Tải bản đầy đủ (.docx) (76 trang)

Đề tài " BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ GIỚI " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.57 KB, 76 trang )

Khoá luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
Đề tài
BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE
CƠ GIỚI
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 1
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
MỤC LỤC
2
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 2
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM VÀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ
CHỦ XE CƠ GIỚI
1.1 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM:
1.1.1 Sự cần thiết của Bảo hiểm trong đời sống kinh tế xã hội.
Sau đây nhận định của Henry Ford (nhân vật nổi tiếng thế giới) về vai trò và
sự cần thiết của Bảo hiểm đối với đời sống kinh tế xã hội: “New York không phải là
nơi khai sinh ra lồi người, nhưng sản sinh ra những nhà bảo hiểm … Không có bảo
hiểm, sẽ không có những tòa nhà chọc trời bởi không có một công nhân nào chấp
nhận làm việc ởđộ cao như vậy khi mà họ có thể rơi xuống chết người để lại một gia
đình trong sự khốn khổ. Không có bảo hiểm, sẽ không có một nhà tư bản nào dám
đầu tư hàng triệu đô la để xây dựng các tòa nhà lớn như vậy bởi vì một điếu thuốc
có thể thiêu hủy nó thành một đám tro tàn. Không có bảo hiểm, không ai dám lái xe
qua các phố. Một người lái xe giỏi cũng cóý thức rằng anh ta có thểđâm vào một
người đi bộ bất cứ lúc nào”.
Thật vậy trong cuộc sống, con người luôn bị những rủi ro rình rập là: Đau
ốm, tai nạn, động đất, khủng bố…… Mà không ai dám nói chắc là mình không bao
giờ gặp phải. Bên cạnh cuộc sống hiện đại người ta phải đối phó với những rủi ro rất
lớn về người và vật chất điển hình những vụ thiệt hại gây chấn động thế giới: Sự
kiện khủng bố 11/09 ở Mỹ, khủng bố tàu điện ngầm ở Tây Ban Nha, vụđộâng đất ở


Iran, vụ cháy ITC ở Việt Nam…vv…
Tổn thất một khi phát sinh nó thiệt hại rất lớn về người và của, nó còn làm
gián đoạn quá trình sản xuất, làm tê liệt nền kinh tế, nó gây hậu quả rất nghiêm
trọng và kéo dài một gian mới khôi phục hoặc có thể là ngưng vĩnh viễn.
3
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 3
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
Những rủi ro nói trên là nguồn gốc phát sinh trong hoạt động dự trữ bảo
hiểm. Những biện pháp thông thường để xử lý rủi ro nói trên:
- Biện pháp phòng tránh, hạn chế tổn thất gồm: Né tránh rủi ro, phòng
tránh rủi ro.
- Biện pháp khắc phục hậu quả rủi ro gồm: Chấp nhận tự gánh chịu
(bằng cách tiết kiệm, lập qũy dự trữ, dự phòng), chuyển nhượng rủi ro (chuyển
nhượng đơn thuần, chuyển nhượng trên nguyên tắc tương hỗ, phân tán rủi ro bằng
cách cứu trợ, lập quỹ chung).
Có nhiều loại quỹ dự trữ, bảo hiểm hoạt động theo cơ chếđó: Quỹ dự trữ quốc gia;
bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thương mại….
1.1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm.
1.1.2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm thế giới.
Như ta đã thấy, bảo hiểm xuất hiện như một phương thức xử lý rủi ro, tổn
thất mà con người phải đối phó hàng ngày trong đời sống sinh hoạt sản xuất của
mình. Cách xử lýđó dựa trên ý niệm “cộng đồng hóa rủi ro, hiểm họa”.
- Vào 4500 năm trước công nguyên, ở Ai Cập các người thợđẽo đáđã
biết thành lập “quỹ tương trợ” để giúp nạn nhân trong vụ tai nạn đẽo đá.
- Trung Quốc 4000 năm trước công nguyên. Người ta cho rằng ở thời
kỳ này các nhà lái buôn Trung Quốc đã biết hợp tác tổ chức chuyên chở tài sản của
mỗi người phân tán trên nhiều thuyền khác nhau. Cách làm như vậy, giúp cho mỗi
người tránh việc phải gánh chịu tổn thất tồn bộ số hàng của mình. Đây chính là
“phân tán rủi ro”.
- Ơû Babylon 1700 năm trước công nguyên và Athenes 500 năm trước

công nguyên, người vay mượn với lãi suất cao, không phải trả nếu có rủi ro
- Hội bảo hiểm đầu tiên ra đời vào năm 1424 ởÝ cho vận chuyển đường
biển vàđường bộ.
4
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 4
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
- Anh quốc năm 1600, nữ Hồng Anh quốc cho phép các hoạt động kinh
doanh bảo hiểm được thực hiện trong thời gian 90 năm. Năm 1720, các doanh
nghiệp bảo hiểm Lloyd’s ra đời và sau đó 60 năm, họ nắm giữ 90% rủi ro hàng hóa
trên thế giới.
- Năm 1667 sáu công ty bảo hiểm ra đời sau một đám cháy lớn thiêu
hủy 13000 tòa nhàở Luân Đôn, bảo hiểm hỏa hoạn dần dần lan sang các nước châu
Âu khác.
- Công ty bảo hiểm nhân thọđầu tiên ra đời ở Anh vào năm 1762. Cuối
thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, bảo hiểm phát triển vàđảm bảo cho nhiều rủi ro mới như:
Mô tô, máy bay, bảo hiểm trách nhiệm dân sự.
Ngày nay bảo hiểm trở thành lĩnh vực hoạt động quan trọng trong nền kinh
tế, nóđóng góp rất lớn trong sự phát triển kinh tế và làđộng lực thúc đẩy cho các
ngành còn lại.
1.1.2.2 Lịch sử ra đời và phát triển của bảo hiểm Việt Nam.
Giai đọan trước 1975
Ở miền Nam lúc bây giờ có hơn 52 Công ty bảo hiểm trong và nước hoạt
động tại Sài Gòn. Các công ty cũng thực hiện đa dạng các nghiệp vụ và cũng thành
lập một hiệp hội nghề nghiệp bảo hiểm nhằm thực hiện các chức năng thông tin, tư
vấn, đào tạo……
Ở miền Bắc: Ngày 17/12/1964 Công ty bảo hiểm Bảo Việt ra đời và hoạt
động 15/01/1965 do nằm trong vùng chiến tranh hoạt động của Bảo Việt chưa phát
triển mạnh, những nghiệp vụ chủ yếu: Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm
thân tàu và tái bảo hiểm.
Giai đoạn sau 1975 đến trước ngày 18/12/1993

