Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.49 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO
TẠO
TRƯỜNG…………………
Luận
văn
Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ
cho
phụ nữ nông thôn phát triển kinh
tế
Trang 1
Trang 2
1. Lý do chọn đề tài
PHẦN MỞ ĐẦU
Từ xưa đến nay, dù ở vị trí nào người phụ nữ cũng luôn có những vai trò đặc biệt
quan trọng. Trong gia đình, họ là người mẹ, người vợ đảm đang; ngoài xã hội họ là người
giỏi dang, tháo vát. Thực tế cho thấy, có không ít những phụ nữ thành đạt trong cuộc sống,
trong số đó có một bộ phận không nhỏ những phụ nữ nắm giữ những vị trí quan trọng
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội… Tuy nhiên, với “thiên chức” làm
mẹ, người phụ nữ phải mất khá nhiều thời gian cho việc sinh con và nuôi dạy con. Bên
cạnh đó, họ còn phải gánh vác các công việc nội trợ của gia đình, chính vì thế thời gian để
họ tiếp cận cơ hội phát triển còn hạn chế.
Hiện nay, với xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam đang đứng trước cơ hội hội nhập và
phát triển nhưng điều đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Những rủi ro của cơ chế kinh tế thị
trường có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của đại bộ phận nhân dân. Trong đó, phụ nữ là
bộ phận chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặt biệt là phụ nữ nông thôn. Để giúp phụ nữ đối phó
những khó khăn này; Nhà nước đã có một số chính sách nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ
phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham gia hoạt động xã hội.
Thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên thuộc khu vực duyên hải Nam trung bộ có điều kiện
kinh tế – xã hội về cơ bản còn khó khăn. Trong 14 xã, phường của thị xã thì Xuân Bình là
một trong những xã có điều kiện kinh tế chậm phát triển, đời sống của người dân trong
nhiều năm trở lại đây gặp nhiều khó khăn, đời sống của nhân dân nhìn chung còn thấp. Mặt


khác, do điều kiện tự nhiên không được ưu đãi, hàng năm còn chịu nhiều ảnh hưởng của
bão lũ, thời tiết bất thường nên hoạt động kinh tế của nhân dân còn gặp nhiều trở ngại.
Chính vì lẽ đó, nhu cầu được quan tâm, hỗ trợ để phát triển kinh tế gia đình của người dân
nói chung và của phụ nữ nói riêng là rất lớn. Trong những năm qua, chính quyền xã và trực
tiếp là Hội liên hiệp phụ nữ xã đã triển khai thực hiện một số chính sách của Nhà nước
nhằm hỗ trợ, khuyến khích phụ nữ phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống và tham
gia hoạt động xã hội. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện một số chính sách hỗ trợ phụ nữ
vẫn chưa đem lại kết quả như mong muốn.
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Hiệu quả của
một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế” nhằm tìm hiểu về thực
trạng của việc thực hiện chính sách, qua đó chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng
và đề xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách
này.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu của chúng tôi hướng tới việc tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số
chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông
Cầu, tỉnh Phú Yên; đánh giá, phân tích chỉ ra nguyên nhân dẫn đến thực trạng; từ đó đề
xuất một số khuyến nghị góp phần nâng cao hiệu quả của các chính sách này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về chính sách xã hội và phát triển cộng đồng.
- Tìm hiểu thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông
thôn phát triển kinh tế tại xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
- Chỉ ra những nguyên nhân của thực trạng trên.
- Đề xuất những khuyến nghị góp phần thực hiện các chính sách hiệu quả hơn.
3. Đối tượng, phạm vi và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã
Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Trong điều kiện và khả năng nghiên cứu còn hạn chế, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở 100
phụ nữ ( ứng với 100 hộ gia đình) ở 05 thôn của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú
Yên.
3.3. Khách thể nghiên cứu
Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên khách thể là 100 phụ nữ (ứng với 100 hộ gia
đình) của xã Xuân Bình, thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên.
Cụ thể số l

ư ợ

ng n h

ư sau:
TT
4. Giả thuyết nghiên cứu
- Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế gia đình là rất quan trọng. Tuy
nhiên, nhiều phụ nữ ở nông thôn ở xã Xuân Bình chưa có công ăn việc làm ổn định, đời
sống kinh tế gia đình còn nhiều khó khăn. Trong khi đó, hiệu quả
của

một
số chính
sách của Nhà nước nhằm hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ổn định cuộc sống
gia đình còn thấp.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng về hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho
phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế hiện nay. Trong đó, vửa có nguyên nhân xuất phát từ
phụ nữ vừa có nguyên nhân xuất phát từ chính quyền địa phương.
- Với những nguồn lực của địa phương: sự quan tâm hỗ trợ của Nhà nước và chính quyền
các cấp, nguồn lao động nữ dồi dào, cơ hội việc làm cho lao động nữ từ khu công nghiệp

Đông Bắc Sông Cầu, trong tương lai những chính sách hỗ trợ cho
phụ

nữ
nông thôn phát
triển kinh tế ở xã Xuân Bình sẽ được phát huy và hiệu quả ngày càng cao, kinh tế của phụ
nữ ngày càng phát triển, đời sống của họ ngày càng được cải thiện.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật
biện chứng, phương pháp luận Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, chúng tôi còn sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp trưng cầu ý kiến.
- Phương pháp nghiên cứu, phân tích tài liệu.
- Phương pháp phỏng vấn.
- Phương pháp quan sát.
- Phương pháp lân la trò chuyện với người dân.
- Phương pháp thống kê toán học, đánh giá qua kết quả thực tế điều tra.
6. Ý nghĩa của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm vào hệ thống cơ sở lý luận của khoa học
Chính sách xã hội. Đồng thời sẽ làm tài liệu góp phần phục vụ cho nhu cầu tham khảo,
nghiên cứu của sinh viên ngành Công tác xã hội sau này.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu góp phần giúp cho chúng ta có cái nhìn đầy đủ về thực trạng
hiệu quả của một số chính sách hỗ trợ cho phụ nữ nông thôn phát triển kinh tế ở xã Xuân
Bình. Từ đó đề xuất những kiến nghị góp phần giúp cho chính quyền địa phương có những
định hướng và những giải pháp thực thi những chính sách này đạt
hiệu quả cao hơn.
1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
CHƯƠNG

I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nói về phụ nữ, người ta thường nhắc đến cuốn sách “Vai trò của phụ nữ trong
phát triển kinh tế” của Ester Boserup (1970). Theo nhà khoa học nữ này thì cho đến những
năm 1970, những nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù phụ nữ thường là những người có đóng
góp chính vào năng suất chủ yếu của cộng đồng, nhất là trong nông nghiệp, nhưng những
đóng góp của họ không được tính đến trong thống kê quốc dân cũng như trong kế hoạch
hoá và thực hiện các dự án phát triển. Cuốn sách của E. Boserup đã được coi là lần đầu tiên
đặt lại vấn đề trong cách đánh giá về vai trò của phụ nữ, qua cuốn sách của mình, bà đã
chứng minh vai trò kinh tế của phụ nữ thông qua nghiên cứu phụ nữ nông dân vùng Tây
Sahara, châu Phi. Một điều mà trước đây, các nhà tạo lập chính sách và trong giới nghiên
cứu kể cả những nhà khoa học nữ đã không thấy hết và do vậy không công nhận một cách
đúng đắn vai trò kinh tế rất quan trọng của phụ nữ.

Việt Nam, công trình nghiên cứu về phụ nữ đầu tiên xuất bản được
phát
hành
rộng rãi và dịch ra nhiều thứ tiếng là cuốn “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại”
của

Thị Nhâm Tuyết (1973, 1975). Trong cuốn sách, tác giả đã phân tích những nét cơ bản
về các truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt về
vai trò truyền thống của phụ nữ Việt Nam trong sản xuất nông nghiệp. Cuốn sách đã
trình bày nhiều tư liệu có giá trị khoa học, gây tiếng vang trong giới nghiên cứu. Sau gần
một phần tư thế kỷ, tác giả cuốn sách “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” lại cho xuất
bản cuốn “Hình ảnh Phụ nữ Việt Nam trước thềm thế kỷ XXI”. Như lời giới thiệu
cuốn
sách
của GS. Vũ Khiêu: Cuốn sách này đã thu thập những ý kiến khác nhau xung quanh
những vấn đề lớn của người phụ nữ Việt Nam và đặc biệt là giới thiệu các kết quả thu

