Phân tích bắt sấu rừng U Minh Hạ
Bắt sấu rừng U Minh Hạ là một truyện ngắn đăng trên
tuần báo Nhân loại (1957), sau in trong tập truyện Hương
rừng Cà Mau (NXB Phù Sa, Sái Gòn, 1962). Toàn tập
gồm 18 truyện, thể hiện sinh động cảnh quan, đời sống,
truyền thống lịch sử và phẩm chất tính cách con người ở
mảnh đất cực nam của chúng ta. Tác giả giúp người đọc
hiểu và yêu Hòn Cổ Tron, sông Gành Hào, đàn ong mật,
những đêm hát bội giữa rừng, cuộc đua ghe ngo,v.v… nổi
bật trên bức tranh dân dã quê hương đó là những người
nông dân đôn hậu, chất phác, chân thật, dũng cảm ;
những người đổ mồ hôi và đổ máu để khai phá và giữ gìn
từng tấc đất cho gia đình và cho Tổ Quốc.
Những nhân vật của Hương rừng cà mau cũng có những
nét khác thường độc đáo. Họ là những dị nhân sống trong
một thời buổi giao thời, đơn giản bình dị nhưng nhiều khi
cũng có trí phán đoán sâu sắc. Nghe ông già nam xay lúa
bàn chuyện thời tiết đất trờitrong chuyện “ông già xay lúa”
hay nghe ông mù Vân Tiên bàn về chuyện cá ăn câu
trong”người mù giăng câu”, chúng ta mới thấy được cái
học trong đời sống không phải chỉ ở học đườngmà còn là
kinh nghiệm từ hàng ngàythu lượm được. Và , trong từng
ngôn ngữ, từng cử chỉ, vẫn bàng bạc một lòng yêu nước,
yêu tự nhiên.
Về tác phẩm “bắt sấu rừng U Minh hạ”
- Những nét đặc sắc về nội dung:
Câu truyện như tái hiện lại toàn cảnh thiên nhiên vùng U
Minh hạ cũng như cảnh sinh hoạt, mưu sinh của người
dân nơi đây.
Thiên nhiên hiểm trở với bao nhiêu mối đe dọa tới cuộc
sống của con người.
“…nhưng có tiếng khóc sụt sùi đâu đây. Ðó là vài cụ già,
bà lão chạnh nhớ đến tổ tiên, đến bạn bè của mình, biết
đâu trên bước đường sanh nhai giữa chốn nước đỏ rừng
xanh, có thân nhân của họ đã bỏ thân vì đàn sấu này. Bó
nhang đang cháy kia có giải oan được cái chết của họ
không chớ? ”
Hơn thế nữa, rừng rậm U Minh không chỉ nổi tiếng với vẻ
hoang xơ của mình, mà còn được biết đến với nguồn
động vật phong phú. Trong đó phải kể đến là loài cá sấu.
“ nơi sông rạch, cá sấu là giống hung hăng nhất. Có điều
đáng chú ý là chúng không thích những chốn sông nước
chảy, có sóng gió. Chúng lên tận ngọn cùng, tìm nơi yên
tịnh, chật hẹp. Vùng U Minh hạ, sấu thường đi ngược
sông Ông Ðốc, rạch Cái Tàu vào giữa rừng tràm…”
Nói đến đàn sấu ở rừng U Minh, trước hết ta phải nói đến
số lượng.
“ – Sấu ở giữa rừng nhiều như trái mù u chín rụng !
So sánh như vậy, không phải quá đáng ! Dân làng xúm
nhau lên rừng để nhìn tận nơi. Cái ao lớn ước một công
đất, bên bờ, dưới nước, toàn là lau sậy, dây cóc kèn. Sấu
nổi lên, chen vào bức tranh màu xanh ấy những vệt đen
chi chít …”
Không chỉ nhiều mà đàn sấu nơi đây còn to lớn , khôn
lanh.