Sau giải phóng, việc quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm cũ của miền Nam đã
dẫn đến thành lập công ty bảo hiểm và tái bảo hiểm Việt Nam (BAVINA), trên cơ
sở quốc hữu hóa các công ty bảo hiểm trước giải phóng, BIVINA một mặt thực hiện
5
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 5
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
các hợp đồng cũ với khách hàng do các công ty bảo hiểm trước đây thực hiện ký kết
và tiếp tục nhận các hợp đồng mới.
Ngày 01/03/1976 Bộ Tài Chính ra quyết định chuyển công ty BIVINA thành
chi nhánh của công ty bảo hiểm Việt Nam tại thành phố Hồ Chí Minh (gọi tắt là Bảo
Việt / TPHCM). Bảo Việt lúc này là công ty bảo hiểm duy nhất của nhà nước hoạt
động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam theo chếđộ hạch tóan kinh tế thống nhất tồn
ngành vào 01/01/1980. Bảo Việt làđơn vị trực thuộc Bộ Tài Chính có chức năng
giúp Bộ Tài Chính thống nhất các quản lý bảo hiểm trong cả nước và trực tiếp tiến
hành các nghiệp vụ bảo hiểm trong cả nước.
Năm 1986 được nâng cấp lên thành Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam có chi
nhánh ở tất cả tỉnh thành trong cả nước.
Giai đoạn sau 18/12/1993
Ngày 18/12/1993 Nghịđịnh 100/CP của Chính Phủđã chấm dứt sựđộc quyền
của Bảo Việt, Từ Nghịđịnh này Có nhiều công ty bảo hiểm thuộc các thành phần
kinh tế khác nhau thành lập:
- Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh)
- Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (Pjico)
- Công ty cổ phần bảo hiểm nhà rồng (Bảo Long)
- Công ty bảo hiểm dầu khí (PVIC)
- Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE)
Các công liên doanh bảo hiểm, môi giới bảo hiểm cũng lần lượt ra đời. Nhà
nước cũng mở cửa cho các công ty bảo hiểm nước ngồi mở chi nhánh, đặt văn
phòng đại diện đểđầu tư trực tiếp vào Việt Nam.
Với dự xuất hiện của các công ty bảo hiểm trong và ngồi nước, đã tạo sư

cạnh tranh nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm, làm sôi động thị trường bảo hiểm
mà lâu nay ngủ yên, giúp cho khách hàng lựa chọn được những sản phẩm dịch vụ
tốt nhất.
6
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 6
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
1.1.3 Vai trò, chức năng, tác dụng của bảo hiểm.
Xét về khía cạnh kinh tế xã hội:
Là hành lang bảo vệ an tồn cho mỗi cá nhân và tổ chức trước những rủi ro và
sự cố bất ngờ dẫn đến tổn thất làm ngưng trệ những hoạt động diễn ra bình thường.
Quỹ bảo hiểm được được tạo lập một cách có tổ chức khoa học nhằm đáp ứng kịp
thời và bùđắp các tổn thất phát sinh, từđó tái lập vàđảm bảo cho tính thường xuyên
liên tục của các quá trình xã hội.
Như vậy trên phạm vi rộng tồn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò
như một công cụ an tồn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi
chủ thể dân cư và nền kinh tế. Với vai tròđó bảo hiểm thâm nhập sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống và phát huy tác dụng vốn có của mình: Thúc đẩy ý thức đề phòng
– hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
Xét về khía cạnh tài chính:
Bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc thu phí trước bồi thường sau nên vào
một thời điểm nhất định, các tổ chức hoạt động bảo hiểm sẽ nắm giữ một quỹ tiền tệ
rất lớn nhưng tạm thời nhàn rỗi và như vậy, các tổ chức hoạt động bảo hiểm hiển
nhiên trở thành những nhàđầu tư lớn, quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Như vậy, bảo hiểm không chỉđóng vai trò như một công cụ an tồn mà còn có
vai trò của một trung gian tài chính nắm giữ một phần quan trọng trong nền kinh tế.
Với vai tròđó bảo hiểm phát huy tác dụng hết sức quan trọng, đặc biệt, trong nền
kinh tế thị trường, đó là tập trung, tích tụ vốn đảm bảo cho quá trình tái sản xuất
được thường xuyên và liên tục.
1.1.4 Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm.
1.1.4.1 Nguyên tắc sốđông.

Hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động bảo hiểm thương mại nói riêng
tạo ra một “sựđóng góp của sốđông vào rủi ro của sốít” trên cơ sở quy tụ nhiều
7
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 7
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
người có cùng rủi ro thành cộng đồng nhằm phân tán hậu quả tài chính của những
vụ tổn thất. Số người tham gia càng đông, tổn thất càng phân tán mỏng, rủi ro càng
giảm thiểu ở mức độ thấp nhất, thể hiện ở mức phí phải đóng là nhỏ nhất đủđể mỗi
chủ tham gia không bịảnh hưởng nhiều đến hoạt động sản xuất của mình.
1.1.4.2 Nguyên tắc trung thực.
Khi hợp đồng bảo hiểm dược ký kết, xem như rủi ro của người được bảo
hiểm chuyển sang cho nhà bảo hiểm khi người này đóng phíđầy đủ, nhà bảo hiểm
cam kết sẽ bồi thường khi có tổn thất xảy ra. Lúc này sẽ có những nghi ngờ giữa hai
bên như sau:
- Đối với nhà bảo hiểm:Không biết người được bảo hiểm có khai báo
chính xác rủi ro hay không và khi rủi ro xảy ra thì do nguyên nhân khách quan hay
cốý.
- Đối với người được bảo hiểm:Khi họđóng phí bảo hiểm cho nhà bảo
hiểm, họ tự hỏi khi có rủi ro thì nhà bảo hiểm có bồi thường hay không hoặc cóđủ
khả năng bồi thường không.
Như vậy để có sự tin tưởng hai bên trên hợp đồng bảo hiểm phải gắn liền với
sự tin tưởng lẫn nhau vàđiều này đòi hỏi phải thực hiện nguyên tắc trung thực tuyệt
đối.
Ngồi ra đối với bảo hiểm nhân thọ còn thêm ba nguyên tắc:
 Nguên tắc lợi ích bảo hiểm.
 Nguyên tắc bồi thường.
 Nguyên tắc thế quyền.
1.1.5 Phân loại bảo hiểm thương mại
Có nhiều cách phân loại bảo hiểm: Phân loại theo đối tượng bảo hiểm, phân
loại theo kỹ thuật bảo hiểm, phân loại theo phương thức quản lý, phân loaị theo quy

định hiện hành. Ơû đây ta chỉ nói đến phân loại theo phương thức quản lý.
Phân loại theo phương thức quản lý:
8
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 8
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
a) Bảo hiểm tự nguyện:
Là những loại bảo hiểm mà hợp đồng được kết lập dựa hồn tồn trên sự cân
nhắc và nhận thức của người được bảo hiểm. Đây là tính chất vốn có của bảo hiểm
thương mại khi nó có vai trò như là một hoạt động dịch vụ cho sản xuất và sinh hoạt
của con người.
b) Bảo hiểm bắt buộc:
Được hình thành trên cơ sở luật định nhằm bảo vệ lợi ích của nạn nhân trong
các vụ tổn thất và bảo vệ lợi ích của tồn bộ nền kinh tế – xã hội. Các hoạt hoạt nguy
hiểm có thể dẫn đến tổn thất con người và tài chính trầm trọng gắn liền với trách
nhiệm dân sự nghề nghiệp thường làđối tượng của sự bắt buộc này. Thông thường,
đối với các loại bảo hiểm bắt buộc này gần như hầu hết các nội dung cơ bản của hợp
đồng chỉ là do nhà nước quy định: Người được bảo hiểm, đối tượng bảo hiểm, rủi ro
được đảm bảo, phí bảo hiểm,…
Ví dụ:Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Tuy nhiên, sự bắt buộc chỉ là bắt buộc người cóđối tượng mua bảo hiểm chứ
không bắt buộc mua bảo hiểm ởđâu. Tính chất tương thuận của hợp đồng bảo hiểm
được ký kết vẫn còn nguyên vì người được bảo hiểm vẫn tự do lựa chọn nhà bảo
hiểm cho mình. Hơn nữa, các quy định của nhà nước liên quan đến điều kiện bảo
hiểm chỉở mức tối thiểu, khách hàng bảo hiểm vẫn có thể thỏa thuận với nhà bảo
hiểm đểđược đảm bảo cao hơn, tốt hơn, phù hợp với nhu cầu đảm bảo cho rủi ro
đang có và khả năng của mình.
Ơû các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, số lượng các loại
bảo hiểm bắt buộc rất nhiều liên quan đến nhiều ngành nghề khác nhau và có xu
hướng không ngừng tăng lên khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển một cách có
tổ chức. Ơû Việt Nam hiện nay, ý nghĩa mục đích tốt đẹp đóđược thể hiện qua loại

hình bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba
và hành khách trên xe.
9
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 9
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
1.2 TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CHỦ XE CƠ
GIỚI.
1.2.1 Nhu cầu và sự phát triển của bảo hiểm xe cơ giới.
Sự tồn tại và phát triển của ngành bảo hiểm xe cơ giới không tách rời sự tồn
tại và phát triển tất yếu của ngành bảo hiểm nói chung trong hệ thống kinh tế xã hội,
nhất là trong giai đoạn tăng trưởng kinh tếở mức độ cao, ổn định. Tuy nhiên cũng
cần thấy các nhân tố trực tiếp, cụ thể khẳng định sự cần thiết của các loại hình này,
đặc biệt đối với Việt Nam:
Kinh tế ngày càng phát triển, kéo theo sự gia tăng về số lượng xe cơ giới
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển đó. Do cơ sở hạ tầng giao thông chật hẹp không
đáp ứng kịp sự phát triển của phương tiện đi lại. Người dân điều khiển phương tiện
không cóý thức chấp hành luật lệ giao thông nên số lượng xe cơ giới tăng cũng đồng
nghĩa với việc gia tăng tai nạn giao thông. Một khi tai nạn xảy ra không phải ai cũng
có khả năng bồi thường cho người thứ ba để khôi phục lai lại tài sản đã bị thiệt hại.
Đểđáp ứng nhu cầu được bảo vệ của các chủ xe, để bảo vệ quyền lợi cho các nạn
nhân, do đó loại hình bảo hiểm xe cơ giới ra đời.
Bảo hiểm xe cơ giới được các nhà bảo hiểm triển khai ở miền Nam trước
1975, chủ yếu là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới. Sau 1975, loại hình
này được tiếp tục duy trìở thành phố Hồ Chí Minh và sau đó lan ra tồn miền Nam
(1979) và cả nước (1980). Năm 1988, nghịđịnh số 30/HDBT của hội đồng Bộ
Trưởng và tiếp sau đó là NĐ 115/1997/NĐ-CP được ban hành đưa ra chếđộ bảo
hiểm bắt buộc về trách nhiệm dân sựđối với tất cả các chủ xe cơ giới.
Việt Nam, bảo hiểm xe cơ giới thông thường gồm ba loại cơ bản sau:
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
- Bảo hiểm vật chất xe.