được qua các cuộc điều tra khoa học. Cuốn sách tập trung vào những đặc trưng của
người phụ nữ Việt Nam trong lịch sử, trong lao động nghề nghiệp, trong gia đình, trong
quản lý xã
hội.
Từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, có nhiều cuốn sách xuất bản với nội
dung đề cập đến vấn đề phụ nữ với phát triển kinh tế hoặc bàn về phụ nữ với phát triển
nông nghiệp, nông thôn. Để tiện theo dõi, chúng tôi chia theo một số chủ đề như
sau:
Phụ nữ và phân công lao động theo giới:
Phân công lao động theo giới trong gia đình nông dân (Lê Ngọc Văn, 1999); Phân
công lao động trong kinh tế hộ gia đình nông thôn - vấn đề giới trong cơ chế thị trường (Vũ
Tuấn Huy, 1997); Phân công lao động nội trợ trong gia đình (Vũ Tuấn Huy và Deborah
Carr, 2000).
Phụ nữ với phát triển ngành, nghề:
Tìm hiểu cơ cấu kinh tế và khả năng phát triển ngành nghề của phụ nữ nông thôn
(Lê Ngọc Lân, 1997); Vấn đề ngành, nghề của phụ nữ nông thôn với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (Lê Thi, 1999); Phụ nữ nghèo nông thôn trong
cơ chế thị trường (Đỗ Thị Bình và Lê Ngọc Lân, 1996); Vấn đề tạo việc làm, tăng thu
nhập, nâng cao địa vị người phụ nữ hiện nay (Lê Thi, 1991); Lao động nữ di cư từ nông
thôn ra thành phố (Hà Thị Phương Tiến - Hà Ngọc Quang, 2000)
Những công trình trên, tập trung nghiên cứu khá sâu sắc những vấn đề về phụ nữ
nhưng chưa có công trình nào thực sự tập trung vào nghiên cứu về hiệu quả của những
chính sách hỗ trợ cho phụ nữ ở nông thôn phát triển kinh tế.
2. Các khái niệm
2.1. Chính sách xã hội
- Khái niệm:
Từ những định nghĩa và phân tích khái niệm về xã hội và chính sách như trên ta có
thể đi đến cách tiếp cận sau về chính sách xã hội. “Cái xã hội” dùng trong chính sách xã
hội là “cái xã hội” theo nghĩa hẹp. Nó đang được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất hiểu
như mối quan hệ của con người, của các cộng đồng người thể hiện trên nhiều mặt của đời

sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng.
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau, nhiều nhà nghiên cứu có sự nhìn nhận khác nhau
về chính sách xã hội, cụ thể như sau:
+ Chính sách xã hội là công cụ quan trọng của Đảng và Nhà nước để thực hiện và
điều chỉnh những vấn đề xã hội đang được đặt ra đối với con người (con người ở đây được
xét theo góc độ con người xã hội, chứ không phải là con người kinh tế, hay con người kỹ
thuật…) để thỏa mãn hoặc phần nào đáp ứng các nhu cầu cuộc sống chính đáng của con
người, phù hợp với các đối tượng khác nhau, trong những trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội
của các thời kỳ nhất định, nhằm bảo đảm sự ổn định và phát triển của xã hội…( Phạm Tất
Dong - Chính sách xã hội)
+ “Hiểu theo ý nghĩa khái quát nhất, chính sách xã hội là hệ thống các quan điểm,
cơ chế, giải pháp và biện pháp mà Đảng cầm quyền và Nhà nước đề ra tổ chức thực hiện
trong thực tiễn đời sống nhằm kiểm soát, điều tiết và giải quyết các vấn đề xã hội đặt ra
trước xã hội” (PGS.TS Phạm Hữu Nghị).
+ Chính sách xã hội là loại chính sách được thể chế bằng pháp luật của Nhà Nước
thành một hệ thống quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết
những vấn đề xã hội nhất định, trước hết là những vấn đề xã hội liên quan đến công bằng
xã hội và phát triển an sinh xã hội, nhằm góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội.
(PGS.TS.Lê Trung Nguyệt).
+ Chính sách xã hội trước hết là một khoa học, chính sách xã hội phải là thành tựu
của những sự nghiên cứu nghiêm túc của khoa học xã hội, trả lời những câu hỏi của cuộc
sống, ở dạng hoạt động thực tiễn của đặc thù này. Chính sách xã hội cần được xem xét như
một lĩnh vực khoa học đặc thù, bám chắc vào sự vận động của thực tiễn, khoa học nghiên
cứu về chính sách xã hội cần phải mạnh dạn trả lời những câu hỏi đặt ra từ thực trạng kinh
tế xã hội nước ta hiện nay. (GS. Phạm Như Cương).
Từ định nghĩa về chính sách xã hội nêu trên có thể thấy rằng khái niệm chính sách
xã hội bao gồm những yếu tố cơ bản hợp thành sau
đây:
• Thứ nhất, chủ thể đặt ra chính sách xã hội: tổ chức chính trị lãnh đạo.



nước
ta là Đảng Cộng sản, Nhà nước và các tổ chức hoạt động xã hội.
• Thứ hai, nội dung các chính sách xã hội dựa trên những quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo và thể chế nào?
• Thứ ba, các đối tượng của các chính sách xã hội (chung, riêng, đặc biệt).
• Thứ tư, những mục tiêu nhằm đạt tới.
Hay nói cách khác là cần trả lời bốn câu hỏi sau:
• Ai đặt ra chính sách xã hội?
• Đặt chính sách xã hội cho ai?
• Nội dung của các chính sách xã hội là gì?
• Chính sách xã hội nhằm mục đích gì?
Như vậy, có thể coi chính sách xã hội là sự tổng hợp các phương thức, các biện
pháp của Nhà nước, của các đảng phái và những tổ chức chính trị khác, nhằm thoả mãn
nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước về
kinh tế, văn hoá, xã hội … Chính sách xã hội là sự cụ thể hoá và thể chế hoá bằng pháp
luật những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
- Đặc trưng của chính sách xã hội:
Chính sách xã hội bao giờ cũng liên quan trực tiếp đến con người, bao trùm mọi mặt
của cuộc sống con người, lấy con người và các nhóm người làm đối tượng tác động để
hoàn thiện và phát triển con người, hình thành các chuẩn mực xã hội và giá trị xã
hội.
Chính sách xã hội mang tính xã hội, nhân văn sâu sắc, bởi mục tiêu cơ bản của nó là
hiệu quả xã hội, góp phần ổn định, phát triển và tiến bộ xã hội, bảo đảm cho mọi người
sống trong nhân ái, bình đẳng và công bằng.
Chính sách xã hội của Nhà nước thể hiện trách nhiệm xã hội cao, tạo điều kiện, cơ
hội như nhau để mọi người phát triển và hòa nhập vào cộng đồng. Sự đầu tư của nhà nước,
sự trợ giúp của cộng đồng không phải là sự bao cấp hay cứu tế xã hội theo kiểu ban ơn, mà
là trách nhiệm của toàn xã hội, là sự đầu tư cho phát triển.
Hiệu quả của chính sách xã hội là ổn định xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống,

bảo đảm công bằng xã hội. Để thực hiện chính sách xã hội đạt đúng các mục tiêu, đối
tượng và hiệu quả phải có những điều kiện đảm bảo ở mức cần thiết để chính sách đi vào
cuộc sống. Chính sách xã hội phải được kế hoạch hóa bằng các chương trình, dự án có mục
tiêu, hình thành các quỹ xã hội, phát triển hệ thống sự nghiệp hoặc dịch vụ xã hội, tăng
cường lực lượng cán sự xã hội.
Chính sách xã hội còn có đặt trưng quan trọng là tính kế thừa lịch sử.

Việt
Nam,
một chính sách xã hội đi vào được lòng người, sát với dân là một chính sách mang
bản sắc dân tộc Việt Nam, kế thừa và phát huy được tryền thống đạo đức, nhân văn sâu sắc
của dân
tộc ta. Đặc biệt là lòng yêu nước, cần cù chịu khó, tính cộng đồng cao, đùm bọc lẫn nhau,
uống nước nhớ nguồn…
- Phân loại chính sách xã hội:
Có thể phân chia chính sách xã hội theo những cách khác nhau, về cơ bản có hai
loại như sau:
* Hệ thống các chính sách tác động v

ào các nhóm xã h

ội đặt t h

ù :
• Theo tuổi tác: có chính sách xã hội với người già, trẻ em, thanh niên;
• Theo giới tính: có chính sách đối với phụ nữ;
• Theo nghề nghiệp: có chính sách đối với thợ mỏ, giáo viên, công nhân, thợ thủ
công…
• Theo sắc tộc: có chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam
định cư ở nước ngoài;

• Theo tôn giáo: có chính sách đối với đồng bào theo đạo Thiên chúa, Tin lành,
Phật giáo, Cao đài, Hòa hảo…
• Theo trình độ học vấn: có chính sách xã hội đối với những người có trình độ học
vấn cao, những tài năng khoa học và những người còn đang ở trình độ học vấn
thấp.
* Hệ thống chính sách x

