.
- Bệnh Fabry.
- Bệnh hồng cầu hình liềm.
- Hội chứng thận hư bẩm sinh.
- Hội chứng thận hư có tính chất gia đình.
- Hội chứng móng tay-xương bánh chè.
+ Các nguyên nhân khác:
- Liên quan với chửa đẻ.
- Thải ghép cơ quan.
- Bệnh huyết thanh.
- Hẹp động mạch thận một bên.

1.4. Tổn thương giải phẫu bệnh:
Trong phần này, chúng tôi chỉ trình bày hình ảnh tổn thương giải phẫu bệnh của
hội chứng thận hư nguyên phát.
1.4.1. Bệnh cầu thận thay đổi tối thiểu:
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: cầu thận gần như bình thường, đôi khi thấy
sưng phồng các tế bào biểu mô cầu thận (tế bào podocyt), lòng mao mạch cầu thận
giãn rộng. Các mạch máu ngoài cầu thận và tổ chức kẽ thận bình thường.
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: chân các tế bào biểu mô cầu thận (tế bào
podocyt) hợp nhất, tạo thành bản phẳng tiếp xúc với mặt ngoài màng nền cầu thận.
Tế bào biểu mô sưng
phồng, xuất hiện các nhung mao ở tế bào biểu mô và có dấu hiệu hai mặt như
nhau (mặt tiếp xúc với màng nền và mặt tiếp xúc với lòng khoang niệu).
+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang: không thấy có lắng đọng các phức hợp
miễn dịch ở cầu thận.
1.4.2. Bệnh cầu thận tổn thương ổ-đoạn:
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: xơ hoá cầu thận thành ổ (vài cầu thận gần
nhau bị xơ hoá tạo thành một ổ) khu trú chủ yếu ở vùng gianh giới vỏ-tuỷ và phát
triển về phía vỏ thận. Hyalin hoá và xơ hoá cục bộ (ở cầu thận tổn thương, chỉ thấy
xơ hoá một phần cầu thận, không xơ hoá toàn bộ cầu thận). Teo ống thận từng ổ từ
giai đoạn sớm.
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: màng nền của các cầu thận bị tổn thương nhăn
nheo,
dày và nứt rạn. Lắng đọng đặc điện tử dạng hạt ở vùng gian mạch của các cầu
thận bị tổn thương.
+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang thấy: lắng đọng dạng ổ, cục bộ của IgM,
bổ thể C3, C4 ở vùng cầu thận bị xơ hoá. Đôi khi thấy lắng đọng IgG ở cầu thận.
1.4.3. Bệnh cầu thận màng:
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: dày lan toả thành mao mạch cầu thận, bắt
màu dương tính khi nhuộm PAS. Thấy các tổn thương hình gai nhọn dưới biểu mô
(phát hiện

được khi nhuộm bạc, methenamin, axít periodic). Mức độ tổn thương hình gai
nhọn tiến
triển song song với mức độ hoạt động của bệnh.
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: lắng đọng đặc điện tử ở vùng dưới biểu mô của
màng nền cầu thận. Màng nền dày không đều.
+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang thấy: các lắng đọng dạng hạt mịn của IgG
và bổ thể C3 ở thành mao mạch cầu thận, đôi khi thấy lắng đọng IgM hoặc IgA,
không thấy lắng đọng IgE.
1.4.4. Viêm cầu thận màng tăng sinh:
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: tăng sinh tế bào gian mạch, tăng thể tích chất
gian mạch. Tăng sinh tế bào nội mô nhẹ, xâm nhập các bạch cầu đa nhân vào lòng
mao mạch cầu thận. Dày thành mao mạch cầu thận, có hình ảnh đường viền đôi
của thành mao mạch cầu thận (phát hiện được bằng nhuộm PAS hoặc PAM). Hình
ảnh đường viền đôi của thành mao mạch cầu thận là do chất gian mạch xen vào
giữa màng nền và tế bào nội mô.
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: tăng sinh tế bào gian mạch, tăng thể tích chất
gian mạch. Hình đường viền đôi của thành mao mạch cầu thận.
+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang thấy: lắng đọng bổ thể C3, properdin,
IgG, IgM, IgA, bổ thể C1q, C4 ở thành mao mạch cầu thận và vùng gian mạch.
Nếu lắng đọng thấy ở dưới nội mô là típ 1. Nếu lắng đọng thấy ở trong lớp đặc
của màng nền, chủ yếu là bổ thể C3 và properdin, không thấy IgG, IgM, IgE là típ
2 (còn gọi là bệnh lắng đọng đặc). Nếu lắng đọng thấy ở dưới biểu mô, phía
ngoài màng nền là típ 3.