- Bảo hiểm con người trong việc sử dụng xe.
10
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 10
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
1.2.2 Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới.
Pháp luật của các quốc gia đều thừa nhận và bảo vệ quyền lợi bất khả xâm
phạm về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín của mọi công
dân. Vì vậy pháp luật buộc mọi người phải có trách nhiệm chung là không làm hại
về tinh thần cũng như về vật chất của người khác. Nếu có hành vi vi phạm thì người
bị thiệt hại được pháp luật bảo vệ có thể khiếu nại đòi bồi thường từ phía người gây
thiệt hại.
Xe cơ giới xếp vào nguồn gây nguy hiểm cao độ mà pháp luật qui định, do đó
các chủ xe khó có thể tránh khỏi những sai sót làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức
khỏe, tài sản của người khác. Dĩ nhiên, lúc đó họ phải chịu trách nhiệm bồi thường
đối với những sai sót đó mà ngay cả khi họ không có lỗi.
Vậy có thể hiểu trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới là phần trách nhiệm mà
theo qui định của pháp luật một người hay nhiều người là chủ xe cơ giới phải bồi
thường hậu quảđã gây ra cho một hay nhiều người hoặc đối tượng họđảm nhận
chuyên chở. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, hậu quả của trách nhiệm hành chính, trách
nhiệm hình sự do việc sử dụng xe cơ giới gây ra là không thể bảo hiểm.
Trong thực tế, trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới có thể biểu hiện dưới hai
dạng là: TNDSCXCG trong hợp đồng và TNDSCXCG ngồi hợp đồng.
a) Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng.
Nhưđã trình bày, TNDS là trách nhiệm bối thường thiệt hại. Trách nhiệm này
phải phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe,
tài sản của người khác. Vậy trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới ngồi hợp đồng là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ giới
gây ra. Tuy nhiên, trong thực tế, tại nạn do xe cơ giới gây ra có thể có nhiều nguyên
nhân cho nên cần phải điều tra thật đầy đủđể xác minh rõ trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngồi hợp đồng. Do đó, khi xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi

hợp đồng cần chúý một số trường hợp sau:
11
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 11
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
- Người lái xe gây ra tai nạn khi anh ta sử dụng vào việc riêng: Chủ xe
vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhưng được đòi hỏi trách nhiệm của
người lái xe.
- Tai nạn xảy ra khi xe đang giao cho người khác mượn: Người mượn
phải bồi thường. Nếu chủ xe cho mượn cả lái xe thì chủ xe chịu trách nhiệm bồi
thường.
- Tai nạn xảy ra khi xe lưu hành không có sựđồng ý của chủ xe: Người
sử dụng không được phép của chủ xe phải bồi thường.
- Tai nạn do người vị thành niên gây ra: Họ không chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại vì không có năng lực hành vi dân sự. Nếu người vị thành niên điều
khiển xe gây tại nạn thì thông thường cha mẹ hoặc người dám hộ là người chịu trách
nhiệm bồi thường.
b) Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới theo hợp đồng được xác định trên cơ sở
những thỏa thuận dân sự giữa một bên là chủ xe với một bên là các đối tượng cần
vận chuyển (hành khách, hàng hóa). Trách nhiệm này có thểđưa ra trên cơ sở quy
định chung của pháp luật và có thể là những thỏa thuận riêng. Trách nhiệm dân sự
chủ xe cơ giới theo hợp đồng thường là trách nhiệm đối với hành khách trên xe và
trách nhiệm đối với hàng hóa trên xe.
1.2.3 Nội dung các loại hình bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình
bảo hiểm bắt buộc, được thực hiện theo nghịđịnh số 115/1997/NĐ-CP ngày
17/12/1997 của Chính Phủ về chếđộ bắt buộc bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
xe cơ giới và quyết định 23/2003/QĐ-BTC (25/2/2003) của Bộ Tài Chính về việc
ban hành quy tắc, biểu phí, mức trách nhiệm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự
của xe cơ giới.

12
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 12
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
1.2.3.1 Bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba.
1.2.3.1.1 Khái niệm.
Trong những vụ tai nạn giao thông đường bộ, trách nhiệm dân sự của chủ xe
cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm bắt buộc theo quy định của luật
pháp, một người hay nhiều người phải bồi thường hậu quả của tai nạn đã gây ra cho
một hoặc nhiều người khác.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người thứ ba trong các vụ tai nạn xe cơ
giới là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng. Việc bồi thường thiệt hại
ngồi hợp đồng phát sinh từ hành vi trái pháp luật gây thiệt hại tài sản chung của xã
hội, tài sản riêng của công dân hay tính mạng, sức khoẻ của người khác. Giải quyết
bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng làáp dụng một biện pháp thuộc về chếđộ bắt
buộc trách nhiệm dân sự.
1.2.3.1.2 Điều kiện phát sinh trách nhiệm dân sự.
Để giải quyết đúng đắn một vụ tai nạn giao thông, việc cần thiết đầu tiên phải
là việc xác nhận rõ trách nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay không. Cũng
giống như việc xác nhận trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng khác,
trong trường hợp này thông thường trách nhiệm bồi thường thiệt hại cũng phát sinh
khi hội tụđủ bốn điều kiện sau đây:
a) Phải có thiệt hại:
Đây là yếu tố quan trọng hàng đầu khi xem xét đến việc nghĩa vụ bồi thường
có phát sinh hay không. Thông thường là thiệt hại về tài sản, tính mạng sức khoẻ
con người. Những thiệt hại trên phải là những thiệt hại thực tế, thực sự xảy ra và có
thể thanh tốn được.
Tuy nhiên, những thiệt hại về con người là không thể tính tốn thành tiền
được, ở những người khác nhau có thể khác nhau. Nhưng với mục đích an ủi, động
viên đối với những người bị thiệt hại và thân nhân của họ, tòa án có thể phán quyết
bằng một khoản tiền nhất định.