ã h

ội tác động v

ào quá trình s

ản xuất v

à tái s

ản xuất:
Đây là những công cụ trực tiếp điều chỉnh quan hệ lợi ích giữa người với người,
giữa các nhóm, các tập đoàn xã hội với nhau, bao gồm:
• Chính sách dân số: có tính quốc gia và tính toàn cầu vì mức tăng trưởng dân số,
cơ cấu và phân bố của dân cư có ảnh hưởng đến phát triển kinh tế và mức sống
của nhân dân. Do vậy, chính sách xã hội phải tác động vào cả ba quá trình này.
Ví dụ như chính sách kế hoạch hóa gia đình, chính sách di dân và phát triển vùng
kinh tế mới, chính sách định canh - định cư…
• Chính sách việc làm: liên quan và quyết định đời sống của tất cả dân cư, là một
trong những yếu tố cơ bản tạo ra ổn định hay bất ổn định của xã hội. Thông
thường, nếu tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4 - 5% thì được coi là xã hội ổn định; từ 6 -
9% có nguy cơ khủng hoảng; nếu trên 10% thì xã hội đang có nhiều cấp bách
cần phải giải quyết. Ví dụ chính sách cho vay vốn giải quyết việc làm, chính

sách dạy nghề, chính sách đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài…
• Chính sách bảo hộ lao động: nhằm đề phòng và giải quyết bớt hậu quả rủi ro do
tai nạn xãy ra, bao gồm các chính sách bảo đảm an toàn như giảm độc hại, giảm
tiếng ồn, chống nóng, …và các chính sách đối với người lao động bị mắc các
bệnh nghề nghiệp, bị thương tật hay bị chết.
• Chính sách tiền lương: nhằm đảm bảo mức thu nhập hợp lý và bảo đảm nguyên
tắc phân phối theo lao động. Việc quy định mức lương tối thiểu như thế nào để
vừa có thể tái sản xuất sức lao động, vừa bảo đảm cho người lao động sống bằng
nghề nghiệp của mình, đồng thời có sự đãi ngộ thỏa đáng đối với những người
có chuyên môn giỏi, tay nghề cao. Ngoài ra, cần có chính sách hợp lý để điều tiết
thu nhập, không để mức thu nhập chênh lệch quá lớn nếu chỉ dựa vào cơ may
nghề nghiệp hay địa vị xã hội
( Chính sách thuế đối với những người có thu nhập cao).
• Chính sách phúc lợi xã hội: là phần bổ sung quan trọng nhằm nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của người dân, đảm bảo công bằng và bình đẳng xã hội.
Các chính sách này tạo ra những điều kiện chung, thuận lợi cho việc nghĩ
nghơi, vui
chơi, giải trí bằng hoạt động văn hóa, thể thao của các tầng lớp nhân dân ( các
khu công viên, các tổ hợp văn hóa thể thao, nhà trẻ, mẫu giáo, các nhà an
dưỡng…).
• Chính sách bảo hiểm xã hội: nhằm đảm bảo sự công bằng thu nhập cho người
lao động và gia đình họ trong các trường hợp người lao động bị đau ốm, thai sản,
hết tuổi lao động, bị chết hoặc bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp, mất việc
làm, gặp rủi ro hoặc các khó khăn khác. Ví dụ bảo hiểm lao động, bảo hiểm nghề
nghiệp; bảo hiểm kinh doanh; bảo hiểm y tế; bảo hiểm tài sản và phương
tiện…
• Chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công: là truyền thống và đạo lý “
uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam.
• Chính sách cứu trợ xã hội: hướng vào việc trợ giúp những người gặp phải rủi
ro, bất hạnh, thiệt thòi trong cuộc sống, đặc biệt là người già cô đơn, trẻ mồ côi,

người khuyết tật, người bị bệnh tâm thần, người gặp phải thiên tai bất trắc. Mục
đích của chính sách này là giúp họ khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giữ
được mức sinh hoạt tối thiểu cần thiết để vượt qua những khó khăn.
• Chính sách giáo dục: Giáo dục là ngành đặc biệt cung cấp nguồn nhân lực cho
sự phát triển kinh tế xã hội, nhất là trong giai đoạn cách mạng khoa học công
nghệ hiện nay. Vì vậy, chính sách xã hội không thể không ưu tiên cho giáo dục.
Chính sách đầu tư phát triển giáo dục (xây dựng trường sở, phòng nghiên cứu,
thí nghiệm…); chính sách tiền lương cho giáo viên, cấp học bổng cho sinh viên,
học sinh tài năng, trợ giúp học sinh nghèo vượt khó, chính sách giáo dục miền
núi,…
2.2. Phát triển cộng đồng
- Định nghĩa:
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về phát triển cộng đồng ( PTCĐ )
Theo quan điểm của Liên hợp quốc năm 1956: “Những tiến trình qua đó nỗ lực của
dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội,
văn hóa của các cộng đồng và giúp các cộng đồng này hội nhập vào đời sống quốc gia gọi
là PTCĐ ”.
Còn theo Murray và Ross đã đưa ra định nghĩa PTCĐ như sau:“Tổ chức cộng đồng
(TCCĐ) là một tiến trình qua đó một cộng đồng nhận rõ nhu cầu, mục tiêu của mình, sắp
xếp các nhu cầu và mục tiêu này, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm đến tài
nguyên (bên trong hoặc bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy.Thông qua đó sẽ
phát huy thái độ và kỹ năng hợp tác với nhau trong cộng đồng ”
Một định nghĩa gần đây phản ánh xu hướng mới nhất của PTCĐ là :
“ Phát triển cộng đồng là một tiến trình giải quyết vấn đề qua đó cộng đồng được
tăng sức mạnh bởi các kiến thức và kỹ năng phát hiện nhu cầu và vấn đề, ưu tiên hóa
chúng, huy động tài nguyên để giải quyết chúng. PTCĐ không phải là một cứu cánh mà là
một kỹ thuật, nó nhằm vào tăng sức mạnh cho các CĐ để tự quyết định về sự phát triển của
mình và sự định hình của tương lai mình. Mục đích cuối cùng của PTCĐ là sự tham gia
chủ động với tư cách tập thể của người dân vào sự phát triển ”.
Qua các khái niệm ta có thể thấy rằng về cơ bản mục đích của PTCĐ là :

- Củng cố các thiết chế tạo điều kiện cho chuyển biến xã hội và sự tăng trưởng.
- Bảo đảm sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình của sự phát triển.
- Đẩy mạnh công bằng xã hội bằng cách tạo điều kiện cho các nhóm thiệt
thòi

nhất
được
nêu lên nguyện vọng của mình và tham gia vào các hoạt động phát triển.
- Tiến trình phát triển cộng đồng:
Mục tiêu cuối cùng của PTCĐ là giúp cho cộng đồng đi từ thực trạng yếu kém để
phát triển, đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Để đạt được mục tiêu đó PTCĐ phải có
một tiến trình với từng bước đi cụ thể.
Sơ đ

ồ t h

ể hi ệ n Ti ến t r ình P

T C

Đ :

yếu
kém

thức
tỉnh
CĐ tăng
năng lực
CĐ tự lực

Tự
tìm
hiểu

phân
tích
Phát huy
tiềm
năng
Huấn
luyện
Hình
thành
các
nhóm
Tăng
cường
động
lực
Chương
trình
hành động chung

lượng
giá
+ Bước 1: Thức tỉnh cộng đồng
Trước tiên cộng đồng cần được giúp đỡ để tự tìm hiểu và phân tích nhằm biết rõ
những vấn đề của cộng đồng, những nguyên nhân và hậu quả do các vấn đề gây ra. Bên
cạnh đó người dân cũng tự nhận ra những tài nguyên, tiềm năng, khó khăn, thuận lợi từ
cộng đồng để có cơ sở giải quyết vấn đề. Điều quan trọng là cộng đồng cần nhận ra sự hợp

tác của chính mình là yếu tố quyết định trong việc thay đổi tình trạng yếu kém hiện tại.
+ Bước 2: Tăng năng lực cộng đồng
Cộng đồng nhận ra những gì mình có mà chưa sử dụng như đất đai, cơ sở vật chất,
nhân tài, kinh nghiệm, … và những nguồn hỗ trợ từ bên ngoài như kiến thức kỹ thuật,
chuyên môn, nguồn vốn vay, … Để sử dụng và quản lý những nguồn lực này cộng đồng
cần được hỗ trợ tăng khả năng, kiến thức để cùng hành động bằng các hình thức học tập,
huấn luyện…
+ Bước 3 : Cộng đồng tự lực
Mục đích cuối cùng của PTCĐ là thông qua các tác động từ bên ngoài, với nội lực
được phát huy và tăng cường, cộng đồng sẽ trở thành cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực
không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn
cộng đồng có thể tự huy động tài nguyên bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Qua
mỗi lần như vậy cộng đồng sẽ tăng trưởng, tự lực hơn.
Trong thực tiễn PTCĐ, tiến trình này không phải lúc nào cũng cứng nhắc trong cách
áp dụng, mà điều quan trọng là tác viên PTCĐ phải thực sự vì cộng đồng, vì sự phát triển,
linh hoạt nhưng cũng phải đảm bảo được các nguyên tắc cơ bản, các bước đi cơ bản của
quá trình đó.
- Nguyên tắc trong phát triển cộng đồng:
Trong PTCĐ cần đảm bảo 10 nguyên tắc cơ bản sau:
• Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của người dân.
• Tin tưởng vào dân, vào khả năng thay đổi và phát triển của họ.
• Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của họ.
• Khuyến khích người dân cùng thảo luận, lấy quyết định chung, hành động
chung để họ đồng hóa mình với những chương trình hành động đó.
• Bắt đầu từ những hành động nhỏ để dẫn đến những thành công nhỏ.
• Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải quyết
được một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạng tổ chức tự
nguyện của người dân.
• Khi tổ chức cần cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và
phát sinh các hoạt động chung, qua đó các thành viên vừa đạt được cảm xúc

