Tam quốc diễn nghĩa!
Đây là một tác phẩm rất hay. Trong chương trình lớp 10 chúng ta
sẽ học một đoạn trích của tác phẩm này. Để các bạn hiểu rõ hơn
về tác phẩm, mình sẽ đưa ra một số chi tiết đáng chú xung quanh
tác phẩm này.
Nguồn gốc
Tam quốc diễn nghĩa về phương diện biên soạn chủ yếu là công
lao của La Quán Trung, nhưng thực ra bộ tiểu thuyết này trước
sau đã trải qua một quá trình tập thể sáng tác lâu dài của rất
nhiều người.
Trước La Quán Trung, từ lâu chuyện Tam quốc đã lưu hành rộng
rãi trong dân gian truyền miệng, các nghệ nhân kể chuyện, các
nhà văn học nghệ thuật viết kịch, diễn kịch, đều không ngừng
sáng tạo, làm cho những tình tiết câu chuyện và hình tượng các
nhân vật phong phú thêm.
Cuối đời Nguyên đầu đời Minh, nhà tiểu thuyết La Quán Trung đã
viết bộ Tam quốc chí thông tục diễn nghĩa[3] chính là đã dựa trên
cơ sở sáng tác tập thể rất hùng hậu đó của nhân dân quần
chúng. Dĩ nhiên trong khi viết ông có tham khảo những bản ghi
chép của các nhà viết sử và các nhà văn khác, nhưng quan trọng
hơn là phần thể nghiệm cuộc sống phong phú của bản thân ông
và tài năng văn học kiệt xuất của ông.
Một trong những bản Tam quốc diễn nghĩa ra đời sớm nhất hiện
nay còn giữ được là bản in năm Giáp Dần niên hiệu Hoằng Trị
đời Minh (1494), năm Nhâm Ngọ Gia Tĩnh (1522) gồm có 24
cuốn 240 tiết. Từ đó về sau (gần 300 năm) nhiều bản Tam quốc
đã lưu hành, nhưng nội dung đều không có gì khác nhau lắm.
Truyện Tam quốc của La Quán Trung so với bản truyện kể của
đời nhà Nguyên, đại khái có mấy đặc điểm như sau:
Tước bớt một số phần mê tín, nhân quả báo ứng và những tình
tiết "quá ư hoang đường".
Viết thêm, làm nội dung cuốn truyện phong phú thêm rất nhiều, tô
vẽ tính cách và hình tượng nhân vật cho sâu sắc, đậm nét hơn.
Nâng cao ngôn ngữ đến mức nghệ thuật, tăng cường thêm sức
hấp dẫn của nghệ thuật.
Làm nổi bật lên một cách rõ ràng và mãnh liệt nhân dân tính và
xu hướng tính văn học là yêu Lưu Bị, ghét Tào Tháo, hướng về
nước Thục chống lại nước Ngụy trong toàn cuốn sách.
Nói tóm lại La Quán Trung đã đem những phần phong phú trong
truyện Tam quốc mà nhân dân quần chúng và những nghệ nhân
kể chuyện đã sáng tác ra, nâng cao lên thành một tác phẩm văn
học lớn lao nổi tiếng.
Đầu đời Thanh, hai cha con Mao Luân, Mao Tôn Cương (người
Tràng Châu tỉnh Giang Tô) lại bắt đầu tu đính truyện Tam quốc.
Công việc tu đính này hoàn thành vào khoảng năm Khang Hy thứ
18 (1679).
Mao Tôn Cương đã gia công, thêm bớt, nhuận sắc những chi tiết
nhỏ, sắp xếp lại các hồi mục, câu đối, sửa chữa lại câu, lời trùng
hoặc những chỗ chưa thỏa đáng. Ông đã tước bỏ rất nhiều
những chương tấu, những bài bình luận, tán rộng trong phần chú
thích, thay đổi một số câu thơ lẫn lộn văn kể với văn vần,v v và
thêm vào đó những lời bàn, dồn 240 tiết thành 120 hồi, lại đặt cho
bộ Tam quốc cái tên là "cuốn sách đệ nhất tài tử". Làm cho
truyện càng hoàn chỉnh, văn kể trong sáng, gọt giũa, trên một
mức độ nào đó cũng đã làm tiện lợi cho mọi quần chúng độc giả.
Từ đó bản của Mao Tôn Cương thay bản của La Quán Trung,
tiếp tục được lưu truyền rộng rãi.
Năm 1958, Nhân dân Văn học Xuất bản xã Bắc Kinh đã chỉnh lý
lại nhiều, bằng cách dựa vào bản của Mao Tôn Cương hiệu đính
rất kỹ từng câu, từng chữ, từng tên riêng có đối chiếu với bản của
La Quán Trung rồi sửa chữa lại những chỗ mà bản của Mao Tôn
Cương đã sửa hỏng, sửa sai với nguyên bản của La Quán Trung,
nhưng nói chung vẫn giữ nguyên bộ mặt của bản Mao Tôn
Cương. Còn những tên lịch sử đặc biệt như tên người, tên đất,
tên chế độ nếu cả hai bản trên đều sai, thì hiệu đính lại theo sử
sách. Nên các lần in sau hầu hết đều lấy theo bản in này.