13
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 13
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
b) Phải có hành vi gây thiệt hại trái pháp luật:
Trong phạm vi phần này, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật được hiểu là
hành vi gây tai nạn do không chấp hành hoặc chấp hành không đúng những quy
định trong điều lệ về trật tự an tồn giao thông đường bộ. Hành vi gây thiệt hại trái
pháp luật này có thểđơn thuần chỉ là một vi phạm pháp luật về dân sự nhưng cũng
có thể nặng hơn là một việc phạm pháp về hình sự. Trong trường hợp phạm pháp về
hình sự, người gây tai nạn không những phải bồi thường thiệt hại mà còn phải bị
truy tố trước pháp luật.
c) Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại:
Mối quan hệ này được hiểu là thiệt hại xảy ra phải đúng là kết quả tất yếu của
hành vi trái pháp luật, và ngược lại, hành vi trái pháp luật thực sự là nguyên nhân
trực tiếp của thiệt hại xảy ra.
Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp hành vi trái pháp luật tuy không phải là
nguyên nhân trực tiếp của thiệt hại đã xảy ra nhưng lại cóý nghĩa quyết định đối với
thiệt hại thìđược coi là mối quan hệ nhân quả với thiệt hại.
d) Phải có lỗi của người gây thiệt hại:
Đây là yếu tố quan trọng. Lỗi của người gây thiệt hại được đánh giá trên cơ
sởđộ sai phạm của anh ta. Người gây thiệt hại phải nhận thức được hoặc có thể nhận
thức hành vi của mình là trái pháp luật. Sau những vụ tai nạn giao thông đường bộ,
mức độ lỗi của người gây ra tai nạn được đánh giá bằng việc xem xét, đo đạc hiện
trường, kiểm tra phương tiện và kiểm tra lời khai nhân chứng của cơ quan chức
năng. Dù người gây tai nạn là cốý hay vôý, họđều có lỗi, tuy nhiên người gây tai nạn
có thể thốt trách nhiệm nếu chứng minh được tai nạn xảy ra hồn tồn là do lỗi của
nạn nhân.
Cần lưu ý rằng, thông thường trách nhiệm dân sự sẽ phát sinh khi người gây
tai nạn có lỗi trong việc điều khiển xe. Tuy nhiên có những trường hợp người gây tai
14

SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 14
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
nạn vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường khi anh ta không có lỗi. Đó là trường hợp
tai nạn xảy ra vì cấu tạo của máy móc, vật liệu.
1.2.3.1.3 Đối tượng bảo hiểm.
Là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng của chủ xe cơ giới gây ra.
Trách nhiệm của chủ xe cơ giới bao gồm TNDS của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm
cao độ lẫn trách nhiệm phát sinh do lỗi của người mà chủ xe giao chiếm hữu, sử
dụng nguồn nguy hiểm cao độđó.
Đúng theo bản chất của BHTNDSCXCG đối với người thứ ba, đối tượng bảo
hiểm sẽ không bao gồm những trường hợp sau:
- Thiệt hại xảy ra cho bản thân xe được bảo hiểm.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe xảy ra cho chủ xe, người điều khiển
xe hoặc bật kì người nào khác đi trên xe được bảo hiểm.
- Thiệt hai của tài sản, hàng hốđang được chuên chở trên xe được bảo
hiểm.
- Thiệt hại gây ra cho hai xe cùng chủđâm va nhau.
- Trách nhiệm tài chính, trách nhiệm hình sự của lái xe.
Các khoản tiền phạt mà chủ xe và lái xe phải chịu.
1.2.3.1.4 Phạm vi bảo hiểm.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba có mục
đích bảo hiểm cho những rủi ro thuộc về trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới.
Trong các vụ tai nạn giao thông đường bộ, những thiệt hại của bên thứ ba được xem
xét bồi thường là những thiệt hại vật chất về người và những thiệt hại về tài sản
được tính tốn theo những nguyên tắc nhất định.
Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm được giới hạn trong phạm vi hạn
mức trách nhiệm đã thoả thuận trong hợp đồng hoặc đã ghi trong giấy chứng nhận
bảo hiểm. Trong bảo hiểm dân sự của chủ xe, phạm vi bảo hiểm có thể mở rộng
thêm với những rủi ro phụ. Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế và theo yêu cầu của
15

SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 15
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
người được bảo hiểm mà nhà bảo hiểm có thể mở rộng phạm vi bảo hiểm của mình
cho những rủi ro khác. Giống như bất kì nghiệp vụ bảo hiểm nào, những bảo đảm bổ
sung trong trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba kéo theo một
khoản phíđóng thêm của người được bảo hiểm.
1.2.3.1.5 Loại trừ bảo hiểm.
Nhà bảo hiểm còn có thể hoặc khước từ bồi thường hoặc áp dụng một số hình
phạt đối với chủ xe, lái xe trong những trường hợp tai nạn xảy ra do họđã vi phạm
nghiêm trọng luật lệ giao thông:
- Xe không có giấy phép lưu hành.
- Lái xe không có bằng lái hoặc có nhưng không hợp lệ.
- Điều khiển xe trong tình trạng say rượu, bia, ma tuý hoặc các chất kích
thích tương tự khác.
- Xe được sử dụng để chuyên chở chất cháy, chất nổ trái phép.
- Xe chở quá trọng tải hoặc quá số hành khách quy định.
- Xe đi vào đường cấm.
- Xe có hệ thống lái bên phải.
- Xe đi đêm không cóđèn hoặc chỉ cóđèn bên phải.
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao.
- DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại, tổn
thất xảy ra do:
- Hành động cốý gây thiệt hại của chủ xe, hoặc của người bị thiệt hại.
- Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an tồn kỹ thuật và môi
trường.
- Lái xe không có bằng lái hợp lệ (đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải
có giấy phép lái xe); lái xe có nồng độ cồn, rượu, bia vượt mức quy định của pháp
luật hiện hành, khi có kết luận bằng văn bản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
16
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 16