tự hoàn thành nhiệm vụ vừa góp phần cải thiện an sinh cho nhóm, cả hai điều
này đều quan trọng như nhau.
• Quy trình : “Hành động - Suy ngẫm rút kinh nghiệm - Hành động mới” cần
áp dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn, trình độ
quản lý cao hơn.
• Nếu điều hành có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để tổ chức
nhóm trưởng thành.
• Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để có thêm hỗ trợ và hợp tác với
nhau.
2.3. Một số khái niệm liên quan
- Khái niệm phát triển kinh tế nông thôn:
Phát triển kinh tế nông thôn là một quá trình tất yếu cải thiện một cách bền vững về
kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của dân cư
nông thôn. Quá trình này, trước hết chính là sự nổ lực người dân nông thôn với sự hỗ trợ
của nhà nước và các tổ chức xã hội khác.
- Khái niệm phát triển kinh tế hộ gia đình: Phát triển kinh tế hộ gia đình là việc
hộ gia đình áp dụng các kỹ thuật tiến bộ và học tập mô hình sản xuất giỏi hợp với khả năng
lao động và điều kiện đất đai hiện có của gia đình để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập,
cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, vươn lên thoát nghèo góp phần xây dựng quê hương
đất nước giàu đẹp.
3. Lý thuyết ứng dụng (Thuyết vai trò)
Thuyết vai trò được ra đời với sự đóng góp lớn của khoa học xã hội học và tâm lí
học ( Trean, 1971; Davis, 1986). Thuyết vai trò được đánh giá là phương pháp tiếp cận
hiệu quả đối với việc hiểu biết về con người và xã hội, vì vậy, người ta đề cập tới nhiều
khái niệm liên quan. Đó là những khái niệm:
Mơ hồ trong vai trò: là hoàn cảnh một cá nhân gặp phải khó khăn khi quyết định vai
trò nào nên làm.
Xung đột vai trò: xảy ra khi một cá nhân đối phó với sự căng thẳng vì cá nhân đó
chưa đủ khả năng để thực hiện hoặc đáp ứng các đòi hỏi của vai trò đó.
Sợ hãi vai trò: nói đến những khó khăn có thể nhận thấy trong việc hoàn thành bổn

phận của vai trò, khi mà sự căng thẳng được cảm nhận giữa hai vai trò cạnh tranh nhau, sự
căng thẳng trong sợ hãi vai trò thường chỉ xuất hiện từ một vai trò.
Thuyết này cho rằng vì mỗi cá nhân thường chiếm giữ các vị trí nào đó trong xã hội
và tương ứng với các vị trí đó là các vai trò. Vai trò bao gồm một chuỗi các chuẩn mực như
là một bản kế hoạch để chỉ đạo hành vi. Những vai trò chỉ ra cụ thể cách thức nhằm đạt
được mục tiêu và hoàn thành nhiệm vụ, đồng thời cũng chỉ ra những nội dung hoạt động
cần thiết đòi hỏi phải có trong một bối cảnh hoặc tình huống có sẵn. Thuyết cũng cho rằng,
một phần các hành vi xã hội hàng ngày quan sát được chỉ đơn giản là các việc mà con
người phải thực hiện trong vai trò của họ.
Ngoài ra, thuyết cũng khẳng định, hành vi con người chịu sự chỉ đạo của những
mong muốn của cá nhân họ hoặc từ mong muốn của những người khác. Những mong
muốn cho mỗi vai trò thì khác nhau nhưng phù hợp với vai trò mà cá nhân thực hiện hoặc
trình diễn trong cuộc sống hàng ngày của họ. Đồng thời, thuyết còn đề cập, với cùng một
hành vi, có thể chấp nhận ở vai trò này nhưng lại không được chấp nhận ở vai trò kia.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử dụng thuyết này nhằm chỉ ra rằng
mỗi phụ nữ trong nhóm đều có các vị trí khác nhau với các vai trò tương ứng. Nếu đánh giá
đúng khả năng và tạo điều kiện phù hợp để họ phát huy hết khả năng với đúng vai trò của
họ thì kết quả công việc của họ mang lại rất cao.
4. Vai trò của lao động nữ trong phát triển kinh tế nông thôn ở Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp với 76,5% dân số sống ở nông thôn. Vì vậy,
trong quá trình phát triển đất nước thì phát triển nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ
rất quan trọng. Để có thể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đó, bên cạnh các chủ trương, chính
sách xã hội phù hợp, cần có những nguồn lực hỗ trợ cho quá trình thực hiện công nghiệp
hoá nông nghiệp, nông thôn như tài chính, kỹ thuật - công nghệ Đặc biệt phải kể đến một
nguồn lực quan trọng, đó là nguồn nhân lực, chủ thể của quá trình công nghiệp hoá nông
nghiệp, nông thôn. Nói đến chủ thể của quá trình này, không thể không nhấn mạnh đến
nguồn nhân lực nữ ở nông thôn.
Phụ nữ nông thôn có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp,
nông thôn trong quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa đất nước. Là một lực lượng chủ yếu
trong nông nghiệp và chiếm đông đảo trong nguồn nhân lực của đất nước, nhưng phụ nữ

nông thôn còn gặp nhiều khó khăn so với nam giới nông thôn và phụ nữ đô thị. Theo số
liệu từ Tổng điều tra dân số năm 2009, phụ nữ chiếm 50,5% số người hoạt động trong lĩnh
vực nông nghiệp (năm 1989 tỷ lệ này là 60%). Trong tổng lực lượng lao động nữ, có 68%
là hoạt động trong nông nghiệp, tỷ lệ này đối với nam giới là 58%. Vai trò của phụ nữ
trong sản xuất nông nghiệp càng trở nên quan trọng hơn trong quá trình chuyển đổi kinh tế,
với sự tham gia của lao động nữ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp ngày càng tăng trong
khi lao động nam giảm dần. Thời kỳ 1993 - 1998, số nam giới tham gia hoạt động nông
nghiệp mỗi năm giảm 0,9%. Trong giai đoạn hiện nay, 92% số người mới gia nhập lĩnh
vực nông nghiệp là phụ nữ, vì nam giới chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp. Hiện
tượng thay đổi này dẫn đến xu hướng là nữ giới tham gia nhiều hơn trong hoạt động nông
nghiệp. Họ đóng góp công sức trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập
của gia đình, ổn định cuộc sống và góp phần vào sự phát triển của xã hội.
CHƯƠNG
II
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA PHỤ NỮ XÃ XUÂN
BÌNH
1. Tổng quan về địa bàn nghiên cứu
Xuân Bình là xã nằm ở phía Bắc của thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Phía Bắc giáp
xã Xuân Lộc và đầm Cù Mông, Phía Nam giáp xã Xuân Cảnh, Phía Tây giáp xã Xuân
Phương và thị xã Sông Cầu, Phía Đông giáp xã Xuân Hoà, xã Xuân Cảnh và Đầm Cù
Mông. Tổng diện tích tự nhiên là 5105 ha, trong đó: đất sản xuất nông nghiệp: 3.222,47 ha,
đất sản xuất làm muối: 135,9 ha, đất phi nông nghiệp: 389,53 ha, đất chưa sử dụng: 1353,4
ha. Có tuyến Quốc lộ 1A chạy dọc qua với chiều dài khoảng 6km và một đường liên xã đã
được nâng cấp trải mặt nhựa nên tương đối thuận lợi cho việc đi lại cho bà con nhân dân,
ngoài ra mạng lưới giao thông dần được nâng cấp với khoảng 6km bêtông giao thông nông
thôn đã được xây dựng với chương trình nhà nước và nhân dân cùng làm, đây cũng là điều
kiện thuận lợi để phục vụ nhu cầu đi lại và lưu thông hàng hoá giữa các xã và huyện.
Địa hình xã Xuân Bình tương đối phức tạp, phía Tây Nam là núi. Độ dốc trung bình
khoảng 4
o