Cốt truyện
Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những
hoàng đế cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà
gạt bỏ những bề tôi trung trực. Triều đình ngày càng bê tha, hư
nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn. Đến đời Hán Linh
Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã
học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu.
Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được
quân nổi loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà nhậm được
chức đại tướng quân của triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc
mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào cung và giết chết.
Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch
đám hoạn quan này.
Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây
Lương. Đổng Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó
ông ta phế truất Thiếu Đế và lập Trần Lưu Vương lên làm hoàng
đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính vào tay mình.
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô
cùng phẫn nộ, họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng
Trác dời đô từ Lạc Dương về Trường An. Cuối cùng Đổng Trác bị
giết bởi chính người con nuôi là Lã Bố, một chiến binh dũng
mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền.
Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục nội bộ với nhau, Tôn
Kiên, cha của Tôn Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã
lấy được ngọc tỷ triều đình. Không còn triều đình trung ương
vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình và bắt
đầu giao chiến với nhau. Nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu
Bị, mặc dù chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt
đầu xây dựng lực lượng riêng.
Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khuôn
mặt ông được tô trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng.
Quyền lực của Tào Tháo ngày một mạnh lên sau một loạt những
sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự đánh Viên Thiệu, chiến
thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất bại của
Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt
đối khắp miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam
và tự đem quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại. Lưu Bị
bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu Biểu là một người anh họ xa của Lưu
Bị cho lánh nạn. Tại đó Lưu Bị, sau ba lần đến thăm lều cỏ của
Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần
đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách. Chỉ có
lần cuối cùng vì cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu
Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết định theo phò tá.
Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ.
Sau khi trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhòm ngó về phía
nam. Ông ta tự đem quân đi chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng
dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh bị xâm chiếm, toàn
bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành đưa
dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu
Biểu, tại đây Lưu Bị bị từ chối không cho vào thành. Không còn
cách nào khác ông phải tiếp tục nam tiến xuống Giang Hạ (江夏),
là thành của Lưu Kỳ người con trưởng của Lưu Biểu. Ở Giang
Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để
chống lại cuộc tấn công dữ dội của Tào Tháo.
Còn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái
chết của người anh là Tôn Sách. Cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều
định liên kết với Tôn Quyền. Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình
đến quận Sài Tang (柴桑) và thuyết được Tôn Quyền hợp tác với
Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của Tào
Tháo tại trận Xích Bích.
Nơi từng diễn ra trận Xích Bích
Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối
đe dọa tiềm tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó,
Lưu Bị mắc mưu sang Sài Tang để làm lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn
Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái Phu Nhân; bà này rất quý
Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của
Gia Cát Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về
Giang Hạ cùng với người vợ mới.
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào
Tháo chết vào năm 219 (có lẽ do u não). Năm sau đó, con thứ
của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập ra nhà Ngụy. Đáp
lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng
máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô Thục).
Lúc này, Tôn Quyền lại ngả về phía Ngụy. Ông ta chịu để Tào Phi
phong vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung
lực lượng chống Lưu Bị, người đã từng khởi binh đánh Ngô để
trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết.
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng
vội của Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục. Tuy nhiên, Lục
Tốn (陆逊), quân sư phía Ngô đã từng chĩa mũi nhọn tấn công về
phía Thục, đã ngưng không tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin
vào đòn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi phát động một cuộc
xâm lược vào nước Ngô vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn còn
ở ngoài nước. Cuộc tấn công đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết
liệt của quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân
Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai
Lưu Thiện còn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc.
Nắm bắt cơ hội này, Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng,
trong đó có Tôn Quyền và các bộ tộc thiểu số để tấn công nước
Thục. Một sứ giả của Thục thuyết được Tôn Quyền lui quân,
nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu
số.
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là
tiến hành chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người
Man (蛮族). Gia Cát Lượng đã bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần
nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì cảm động bởi
mưu trí và lòng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi
gắn bó với nhà Thục.
Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng
liền nhìn về phía bắc. Tuy thế, ông không còn sống được bao lâu
nữa. Chiến thắng đáng kể cuối cùng của ông chống lại quân
Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về phía mình.
Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy, về tài năng có thể
nói là một chín một mười nếu so với Gia Cát Lượng. Khương
Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại
nhà Ngụy tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu
Thiện đầu hàng. Khương Duy bày mưu kích động xung đột giữa
hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất sát đến thành
công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh
cuối cùng. Ông liền dùng kiếm tự vận, đánh dấu kháng cự cuối
cùng của nhà Thục.
Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy
liên tục đổi ngôi. Nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào
thời Tào Hoán, cháu đại thần Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào
Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép Hiến Đế, tức là
Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265.
Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo (孙皓) đến năm 280 bị Tấn Vũ
Đế chinh phục. Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán,
Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống cho đến tận cuối đời. Và thế là
thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau gần một thế kỷ
đầy xung đột.