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
- Xe sử dụng để tập lái, đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi
sửa chữa (trừ khi có thoả thuận khác).
- Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm; xe đi đêm không cóđủđèn chiếu
sáng theo quy định.
- Chiến tranh và các nguyên nhân tương tự chiến tranh.
- Thiệt hại có tính chất gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương
mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại.
- Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn.
- Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng bạc, đá quý, tiền và
các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt.
1.2.3.1.6 Người được bảo hiểm.
Người được bảo hiểm hay là người thụ hưởng chính là nạn nhân, người bị
thiệt hại hay còn gọi là người thứ ba khác. Khái niệm người thứ ba được sử dụng
trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chỉ là những nạn nhân trong các vụ tai nạn giao
thông có thể là những người trực tiếp bị thương tật thân thể, cũng có thể là người có
tài sản bị thiệt hại do hậu quả của vụ tai nạn. Tùy thuộc vào từng vụ tai nạn cụ thể,
người thứ ba có thể một hay nhiều người, một thể nhân hay một pháp nhân dân sự
hoặc thương mại. Tuy nhiên, không phải bất kỳ người nào là nạn nhân trong các vụ
tai nạn cũng thuộc khái niệm người thứ ba.
1.2.3.1.7 Số tiền bảo hiểm.
Là giới hạn mức trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm cho một vụ tổn thất
hoặc cho một năm tổn thất.
Ơû Việt Nam số tiền bảo hiểm được tính theo vụ, bao gồm:
- Thiệt hại về người đối với người thứ ba: (người thứ ba là những
người không phải là lái xe, người ngồi trên xe và sở hữu xe – trừ trường hợp chủ xe
giao cho người khác chiếm hữu và sử dụng chiếc xe đó): Tối đa 30trđ/người/vụ
17
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 17
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng

(không giới hạn số người trong một vụđâm va, không giới hạn số vụđâm va trong
một năm)
- Thiệt hại về tài sản đối với thứ ba:Tối đa 30trđ/vụ (không giới hạn
số vụđâm va trong một năm)
1.2.3.1.8 Phí bảo hiểm.
Là số tiền đóng góp bắt buộc mà chủ xe phải có nghĩa vụ nộp cho NBH.Theo
quy định, DNBH và chủ xe có trách nhiệm thực hiện theo biểu phí và mức trách
nhiệm bảo hiểm tối thiểu ban hành theo Quyết định 23. Ngồi ra Bộ Tài Chính cũng
cho phép DNBH và chủ xe thoả thuận ở mức phí và mức trách nhiệm cao hơn (Điều
4, Quyết định 23).
Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế xã hội ở từng thời kì và căn cứ trên
lưu lượng xe mỗi năm cũng như số vụ tai nạn mà có sựđiều chỉnh mức phí và mức
trách nhiệm bảo hiểm sao cho phù hợp. Xét về khía cạnh kỹ thuật, theo GS-TS Hồ
Xuân Phương, phí bảo hiểm xe cơ giới có thểđược xác định theo phương pháp sau:
Mức phí bảo hiểm / năm/ xe = Phí tuần + Phụ phí
Phí thuần=


=
=
n
i
n
i
Ci
SiTi
1
1
Trong đó:
S

i
: mức độ tổn thất bình quân thuộc trách nhiệm của NBH trong một vụ tai
nạn năm thứ i.
T
i
: số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm của NBH , khi tính mức độ
tổn thất bình quân S
i
, với những vụ tổn thất có mức độ vượt quá hạn mức trách
nhiệm này thì chỉđược tính bằng hạn mức trách nhiệm.
i = 1  n: các năm lấy số liệu khảo sát.
18
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 18
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
Phần phụ phí bao gồm những chi phí của NBH tính bình quân cho một
phương tiện, những chi phí này bao gồm : hoa hồng ,môi giới ,chi phí quản lý hợp
đồng, chi phí in ấn, trả lương,…… Và chi phí phụ khác và thuế.
Nếu F là mức phí bảo hiểm phải đóng trong một năm, f là phí thuần, t là tỉ lêä
phụ phí thì bảo hiểm có thểđược xác định bằng công thức:
F =
t
f

1
Ngồi ra, khi xác định mức phí bảo hiểm, còn cần phải xem xét đến những yếu
tố sau:
- Khu vực (vùng) hoạt động của xe.
- Loại xe và tuổi xe.
- Nghề nghiệp của lái xe.
- Tuổi đời và tham niên của lái xe.