và thấp dần từ Tây sang Đông với kiểu địa hình tương đối bằng phẳng, phía Đông
là đầm Cù Mông. Độ cao trung bình 50m; có khí hậu nhiệt đới gió mùa, hai mùa rõ rệt trong
năm, mùa khô từ tháng 01 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, lượng mưa thường tập
trung vào mùa mưa (chiếm khoảng 76% tổng lượng mưa trong năm).
Toàn xã được chia thành 5 thôn với 2112 hộ dân và 9187 nhân khẩu, trong đó nam
là 4128 nhân khẩu, nữ là 5059 nhân khẩu. UBND xã nằm ở thôn Bình Thạnh. Tổng số lao
động trên địa bàn có 4133 lao động (LĐ), trong đó nam có 2216 LĐ; nữ có 1917LĐ. Trong
đó có hơn 2/3 sống bằng nghề nông nghiệp, 1/3 còn lại hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp – dịch vụ và một số lĩnh vực khác.
Công tác giáo dục – đào tạo nhằm nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực luôn được
chú trọng, việc phổ cập giáo dục đúng độ tuổi được quan tâm, trường lớp được đầu tư tu bổ
khang trang và đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy và học của nhà trường. Công
tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được đảm bảo, nhất là công tác phòng bệnh, phòng
dịch được thực hiện tốt.
Công tác tuyên truyền thông tin, văn hóa, thể thao được đầu tư đúng mức. Đời sống
tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo được tôn
trọng và giám sát chặt chẽ.
An ninh, chính trị của xã cơ bản được ổn định, các ban ngành đoàn thể hoạt động
tương đối vững vàng, tệ nạn xã hội bị đẩy lùi, công tác quốc phòng luôn được giữ
vững.
Kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi trong xã từng bước được chỉnh trang, xây
dựng mới đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Toàn xã có 1 trường Trung học phổ thông đang
xây dựng, 1 trường Trung học cơ sở, 3 trường Tiểu học, một số cơ sở giáo dục mẫu giáo và
mầm non; có một trạm y tế và phòng khám khu vực phía bắc thị xã Sông Cầu, đường giao
thông từng bước được bêtông hóa, …
2. Một số kết quả kinh tế – xã hội xã Xuân Bình đạt được trong thời gian qua
2.1. Về lĩnh vực kinh tế
* Sản xuất nông – lâm - ngư nghiệp:
- Nông nghiệp:
Năm 2006, hồ chứa nước Xuân Bình hoàn thành đưa vào sử dụng diện tích lúa tăng

vụ 3 chiếm khoảng 70 ha, do đó đã nâng sản lượng lúa bình quân lên 30 - 45 tạ/ha. Hiện
nay đã được nhân rộng giống lúa mới, có năng suất cao để sản xuất. Mặc khác một số diện
tích năng suất thấp chuyển sang trồng cây ăn quả và các loại cây khác; vận động nhân dân
chuyển 1,5 ha sang trồng rau các loại đã đem lại hiệu quả tăng gấp 2 lần so với sản xuất
lúa. Bên cạnh đó, việc tiến hành sản xuất xen canh trên một số diện tích lúa 1 vụ trồng các
loại: đậu xanh, đậu phộng, mè…đem lại hiệu quả cho người nông dân góp phần tăng thu
nhập.
Trong 5 năm, đã trồng được 75,22 ha đào (điều) cao sản với 65 hộ tham gia, bên
cạnh đó vận động nhân dân chăm sóc vườn đào cao sản có tại địa phương. Đồng thời chăm
sóc và bảo vệ phòng trừ dich bệnh bọ cánh cứng diện tích dừa hiện có, đến nay đã giảm,
dừa đang dần hồi phục và phát triển cho quả đạt 50% tổng lượng quả hàng
năm.
- Lâm nghiệp:
Đến năm 2010, toàn xã có 1001 hộ tham gia trồng rừng phát triển nhất là khu vực
phía tây của xã với diện tích trồng rừng là 2200ha.
- Chăn nuôi:
Hiện nay, đàn heo toàn xã có 4000 con, 100% heo hướng nạc, đàn bò có 1400 con,
bò lai sind có 250 con chiếm tỷ lệ 19,26%, đàn gia cầm trên địa bàn xã phát triển ổn định
không có dịch cúm xảy ra.
- Sản xuất muối:
Thời tiết diển biến thất thường, trong 05 năm sản xuất hiệu quả chưa cao. Được nhà
nước đầu tư nâng cấp kết cấu hạ tầng làm các cống thoát lũ nhờ đó những năm sau các
tuyến đê bao không bị xói lỡ, chi phí đầu tư đầu vụ giảm rất nhiều, tiết kiệm cho Hợp tác
xã muối và nhân dân sản xuất muối khoảng 100 - 120 triệu đồng trên năm, năng suất sản
lượng muối cũng tăng lên. Tổng sản lượng hàng năm 15.000 tấn/ 17.000 tấn, đạt 88,5%
hàng năm, giá muối bình quân tương đối cao do vậy đời sống diêm dân có bước cải thiện
và nâng lên.
- Nuôi trồng thủy hải sản:
Tổng diện tích ao nuôi tôm sú tại địa phương là 41ha. Năm 2009, thả nuôi 32,67/ 41
ha tổng sản lượng 20 tấn. Giá tôm sú không cao nên lợi nhuận từ nuôi tôm không hiệu quả,

nhân dân đang tận dụng các diện tích ao hồ có nguồn nước sâu nuôi một số loài thủy sản
khác như: cá mú, cá dìa, ghẹ…để hiệu quả kinh tế cao hơn. Vận động nhân dân nuôi tôm
xen canh trên một số diện tích sản xuất muối khi mãn vụ.
* Tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ:
Năm 2008, được sự hỗ trợ của vốn làng nghề cấp tỉnh, đầu tư xây dựng sân phơi,
kho phục vụ cho sản xuất thảm cước xơ dừa lúc đầu hoạt động có hướng phát triển, về sau
sản phẩm sản xuất tại địa phương không đảm bảo chất lượng cạnh tranh với thị trường bên
ngoài nên hiện nay đang tạm dừng sản xuất. Thực hiện chỉ đạo của cấp trên năm 2008 tiến
hành bàn giao hệ thống lưới điện tại địa phương cho ngành điện quản lý và đang chỉ đạo
giải thể hợp tác xã điện theo quy định.
Bên cạnh đó nhiều thành phần kinh tế khác bỏ vốn ra mở nhiều trại mộc dân dụng
để sản xuất đồ gỗ, đến nay toàn xã có 4 cơ sở sản xuất đồ gỗ dân dụng, đặc biệt là doanh
nghiệp sản xuất gỗ Long Biên sản xuất ổn định tạo việc làm cho trên 100 lao động tại địa
phương có việc làm ổn định.
Hoạt động thương mại - dịch vụ 5 năm qua có phát triển nhưng không đáng kể, đa
phần hộ kinh doanh cố định tập trung tại chợ Xuân Lộc. Đến nay toàn xã có khoảng 130
hộ
kinh doanh cố định và một số cơ sở tập thể, cá thể hoạt động dịch vụ phục vụ riêng vật tư
nông nghiệp, thuốc trừ sâu, phân bón, sản xuất nông cụ…từng bước đang phát
triển.
2.2. Về văn hóa- xã hội
- Công tác giáo dục:
Quy mô giáo dục ngày càng tăng và có bước đầu tư, hiện tại trên địa bàn toàn xã có
1 trường THCS, 03 trường Tiểu học, 1 trường Mẫu giáo và một trường Mầm non tư thục,
cơ sở vật chất của các trường cơ bản đảm bảo cho việc dạy và học. Chất lượng đội ngũ cán
bộ công chức, giáo viên được nâng cao.
Cuộc vận động “ hai không” trong ngành giáo dục có sự chuyển biến tích cực. Cơ sở
vật chất phục vụ cho ngành giáo dục của xã ngày càng được mở rộng. Trong 5 năm bằng
nhiều nguồn vốn đã xây dựng mới 13 phòng học. Trong đó trung học cơ sở 4 phòng, Tiểu
học 6 phòng, Mẫu giáo 3 phòng, hàng năm vận động học sinh vào lớp 1 đạt 100%, tỷ lệ