1.4.5. Viêm cầu thận tăng sinh gian mạch:
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: tăng sinh tế bào gian mạch, tăng thể tích chất
gian mạch. Không thấy dày thành mao mạch cầu thận. Không thấy xâm nhập bạch
cầu đa nhân.
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: tăng sinh tế bào gian mạch, tăng thể tích chất
gian mạch. Lắng đọng đặc điện tử ở vùng gian mạch cầu thận.

+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang thấy: lắng đọng IgM, IgG, bổ thể C3, C4

fibrin ở vùng gian mạch cầu thận.
1.4.6. Viêm cầu thận tăng sinh nội mao mạch (viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên
cầu khuẩn):
+ Trên kính hiển vi quang học thấy: tổn thương cầu thận lan toả, toàn bộ. Sưng
phồng
và tăng sinh tế bào nội mô mao mạch cầu thận. Xâm nhập bạch cầu đa nhân, đôi
khi cả bạch cầu lympho và bạch cầu ái toan vào lòng mao mạch cầu thận. Tăng
sinh tế bào gian mạch nặng và tăng thể tích chất gian mạch. Sưng phồng cầu thận
nặng, biểu hiện ở hẹp khoang Bowman. Thành mao mạch cầu thận và các mạch
máu ngoài cầu thận không thay
đổi. Teo ống thận thành ổ và thấy các trụ hồng cầu trong lòng ống thận
+ Trên kính hiển vi điện tử thấy: hình ảnh điển hình là các lắng đọng hình gò ở
dưới biểu mô, lắng đọng dạng hạt mịn.
+ Trên tiêu bản miễn dịch huỳnh quang thấy: các lắng đọng IgG, bổ thể C3 và
properdin dạng hạt mịn hoặc dạng hạt thô ở thành mao mạch cầu thận và vùng
gian mạch. Có thể thấy hình liềm ở những trường hợp đang tiến triển.
1.5. Bệnh sinh:
Protein niệu nhiều là đặc trưng cơ bản nhất của hội chứng thận hư. Khi điện di
protein niệu ở bệnh nhân có hội chứng thận hư do bệnh cầu thận màng, người ta
thấy 80% là albumin. Albumin trong huyết tương mang điện tích âm, bình thường
nó rất khó lọt qua
được màng lọc của cầu thận vì lớp điện tích âm của màng lọc cầu thận ngăn cản.
Trong hội chứng thận hư, màng lọc cầu thận để lọt nhiều albumin, điều này được
giải thích là tổn thương do lắng đọng các phức hợp miễn dịch gây ra huỷ hoại lớp
điện tích âm của màng nền cầu thận, làm cầu thận để lọt dễ dàng các phân tử
mang điện tích âm như là albumin. Khi lượng protein (chủ yếu là albumin) được
bài xuất trong một ngày lớn hơn 3,5g thì thường kết hợp với giảm albumin máu.
Giảm albumin máu trong hội chứng thận hư xảy ra do mất protein qua nước tiểu

nhiều, tổng hợp protein của gan không bù đắp kịp. Điều này dẫn tới hậu quả làm
giảm áp lực keo của máu gây ra phù do nước di chuyển từ lòng mao mạch ra tổ
chức kẽ (theo định luật Starling). Thể tích máu giảm do thoát dịch ra tổ chức kẽ
gây hoạt hoá hệ renin- angiotensin-aldosteron, arginin vasopressin (AVP) và hệ
thần kinh giao cảm. Cơ chế này gây tăng tái hấp thu natri và nước của ống thận
làm phù nặng lên. Người ta thấy mức độ nặng của triệu chứng phù liên quan với
mức độ giảm albumin của máu.
Giảm áp lực keo máu và rối loạn điều chỉnh tổng hợp protein đã kích thích gan
tăng tổng hợp lipoprotein dẫn tới tăng lipit máu và làm xuất hiện các thể mỡ trong
nước tiểu (trụ mỡ, thể lưỡng chiết quang). Tăng lipit máu có thể còn do giảm dị
hoá lipoprotein vì các enzym lipoproteinlipaza, lexitin cholesterol transferaza
trong máu giảm do mất qua nước tiểu. Các protein khác mất qua nước tiểu bao
gồm cả các enzym, các hormon, các yếu tố
đông máu, đã dẫn tới nhiều rối loạn chuyển hoá. Các protein này bao gồm protein
mang thyroxin, protein mang vitamin D3, transferin và protein mang các nguyên
tố vi lượng. Tình trạng tăng đông máu thường thấy trong hội chứng thận hư mức
độ nặng là do mất qua nước tiểu antithrombin III (AT III); giảm nồng độ protein
C, protein S trong huyết thanh; tăng fibrinogen máu và tăng ngưng tập tiểu cầu.
Một số bệnh nhân bị mất IgG nặng có thể dẫn tới hậu quả giảm khả năng miễn
dịch và
dễ bị nhiễm khuẩn.

×