Tuỳ thuộc vào tình hình thực tế cũng nhưđiều kiện và khả năng thực thi mà
NBH còn có những chếđộ thưởng phạt. Chẳng hạn, để khuyến khích việc lái xe an
tồn, NBH có thể sẽ giảm chi phí bảo hiểm phải đóng cho những chủ xe có nhiều
năm không bị tai nạn. Ngược lại, NBH có thểáp dụng chếđộ phạt đối với những chủ
xe bằng việc tăng phí trong các trường hợp sau:
+ Lái xe ẩu bị nhiều tai nạn.
+ Xảy ra tai nạn trong tình hình say rượu, bia, ma tuý.
+ Chạy trốn sau tai nạn.
+ Vi phạm quy định về khai báo rủi ro, tổn thất.
+ Những vi phạm và man trá khác.
Về việc hồn phí bảo hiểm, Điều 6 Quyết định 23 quy định : “ DNBH phải
hồn trả lại cho chủ xe 80% phí bảo hiểm của thời gian hủy bỏ, trừ trường hợp trong
19
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 19
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
thời gian hợp đồng bảo hiểm đang có hiệu lực đã xảy ra sự kiện bảo hiểm liên quan
đến chiếc xe có yêu cầu huỷ bỏ bảo hiểm.”
Số tiền bồi thường :
Số tiền bồi thường (STBT) được tính căn cứ vào lỗi của chủ xe và mức độ
thiệt hại thực tế :
STBT = Thiệt hại thực tế x mức độ lỗi của xe STBH
Trong đó :
Mức độ lỗi của xe : căn cứ vào hồ sơ tai nạn do CSGT hay cảnh sát điều tra
cung cấp để xác định lỗi của chủ xe gây ra tai nạn :
+ Đối với những vụ tai nạn được giải quyết bằng thương lượng, hồ giải dân
sự giữa các bên, CSGT nơi thụ lý tai nạn giao thông báo trước cho NBH thống nhất
về phương pháp và cách thực hiện để buổi hồ giải có kết quả tốt, đồng thời cung cấp
cho NBH hồ sơ tai nạn.
+ Đối với những vụ tai nạn giải quyết theo trình tự tố tụng dân sự, trong
vòng 30 ngày kể từ ngày xảy ra tai nạn, cảnh sát điều tra sẽ cung cấp cho NBH kết

quảđiều tra tai nạn nhằm xác định lỗi vàđiều tra nguyên nhân của các bên có liên
quan, đồng thời cung cấp chứng từ cần thiết để NBH có căn cứ pháp lý ban đầu để
tạm ứng bồi thường.
Thiệt hại thực tế của nạn nhân, bao gồm những thiệt hại về tài sản và những
thiệt hại về người.
- Đối với những thiệt hại về tài sản, có thể chia làm hai trường hợp sau:
+ Trường hợp thứ nhất : Tài sản bị hư hỏng hồn tồn hoặc hư hỏng không
thể sửa chữa được. Trong trường hợp này thiệt hại về tài sản được xác định bằng giá
mua của tài sản cùng loại tương đương trên thị trường tự do hoặc chi phí hợp lýđể
làm lại tài sản đó.
20
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 20
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
+ Trường hợp thứ hai: Tài sản bị hư hỏng có thể sửa chữa được, thiệt hại
được tính theo chi phí thực tế hợp lýđể sửa chữa tài sản đó, nếu thì phải trừđi giá trị
hao mòn…
Trong từng trường hợp còn phải tính đến lợi ích của chủ sở hữu tài sản trong
việc sử dụng, khai thác tài sản đó.
Theo điều 10, quyết định 23 có quy định là mọi tổn thất về tài sản sẽđược
DNBH tiến hành giám định. Trường hợp chủ xe không thống nhất mức độ thiệt hại
do DNBH xác định, hai bên sẽ thoả thuận chọn giám định viên kỹ thuật chuyên
nghiệp thực hiện việc giám định. Kết luận của giám đinh viên được coi là kết quả
cuối cùng.
Trường hợp tài sản bị thiệt hại là những tài sản đặc biệt như vũ khí, trang
thiết bị của lực lượng vũ trang … thì việc xác định thiệt hại phải dựa vào ý kiến của
các cơ quan chức năng có thẩm quyền.
- Đối với thiệt hại về người :
Xác định thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ con người là một công việc phức
tạp bởi tính mạng con người là vô giá, sức khoẻ con người cũng khó thẩm định giá
trị. Như vậy thiệt hại về tính mạng sức khoẻ con người chỉ có thể tính tốn đuợc nếu

thống nhất một quan điểm đó là dựa vào hao phí vật chất để tạo điều kiện cho nạn
nhân và gia đình họ có thể khắc phục được hậu quả tai nạn, ổn định đời sống. Theo
quan điểm như vậy, để xác định thiệt hại về người một cách tương đối và hợp lý, có
thể chia làm hai trường hợp sau đây:
1) Trường hợp nạn nhân bị thương, được tính bằng những khoản chi phí
sau:
+ Chi phí hợp lý cho việc cấp cứu, điều trị, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ
và chức năng bị mất, bị giảm sút…
+ Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc nạn
nhân trong thời gian điều trị. Nếu người bị thiệt hại bị mất khả năng lao động và cần
21
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 21
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc
chăm sóc nạn nhân và khoản tiền cấp dưỡng cho những người bị thiệt hại có nghĩa
vụ cấp dưỡng (nếu có).
+ Tuỳ từng trường hợp, thiệt hại về con người tính đến một khoản tiền
bùđắp tổn thất về tinh thần mà nạn nhân phải gánh chịu như sựđau đớn về thể xác,
sự hoảng loạn thần kinh… ngồi ra còn tính đến những chi phíđưa đón nạn nhân, phí
tổn di chuyển bệnh viện, chi phí làm chân tay giả, mắt giả…
2) Trường hợp nạn nhân bị chết, được tính đến những khoản sau:
+ Chi phí cứu chữa, bồi dưỡng chăm sóc nạn nhân trước khi chết, mai táng
phí hợp lý.
+ Tiền cấp dưỡng cho những người mà khi còn sống nạn nhân có nghĩa vụ
cấp dưỡng như vợ, chồng, cha, mẹ, con …
+ Tiền bồi thường về tổn thất tinh thần cho những người thân thích, gần
gũi nhất của nạn nhân.
Trong trường hợp chủ xe có tham gia bảo hiểm trùng thì trách nhiệm của
DNBH sẽ căn cứ theo tỷ lệ tương ứng với số tiền bảo hiểm mà DNBH đã nhận bảo
hiểm.