học sinh tăng hàng năm và tỷ lệ khá giỏi đạt cao, cụ thể:
+ Tỷ lệ học sinh khá giỏi THCS năm 2005 - 2006 đạt 45,7%, cuối năm 2008 - 2009
đạt 43,98%.
+ Tỷ lệ học sinh khá giỏi ở Tiểu học năm 2005 - 2006 đạt 37,2 %, cuối năm 2007 -
2008 đạt 49,6%.
Xã giữ vững chuẩn quốc gia về Phổ cập giáo dục (PCGD) tiểu học đúng độ tuổi và
PCGD trung học cơ sở.
- Công tác y tế - dân số - Kế hoạch hóa gia đình (KHHGĐ):
Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm, nhất là công tác phòng
bệnh, phòng dịch, do đó trong 5 năm không xảy ra dịch bệnh trên địa bàn xã. Song song
với công tác phòng bệnh ngành y tế xã phối hợp với các ban ngành thường xuyên vận động
nhân dân thực hiện các chương trình y tế quốc gia. Bình quân tỷ lệ trẻ em được tiêm phòng
7 loại vắc xin đạt 95% chỉ tiêu hàng năm. Trạm y tế được tách ra khỏi phòng khám khu
vực Xuân Bình được sự quan tâm của thị xã và phòng y tế đã hoán đổi cơ sở nơi làm việc
với Hợp tác xã nông nghiệp đã phát huy và tạo điều kiện cho nhân dân khám chữa bệnh
kịp thời, do đó chất lượng khám và chữa bệnh ngày càng được nâng lên. Khám chữa bệnh
bằng Đông - Tây y kết hợp của Hội đồng y khoa bước đầu có hiệu quả.
Công tác dân số - KHHGD có nhiều chuyển biến tích cực, số cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, hiện tại đạt trên 85%. Do đó trong 5
năm tỷ lệ phát triển dân số của xã giảm dần và còn 1% năm 2010, tỷ lệ sinh con thứ 3 từ
20% giảm xuống còn 14,2%, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng 19,4 %. Triển khai tốt công tác
và thực hiện các chiến dịch chăm sóc sức khỏe sinh sản (CSSKSS) - KHHGĐ, các hoạt
động y tế quốc gia, các phong trào bảo vệ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho bà mẹ và trẻ em
được chú trọng.
- Công tác văn hóa - tuyên truyền thông tin, thể dục thể thao:
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở
khu dân cư”. Đến nay toàn xã đã có 5/5 thôn là thôn văn hóa và xã đã được công nhận là

văn hóa năm 2008. Số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa ngày càng tăng bình quân hộ gia
đình đạt gia đình văn hóa hàng năm trên 85% so với số hộ toàn xã. Cụ thể cuối năm 2009

có 1704 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa tăng 87,2%.
Nhờ làm tốt công tác vận động tuyên truyền trong nhân dân thực hiện phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Các biểu hiện mê tín dị đoan và các thủ
tục lạc hậu trong nhân dân được giảm dần. Đời sống văn hóa từng bước hình thành, đi vào
cuộc sống của nhân dân nhất là vấn đề ma chay, cưới hỏi…
Bên cạnh việc xây dựng đời sống văn hóa, các hoạt động thể dục thể thao dần dần
phát triển. Hàng năm vào diệp kỷ niệm các ngày lễ lớn, Đảng ủy chỉ đạo Ủy ban xã tổ
chức các giải bóng chuyền cấp xã, các thôn đều có các đội tham gia. Đồng thời xã cử các
đoàn văn nghệ, TDTT, vận động viên tham gia giải do thị xã tổ chức như: giải bóng
chuyền cấp thị xã, lễ hội sông nước Tam Giang, và các hoạt động thể dục thể thao khác do
thị xã tổ chức…Trong 5 năm xã đạt được nhiều giải thưởng của thị xã.
Đài truyền thanh của xã được đầu tư, nghiệm thu và đưa vào sử dụng tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật nhà nước
tại địa phương.
- Giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa:
Công tác giải quyết việc làm, giúp nhau làm kinh tế gia đình thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo có tiến bộ. Tuy là một xã thuần nông lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp
còn rất nhiều, xã chủ động vận động nhân dân khôi phục các ngành nghề truyền thống như:
làm bún, bánh hỏi, bánh tráng…Đặc biệt gần đây khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu
phát triển nhân có phần tăng thêm. Công tác đào tạo nghề như: thú y, mộc, nề…150 lao
động góp phần tích cực trong việc ổn định đời sống trong từng gia đình.
Bên cạnh đó hàng năm xã xây dựng các dự án cho vay vốn phát triển chăn nuôi gia
cầm gia súc nhất là đàn heo và đàn bò để tăng thu nhập cho nhân
dân.
Hàng năm được sự hỗ trợ của ngân hàng chính sách thị xã các đoàn thể của xã đã
thành lập các dự án cho vay vốn hỗ trợ việc làm và các kênh khác và giải quyết được 1500
lao động trong 5 năm.
Song song công tác giúp nhau làm kinh tế để cải thiện đời sống nhân trong toàn xã.
Xã còn quan tâm chú trọng phong trào đền ơn đáp nghĩa. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để
giúp đỡ các gia đình chính sách, hộ gia đình neo đơn không nơi nương tựa, hộ nghèo phấn

đấu vươn lên ngang mức sống trung bình trong toàn xã.
Trong 5 năm chỉ đạo các ban ngành đoàn thể của xã phối hợp với Uỷ ban vận động
xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa 40,922/50 triệu đồng đạt 81,8%, xây dựng và sữa chữa
nhà tình nghĩa gồm 9/5 đạt tỷ lệ 180%. Mặc khác kết hợp các nguồn vốn cấp trên đã hỗ trợ
vốn cho các đối tượng hộ nghèo có nhà tạm bợ dột nát trong 5 năm đã xây dựng 80 nhà
tình thương. Ngoài ra xã vận động nhân dân quên góp làm công tác nhân đạo và khắc phục
bão lụt…
2.3. Về quốc phòng - an ninh
Công tác QP - AN có nhiều chuyển biến tích cực các phong trào quần chúng tham
gia bảo vệ an ninh tổ quốc (ANTQ), phong trào phòng chống tội phạm, phòng chống ma
túy và các tệ nạ xã hội khác từng bước được hình thành và phát triển sâu rộng trong quần
chúng nhân dân, đã gắn kết phong trào nhân dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư. Nhờ vậy những mâu thuẫn nhỏ trong nhân dân đã được giải quyết ngay tại cơ sở,
tạo sự đoàn kết, tình làng nghĩa xóm giúp đỡ lẫn nhau cùng nhau xây dựng và phát triển
kinh tế gia đình. Trong 5 năm xã đã được UBND Tỉnh, Công an tỉnh và UBND thị xã tặng
bằng khen và giấy khen phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc.
Công tác quốc phòng thường xuyên được cũng cố. Hằng năm Đảng ủy đã triển khai
nhiệm vụ công tác quốc phòng trong năm, UBND xã đã tổ chức triển khai thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết.
Các phương án tác chiến trị an, phương án phòng chống cháy nổ, phòng chống bão
lụt, giảm nhẹ thiên tai thường xuyên được cũng cố và bổ sung. Năm 2008 diễn tập theo kế
hoạch CT 02 được Bộ chỉ huy quân sự thị xã đánh giá xếp loại khá.
Giao quân hàng năm đạt 100% chỉ tiêu thị xã giao.
2.4. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội nhiệm kỳ 5 năm (2011 – 2015)
* Mục tiêu tổng quát:
Tập trung khai thác tiềm năng và lợi thế tại địa phương , phát huy nội lưc hiện có và
tranh thủ các nguồn lực hỗ trợ bên ngoài để đầu tư phát triển kinh tế, đưa Xuân Bình phát
triển bền vững.Trước mắt những năm đầu tiên phát triển nông nghiệp làm nền tảng cho
những năm tiếp theo, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ theo hướng
CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn. Đẩy mạnh các hoạt động xã hội hóa về giáo dục, y tế,

văn hóa- xã hôi, từng bước giải quyết có hiệu quả, nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe,
giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo cho nhân dân và giải quyết các vấn đề bức xúc
đang đặt ra giữ vững ổn định và trật tự ổn định xã hội, tăng cường công tác quốc phòng.
Tiếp tục cuộc vận động chỉnh đốn Đảng và “ Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý điều
hành của UBND xã, đỏi mới phương thức hoạt động của Mặt trận và cac đoàn thể nhằm
đáp ứng nhu cầu nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới.
* Các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2015:
- Thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 là 11 triệu đồng.
- Sản lượng muối đạt bình quân hàng năm là 17.000 tấn.
- Sản lượng tôm thịt hàng năm là 30 tấn.
- Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm 10% đến 15%; đến năm 2015 đạt 750
triệu đồng.
- Xây dựng đường bê tông dài 4,5 km.
- Tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2015 còn 5,63 %.
- Huy động quỹ “ Đền ơn đáp nghĩa” 50 triệu đồng, quỹ “ Ngày vì người nghèo” 60 triệu
đồng.
- Tỷ lệ phát triển dân số giữ ở mức 1%,
- Hàng năm huy động 100% trẻ em đúng độ tuổi đến trường bậc tiểu học, 98% - 100%
lên lớp bậc tiểu học, 95% - 98% xét tốt nghiệp Trung học cơ sở. Giữ vững tiêu chuẩn quốc
gia về phổ cập giáo dục Tiểu học đúng độ tuổi và tiến tới phổ cập GDTHCS.
- Tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi cuối năm 2015 còn 13,4 %.
- Tỷ lệ sinh con thứ 3 cuối năm 2015 còn 8,2%.
- Hàng năm xây dựng 5/5 thôn văn hóa, gia đình văn hóa đạt 80 – 85%, xã đạt xã
văn hóa, cơ quan văn hóa.
- Phấn đấu 100% cơ quan, đoàn thể trong sạch vững mạnh toàn diện
3. Diện mạo lao động nữ nông thôn ở xã Xuân Bình
3.1. Độ tuổi
So với một số xã lân cận trong huyện thì xã Xuân Bình là một trong những xã có tỷ
lệ phụ nữ trong độ tuổi lao động khá cao.