“…con thì nằm dài như chiếc xuồng lường, con thì dùng
hai chân trước mà vạch sậy, ngóng mỏ xéo lên trời như
họng súng thần công đại bác. Biết có loài người đến quan
sát, chúng vẫn điềm nhiên sưởi nắng, bắt cá.Duy có con
sấu già trợn mắt hướng về lũ người rồi bò thối lui. Nghi
ngờ gì nữa! Con sấu nọ có đốm đỏ ngay giữa tam tinh. Nó
là “sấu chúa” sống lâu đời, nhiều phen kịch chiến với loài
người. Khi ở trên cạn, sấu khôn nguy hiểm bàng nột con
rắn hổ. Sấu chúa khôn lắm, nó toàn dụ địch thủ vào hang
của no ù nơi nước sâu.”
Tuy vậy, thiên nhiên nơi đây vẫn là chỗ ở, là nơi để người
dân kiếm kế sinh nhai. Cho nên, họ vẫn tiếp tục ở lại ,
bám giữ mảnh đất của tổ tiên và ra sức cải tạo nơi đây
ngày một tốt đẹp hơn .
“… , cứ như vậy cho đến khi người Việt Nam ta đổ tràn
xuống rạch Cái Tàu mà lập nghiệp. Ban đầu, họ ngỡ rằng
sấu chỉ ở dưới sông, sau khi câu được chừng năm mươi
con sấu ở ngọn rạch, họ dinh ninh cho là sấu đã giảm
bớt…mười phần chết bảy còn ba…”
Bằng chính nghị lực của bản thân, họ đang cố tìm cách
chiến đấu lại với thiên nhiên, chiến đấu với những thế lực
đàn áp mình.
“Trong số những người khi nãy, có kẻ cẩn thận mang theo
mác thông, lao , ná lẫy, nhưng họ dư hiểu rằng mớ khí
giới ấy chỉ có hiệu lực đối với cọp, heo rừng, đằng này,
sấu lại là loài ở nước, ở bùn lầy. Chống xuồng vào thì quá
cạn còn đi bộ xuống thì lún ngập gối.”
Cuối cùng, nhờ sự kiên trì, lòng quyết tâm, dũng cảm và
tài trí của mình, con người đã tháng được thiên nhiên và
hơn thế nữa, họ đã thắng được chính mình.
“ Dưới sông, Tư Hoạch ngối trên xuồng, bơi nhè nhẹ như
đi dạo mát.
Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu, con này buộc nối đuôi
con kia, đen ngòn như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai
chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt
nước cầm chừng như tiếp sức với Tư hoạch để đẩy chiếc
bè quái dị kia đi nhẹ nhàng…”
+ Nhân vật ông Năm Hên:
Ông Năm Hên là nhân vật được tác gia xây dựng nhằm
nói lên sự dũng cảm và tài trí của con người Nam Bộ.
Hoàn cảnh của ông thật éo le.
“… Nói thiệt với bà con : cha mẹ tôi sanh ra chỉ có hai anh
em tụi tôi. Anh tôi xuống miệt Gò Quao phá rừng lập rẫy
hồi mười hai n8m về trước. Sau được tin cho hay : ảnh bị
sấu ở ngã ba Ðình bắt mất. Tôi thề quyết trả thù cho
anh…”
Với chút mưu mẹo của mình, ông Năm đã giúp bà con bắt
được lũ sấu và được bà con quý trọng như “một bậc
thánh nhân”
“-thực là bậc thánh của xứ này rồi! Mưu kế như vậy thật
quá cao cường. Oång đâu rồi ? sao không thấy ổng về?
Xóm mình nhất định đền ơn ổng một số tiền, nuôi ổng cho
tới già, ở xóm này, bà con tính sao? “
Và khi công việc đã hoàn thành, ông vẫn không quên
những người đã khuất và thắp cho họ một nén nhang.
Ðiều đó cho thấy ông Năm là một người rất trọng tình
nghĩa, sống với nộ tâm
“Chưa dứt lời, bên sông nghe tiếng hát của ông Năm Hên,
ngày một rõ:
Hồn ở đâu đây?