1.2.3.2 Bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với hành khách trên xe.
Đây cũng là loại hình bảo hiểm bắt buộc được thực hiện theo NghịĐịnh 115
và Quyết định 23. Tại Điều 5, nghịđịnh 155 có quy định rõ: “ Chếđộ
BHTNDSCXCG quy định tại Nghịđịnh này bao gồm bảo hiểm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngồi hợp đồng do xe cơ giới gây ra đối với người thứ ba,
BHTNDSCXCG đối với hành khách trên xe theo hợp đồng vận chuyển hành
khách”.
1.2.3.2.1 Đối tượng bảo hiểm:
22
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 22
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
Ngồi trách nhiệm dân sựđối với chủ xe cơ giới đối với những thiệt hại về tính
mạng, sức khoẻ của hành khách phát sinh trong qúa trình vận chuyển theo hợp đồng
vận chuyển hành khách và chủ xe phải có nghĩa vụ bồi thường theo luật định .
Tuy nhiên hiện nay có vài thay đổi đối với hoạt động kinh doanh vận tải hành
khách. Theo Quyết định 19 ngày 3/2/2000 của Chính Phủ về việc bãi bỏ các loại
giấy trái phép với quy định của luật doanh nghiệp thì các giấy trái phép sau trong
lĩnh vực giao thông vận tải đường bộ bị bãi bỏ: giấy phép vận tải hàng hố, giấy phép
vận tải hành khách, giấy phép vận tải đường bộ. Mặt khác, theo Quyết định
729/1999/QĐ – BGTVT ngày 24/3/1999 của Bộ giao thông vận tải về quy chế hoạt
động của chủ xe ô tô vận tải hành khách theo phương thức hoạt động. Theo quyết
định này có hai phương thức đối với chủ xe kinh doanh vận tải hành khách: xe vận
chuyển hành khách có bán vé tại bến bãi và vận chuyển hành khách theo hợp đồng.
1.2.3.2.2 Người được bảo hiểm:
Là những hành khách trên xe cơ giới cóđăng ký kinh doanh vận chuểyn hành
khách bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ trong quá trình vận chuyển.
1.2.3.2.3 Số tiền bảo hiểm – phí bảo hiểm :
Giống như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng số tiền bảo hiểm chỉ tính
đối với người thiệt mạng, không tính cho tài sản, hành lý của hành khách.
1.2.3.2.4 Phạm vi bảo hiểm – loại trừ bảo hiểm:

Tương tự như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng NBH chỉ chịu
trách nhiệm bồi thường trong phạm vi số chỗ ngồi nhưđã kí kết trong hợp đồng bảo
hiểm hay Giấy chứng nhận bảo hiểm.
1.2.3.2.5 Số tiền bồi thường.
Được tính như BHTNDSCXCG đối với người thứ ba nhưng chỉ tính đối với
những thiệt hại về người.
1.2.3.3 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe cơ giới đối với hàng hố vận
chuyển trên xe:
23
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 23
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
Đây là loại bảo hiểm được thực hiện theo phương thức tự nguyện. Tuy nhiên,
nhà nước khuyến khích các chủ xe tham gia đểđảm bảo các an tồn cho các chủ xe và
hàng hố.
1.2.3.3.1 Đối tượng bảo hiểm:
Là trách nhiệm dân sự chủ xe đối với những thiệt hại của hàng hố chuyên chở
trên xe.
1.2.3.3.2 Người được bảo hiểm:
Chủ xe cơ giới có giấy phép đăng ký kinh doanh vận chuyển hàng hố hoặc
người thuê xe kinh doanh vận chuyển hàng hố.
1.2.3.3.3 Số tiền bảo hiểm – phí bảo hiểm:
Số tiền bảo hiểm (STBH) được xác định theo số trọng tải đăng ký:
STBH = Mức trách nhiệm bảo hiểm x số trọng tải đăng ký
Hiện nay, mức bảo hiểm thấp nhất là 10 triệu đồng/ tấn / vụ với mức phí
60.000 đồng / tấn. Ngồi ra chủ xe và doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận theo
mức trách nhiệm cao hơn.
1.2.3.3.4 Phạm vi bảo hiểm – loại trừ bảo hiểm :
Phạm vi bảo hiểm : NBH nhận bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ xe đối với
hàng hố vận chuyển theo hợp đồng vận chuyển giữa chủ xe và chủ hàng.
Trách nhiệm dân sự chủ xe ởù đây là số tiền chủ xe phải chịu trách nhiệm bồi

thường cho chủ hàng căn cứ theo “ thể lệ vận chuyển hàng hố bằng ô tô” ban hành
kèm theo quyết định số 1690/QĐ – VT ngày 15/9/1990 của Bộ giao thông vận tải và
bưu điện. Ngồi ra, DNBH còn thanh tốn cho chủ xe các chi phí cần thiết và hợp lý
nhằm :
- Ngăn ngừa và làm giảm nhẹ tổn thất cho hàng hố khi xảy ra tai nạn.
24
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 24
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Tiến Hùng
- Bảo quản, xếp dỡ lưu kho, lưu bãi hàng hố trong quá trình vận chuyển
do hậu quả của tai nạn.
- Giám định tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
- Loại trừ bảo hiểm : ngồi các loại trừđã nêu ở phần BHDSCXCG đối
với người thứ ba , DNBH không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong những
trường hợp:
- Xe chở hàng trái phép
- Chủ xe, lái xe không có trách nhiệm trong việc trông coi, bảo quản
hàng.
- Xe không thích hợp với loại hàng chuyên chở.
- Mất cắp
- Bắt giữ của cơ quan chức năng
- Hàng hố hư hỏng tự nhiên do không đủ phẩm chất, do bao bìđóng gói,
sắp xếp không đúng yếu cầu kỹ thuật.
1.2.3.3.5 Số tiền bồi thường (STBT):
Thiệt hại thực tế của Mức độ lỗi
STBT = Hàng hố vận chuyển X của chủ xe <= STBH
Nếu bồi thường 100% thì sau khi bồi thường NBH có quyền lưu hành thu hồi
giá trị của hàng hố. Ngồi ra NBH còn chi đòi đối với người thứ ba có lỗi và khi tính
thiệt hại thực tếđược áp dụng mức miễn thường.
25
SVTH: Hoàng Trọng Minh Hải Trang: 25

×