Bảng 1: Tỷ lệ các độ tuổi Biểu đồ thể hiện độ tuổi phụ nữ xã Xuân Bình
Từ 18 -
30
Từ 31 -
45
Từ 46 -
55
Trê
n
55
Như vậy, trong số 100 phụ nữ được điều tra có 60% phụ nữ ở độ tuổi từ 31 đến 45;
19% ở độ tuổi từ 46 đến 55; 16% ở độ tuổi từ 18 đến 30, 5% ở độ tuổi từ 56 trở lên. Với
con số này, có thể nhận thấy rằng nguồn lao động nữ của địa phương khá dồi dào; họ sẽ là
một nguồn lực lớn góp phần vào sự phát triển kinh tế – xã hội của địa phương.
3.2. Trình độ học vấn
Trong những năm gần đây, chính quyền địa phương xã Xuân Bình rất quan tâm đến
vấn đề giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho địa phương. Tuy
nhiên, do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau dẫn đến trình độ học vấn của
người dân nói chung và của phụ nữ nói riêng chưa tiến bộ như mong muốn.
Bảng 2: Trình độ học
vấn
Trình độ học vấn
Tốt nghiệp tiểu học
Tốt nghiệp THCS
Tốt nghiệp THPT
Tốt nghiệp TC – CĐ – ĐH
Ý kiến khác
Tổng
Qua bảng số liệu trên, ta thấy trình độ học vấn của lao động nữ ở xã Xuân Bình là
quá thấp. Lao động nữ ở đây chủ yếu có trình độ học vấn là tốt nghiệp tiểu học (48%),

trung học cơ sở là 10% còn tốt nghiệp trung học phổ thông và các bậc cao hơn là rất thấp.
Ngoài ra còn một số lượng không nhỏ lao động nữ qua điều tra cho thấy họ không được
học và chưa tốt nghiệp tiểu học (29%).
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, bên cạnh những nguyên nhân về
kinh tế thì các quan niệm, sự nhìn nhận chưa đúng về khả năng và vai trò của phụ nữ đối
với sự
phát triển xã hội là một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề này. Đây sẽ là
một trong những trở ngại lớn để phụ nữ tiếp cận các chính sách của Nhà nước.
Độ tuổi
Tỷ lệ (%)
Từ 18 đến 30
16
Từ 31 đến 45
60
Từ 46 đến 55
19
Từ 56 trở lên
3.3. Cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ
Trong những năm trở lại đây, cùng với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước
thì cơ cấu nghề nghiệp của xã Xuân Bình nói chung đã có nhiều sự thay đổi rõ rệt. Đặc biệt
là cơ cấu nghề nghiệp dành riêng cho lao động nữ. Nếu như trước đây, lao động nữ chủ yếu
tập trung vào những ngành nghề như nông nghiệp, những nghề thủ công truyền thống …
thì giờ đây, phụ nữ đã tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó có dịch vụ, công
nghiệp, hành chính nhà nước. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 3: Cơ cấu nghề nghiệp lao động
nữ
Nghề nghiệp
Làm nông
Công nhân
Làm nghề thủ công truyền thống

Buôn bán
Cán bộ - công chức
Nghề khác
Tổng
Số phụ nữ làm nghề nông (trồng trọt, chăn nuôi và làm muối) chiếm 40%; công
nhân làm tại các xưởng ở khu công nghiệp chiếm 11%, hoạt động dịch vụ (buôn bán nhỏ)
chiếm 20%; làm nghề thủ công truyền thống chiếm 4% và 4% phụ nữ có nghề nghiệp là
cán bộ công chức. Ngoài ra, có 21% phụ nữ đang hoạt động với những công việc khác
nhau như: làm tóc, làm mướn lưu động, may, nội trợ…
Biểu đồ thể hiện cơ cấu nghề nghiệp của lao động nữ
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Là
m
nông
Công
nhân
Thủ
công
truyề
n
thố

ng
Buôn
bá
n
Cá n
bộ
-
công
chứ
c
Nghê
khá
c
Nghề
nghiệ p
4. Thực trạng việc làm của phụ nữ xã Xuân Bình
4.1. Vấn đề thu nhập
Thu nhập là nhân tố cơ bản có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng cuộc sống của con
người. Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm chu đáo của chính quyền địa phương các
cấp mà đời sống của người dân xã Xuân Bình đã có nhiều chuyển biến tích cực về mọi
mặt.
Tuy nhiên, so với mặt bằng chung của toàn thị xã thì mức thu nhập của người dân xã Xuân
Bình nói chung còn ở mức thấp, trong đó đặc biệt phải kể đến thu nhập của phụ nữ.
Bảng 4: Thu nhập bình quân
Mức thu nhập bình quân
Dưới 5 trăm ngàn đồng
Từ 5 trăm đến dưới 1 triệu đồng
Từ 1 triệu đến dưới 2 triệu đồng
Từ 2 triệu đồng trở lên
Tổng

Thực tế, qua kết quả điều tra bằng bảng hỏi kết hợp với các cuộc phỏng vấn sâu cho
thấy rằng: đa số phụ nữ có thu nhập dưới 1 triệu đồng (chiếm tới 62%), trong đó có đến
33% phụ nữ có thu nhập dưới 5 trăm ngàn đồng. Con số đó tập trung chủ yếu vào những
phụ nữ làm nông, làm mướn lưu động, một bộ phận phụ nữ chưa có việc làm chỉ ở nhà lo
nội trợ và những phụ nữ có con nhỏ. Số phụ nữ có mức thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2 triệu
đồng chiếm 28%, đó là những phụ nữ làm công nhân và buôn bán nhỏ. Những phụ nữ có
thu nhập từ 2 triệu đồng trở lên chiếm một tỷ lệ tương đối khiêm tốn 10%, chủ yếu ở những
phụ nữ là cán bộ – công chức, một số ít làm công nhân và những phụ nữ có sự kết hợp
nhiều công việc trong quá trình phát triển kinh tế (ví dụ như vừa làm ruộng vừa buôn bán,
vừa buôn bán vừa chăn nuôi…)
Với mức thu nhập như trên, rõ ràng nó chưa thể đáp ứng một cách đầy đủ cho đời
sống của chị em phụ nữ ở xã Xuân Bình hiện nay. Kết quả thu thập còn cho thấy: có 51%
phụ nữ cho rằng với mức thu nhập này thì việc trang trãi cuộc sống còn thiếu và rất thiếu
thốn, trong đó rất thiếu thốn chiếm 15%. Số người trả lời có mức sống vừa đủ và dư dả
chiếm tỷ lệ 49% (trong đó có 2% là dư dả). Tuy nhiên, qua ý kiến của đa số các phụ nữ,
chúng tôi nhận ra rằng mức sống của họ có được như thế chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập
của chồng, con. Ví dụ như khi được hỏi về thu nhập và mức sống có phụ nữ cho biết:
“Mình có con nhỏ, đâu có thời gian làm gì ra tiền. Cũng nhờ ảnh (chồng) đi làm thợ vôi,
tiền công cũng được trên dưới 2 triệu nên đắp qua lại, chi tiêu cũng vừa đủ”. Hay: “ Cô ở
nhà mở quán cũng gọi là buôn bán cho vui, một ngày bán cũng được vài ba chai nước chứ
không lời lãi gì nhiều, phần lớn là thằng con trai nó chu cấp, nhờ đó mà cuộc sống cũng
không thiếu thốn gì! ” Cũng qua đó, chúng ta thấy, đời sống của phụ nữ nông thôn còn phụ
thuộc nhiều, họ không có nhiều điều kiện để phát triển, để vươn lên khẳng định mình.
4.2. Thời gian lao động chính của phụ nữ
Trải qua các giai đoạn lịch sử, dù ở chế độ xã hội nào phụ nữ cũng luôn có những
đóng góp nhất định cho sự phát triển chung của toàn xã hội. Trong thực tế, ở hầu hết những
công việc mà phụ nữ đang đảm nhận tốn khá nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, xã
hội vẫn chưa nhìn nhận và trả công xứng đáng cho họ. Đây cũng chính là nguyên nhân cản
trở sự phát triển của phụ nữ nói chung và đặc biệt là phụ nữ nông thôn nói riêng. Là một xã
thuần nông với 77,7% lao động nông nghiệp nên phụ nữ xã Xuân Bình cũng có những đặc