Hồn hỡi ! Hồn hỡi !
Xa cây xa cối,
Xa cội xa nhành,
Ðầu bãi cuối gành,
Hùm tha, sấu bắt,
Bởi vì thắt ngặt,
Manh áo chén cơm,
U Minh đỏ ngòm,
Rừng tràm xanh biếc !
Ta thương ta tiếc
Lập đàn giải oan…
Tiếng như khóc lóc, nài nỉ. Tiếng như phẫn nộ, bi ai. Ghê
rợn nhứt là khi thấy ông đi ra khỏi mé rừng, áo rách vai,
tóc rối nùi, mắt đỏ ngầu, bó nhang cháy đỏ quơ qua quơ
lại trên tay.”
+ Cảnh bắt sấu :
Ðây là một trong những cao trào của câu truyện mà chúng
ta không thể bỏ qua. Nó thể hiện đầy đủ những kinh
nghiệm, vốn sống, tài trí cũng như lòng dũng cảm của ông
Năm Hên.
“tới ao sấu, ông Năm hên đi vòng quanh dòn địa thế rồi
ngồi xuống uống một chung rượu. Kế đó ổng với tôi lấy
xuổng đào một đường nhỏ, ngày một cạn, từ bờ ao lên
rừng chừng mười thước. Xong xuôi, ổng biểu tôi bứt cho
ổng một nắm dây cóc kèn. Phần ổng thì lo đốn một đống
cây mốp tươi, chặt ra khúc chừng ba tấc.
lửa châm vô sậy đế, cóc kèn xung quanh, bắt cháy xuống
đám sậy để trong ao. Chập sau, bị khói cay mắt, ngộp
thở, phần thì nước sôi nóng, sấu bò lên rừng theo con
đường đào sẵn hồi nãy. Tức thời, ông Năm Hên chạy lại.
Sấu há miệng hung hăng đòi táp ổng. Ổng đút vô miệng
sấu một khúc mốp. Sấu táp lại, dính chặt hai hàm răng :
như mình ngậm một cục mạch nha quá lớn, muốn h1
miệng cho rộng để nhả ra cũng không được. Sấu bị khúc
mốp khóa miệng, còn cái đuôi đập qua đập lại. Ôâng Năm
xách cây mác nhắm ngay sau lưng sấu mà xắn nhè nhẹ
để cắt gân đuôi. Ðuôi sấu bị liệt. Thế là mình yên trí, lấy
dây cóc kèn trói thúc ké hai chân sau của nó lại, chừa hai
chân trước để nó bơi tiếp với mình”
- Những nét đặc sắc về nghệ thuật:
+ những phương ngữ được dùng vừa phải, thích hợp :
táp, xuổng, ăn ong…
+ cách kể chuyện gọn và sáng.
+ tính cách nhân vật được thể hiện sinh động mà chỉ bằng
vài chi tiết đơn sơ
III. KẾT LUẬN :
Mỗi vùng đất của Tổ Quốc ta có những nét đặc sắc, kì thú
riêng. Vốn gắn bó quen thuộc với đất rừng phương nam,
qua truyện ngắn này, nhà văn Sơn Nam đã đem đến cho
người đọc một bức tranh độc đáo : vùng rừng tràm xanh
ngắt lau sậy, mốp, cóc kèn…Và thật lạ lùng “ sấu ở giữa
rừng nhiều như trái mù u chín rụng!”. Người nông dân
rạch Cái Tàu đã phải tạo dựng cơ đồ trên vùng đất hoang
vu, dữ dội đó. Chính vì thế, người đọc như được thám
hiểm những vùng đất mới với biết bao điều bí ẩn của thiên
nhiên và con người.
Truyện mang phong vị Nam Bộ rất đậm đà. Sắc thái độc
đáo này được tạo nên bởi những yếu tố nghệ thuật đặc
sắc. Chính vì thế truyện này cũng như tập Hương rừng
Cà Mau nói chung có dáng dấp riêng, khó lẫn