điểm tương tự. Bên cạnh đó, do điều kiện kinh tế – xã hội của xã Xuân Bình còn khó khăn
nên đòi hỏi người phụ nữ phải đầu tư nhiều thời gian và công sức cho công việc của mình.
Qua kết quả điều tra cho thấy: có đến 50% phụ nữ trả lời có thời gian làm việc trong
ngày từ 8 tiếng trở lên (trong đó có 22% phụ nữ gần như làm việc suốt ngày), tỷ lệ phụ nữ
làm việc từ 6 – 8 tiếng mỗi ngày chiếm 25% và có 25% phụ nữ có thời gian làm việc trong
ngày dưới 6 tiếng.
Bảng 5: Thời gian làm việc của phụ nữ
Khoảng thời gian làm việc trong ngày
Từ 2 đến 4 tiếng
Từ 4 đến 6 tiếng
Từ 6 đến 8 tiếng
Từ 8 đến 10 tiếng
Ý kiến khác
Tuy nhiên, những con số trên chỉ phản ánh đúng một phần nào đó bởi xét về tính
chất công việc của phụ nữ nông thôn và qua lân la chuyện trò với họ, chúng tôi nhận thấy
rằng chỉ những phụ nữ có nghề nghiệp là cán bộ công chức hay những người làm công
nhân là có mức thời gian làm việc ổn định, cụ thể. Đa số phụ nữ làm các nghề khác khá mơ
hồ khi được hỏi họ về vấn đề này. Đa số họ đều nói: “mình làm nông biết đâu mà tính, có
ngày nầy ngày kia; bữa làm 2 – 3 tiếng, bữa làm cả ngày, ngày mùa lên làm đầu tắt mặt tối,
hết mùa có ai kêu làm gì thì làm, không thì làm việc nhà, lo nội trợ, công việc loay hoay
suốt”. Hay những người buôn bán tại nhà, thời gian làm việc của họ không thể tính được,
họ nói: “còn khách còn bán, hết khách thì thôi, hay mưa gió thì nghỉ bán….”.
Mặt khác, với tính chất mùa vụ, hàng năm những phụ nữ làm muối chỉ làm từ cuối
tháng Giêng (AL) đến tháng 6,7,8 tùy theo mùa nắng kéo dài hay ngắn. Hết mùa làm muối,
những ai có ruộng thì trồng lúa, trồng rau màu còn phần lớn thì nhàn rỗi. Hay những phụ
nữ làm mướn không phải ngày nào cũng có việc, có tháng nhiều người gọi thuê nhưng có
tháng ở nhà suốt …
Như vậy, qua số liệu điều tra, tuy chúng ta thấy thời gian làm việc của phụ nữ ở đây
khá nhiều (từ 8 tiếng trở lên chiếm 50%) nhưng đặt trong mối tương quan với mức thu
nhập của họ thì chưa tương xứng (có đến 62% phụ nữ thu nhập dưới 1 triệu đồng trên

tháng). Từ đó chúng ta thấy rằng, lao động nữ nông thôn còn rẽ, hiệu quả kinh tế từ những
công việc họ làm mang lại còn thấp. Điều đó đòi hỏi chính quyền địa phương cần có những
quan tâm thích hợp tạo điều kiện giúp phụ nữ nâng cao được hiệu quả kinh tế từ công việc
của mình.
4.3. Những khó khăn gặp phải trong quá trình phát triển kinh tế
Trong quá trình phát triển kinh tế gia đình, ngoài những thuận lợi cơ bản như được
chính quyền quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ, sự hỗ trợ nhiều mặt từ các ban ngành đoàn thể
địa phương … phụ nữ ở xã Xuân Bình cũng gặp phải không ít những khó khăn, trở ngại.
Những khó khăn, trở ngại đó là: giá cả vật chất tăng cao, thiếu vốn, khó khăn do thiên tai –
thời tiết, thiếu kiến thức kỹ thuật, thiếu đất canh tác, thiếu người làm và một số khó khăn
khác. Kết quả điều tra cho thấy:
Bảng 6: Những khó khăn chủ yếu của phụ nữ nông thôn
Những khó khăn gặp phải
Thiếu vốn đầu tư
Thiếu kiến thức - kỹ thuật
Khó khăn do thiên tai – thời tiết
Giá cả vật chất tăng cao
Thiếu người làm
Thiếu đất canh tác
Khó khăn khác
- Khó khăn do giá cả vật chất tăng cao: Cùng với sự biến động của thị trường hiện nay,
việc giá cả vật chất tăng cao ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của phụ nữ, 75% phụ nữ cho
rằng việc giá cả vật chất tăng cao không những gây khó khăn trong việc chi tiêu cho sinh
hoạt của gia đình mà còn là trở ngại nhiều cho hoạt động sản xuất.
- Khó khăn do thiếu vốn đầu tư sản xuất: Sau hơn 20 năm đổi mới, sản xuất nông
nghiệp của nước ta phát triển khá mạnh với sự phát triển của kinh tế hộ gia đình, kinh tế
trang trại. Tuy nhiên đến nay, vẫn còn nhiều hộ nông dân túng thiếu, đói nghèo đặc biệt là
những hộ mà phụ nữ làm chủ hộ. Kết quả điều tra cho thấy có 70% phụ nữ gặp khó khăn
về nguồn vốn cho phát triển kinh tế gia đình.
- Khó khăn do thiên tai - thời tiết: có 51% phụ nữ cho rằng hoạt động kinh

tế

cũng
như đời
sống của họ có nhiều khó khăn do thiên tai – thời tiết. Tuy đã được tham gia các lớp tập
huấn về khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu nhưng với phụ nữ sự ảnh hưởng của thiên
tai thời tiết là một trở ngại rất lớn.
- Khó khăn do thiếu đất canh tác: dân số tăng nhanh, quá trình chuyển đổi mục đích sử dụng
(đất nông nghiệp thành đất nhà ở) làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp,
dẫn đến việc phụ nữ thiếu đất hoặc không có đất canh tác, thiếu việc làm. Con số
33% phụ nữ trả lời mình thiếu đất canh tác đã phần nào phản ánh được thực trạng trên.
- Khó khăn do thiếu kiến thức – kỹ thuật: Đi liền với nhu cầu về vốn để sản xuất,
phụ nữ nông thôn còn có nhu cầu không nhỏ về tiếp thu các kiến thức kỹ thuật. Phần lớn
phụ nữ nông thôn, nhất là phụ nữ nghèo có trình độ văn hóa thấp, ít được học hành, đào tạo
về kỹ năng nghề nghiệp; ít được tiếp cận với các thông tin, kiến thức khoa học – kỹ thuật
chăn nuôi, trồng trọt, bảo quản chế biến nông sản … Do vậy họ rất lúng túng, thụ động
trong sản xuất, trong phương thức làm giàu, xóa nghèo. Theo kết quả điều tra có 30% phụ
nữ có nhu cầu này.
- Khó khăn do thiếu người làm: tỷ lệ này chiếm khoảng 20%, nguyên nhân chủ yếu do phụ
nữ lao động kéo dài trong điều kiện làm việc thiếu vệ sinh, chế độ dinh dưỡng thiếu
hụt trầm trọng làm cho sức khỏe bị suy kiệt, điều đó đòi hỏi cần có người hỗ trợ họ trong
công việc của mình.
Ngoài ra, có 10% phụ nữ còn gặp phải một số khó khăn khác như : khó khăn do
sức khỏe yếu, công việc bấp bênh….
Biểu đồ thể hiện những khó khăn của phụ nữ trong phát triển kinh tế
80
70
60
50
40

30
20
10
0
Thiế u
vố n sả
n xuấ t
Thiế
u kiế
n
thứ c
kỹ
thuậ t
Thiên
tai
Giá
cả
tăng
cao
Thiế u
ngườ
i là m
Thiế u
đấ t
canh tá
c
Khá
c
Khó khăn
4.4. Những nguồn lực để phát triển kinh tế

Để kinh tế – xã hội của xã Xuân Bình phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ
có nhiều cơ hội vươn lên phải cần đến nhiều nguồn lực khác nhau. Bên cạnh những nguồn
lực sẵn có của địa phương thì yếu tố ngoại lực cũng là một phần rất quan trọng mà chính
quyền cần quan tâm, huy động trong thời gian sắp tới. Xuất phát từ thực trạng của địa
phương, chúng ta có thể chỉ ra một số nguồn lực sau:
* Nguồn nội lực của CĐ :
- Xã Xuân Bình có lực lượng lao động của tương đối đông, với 4133 lao động, trong đó có
1917 LĐ nữ, người lao động có tính cần cù, chịu thương, chịu khó luôn muốn phấn đấu
vươn lên thoát cảnh nghèo khó lam lũ, nếu được tạo điều kiện để họ phát triển họ sẽ
tiếp nhận và thay đổi nhanh chóng. Đây được xem là nguồn lực cơ bản rất quan trọng của
địa phương.
Sự tham gia của phụ nữ vào quá trình sản xuất

×