Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.57 KB, 12 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đề tài
Thực trạng và giải pháp phát triển
xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam
1
MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU Trang1
I. Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu Việt Nam Trang1
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động xuất khẩu Trang 2
2. Triển vọng xuất khẩu hàng gốm sứ Việt Nam Trang 3
II. Hoạt động xuất nhập khẩu hàng gốm sứ Việt Nam Trang 4
1. Thực trạng hàng gốm sứ Việt Nam Trang 5
2. Giải pháp và định hướng phát triển Trang 6
B. KẾT LUẬN Trang 7
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Trang 8
2
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế của một nước nói chung, của Việt Nam nói riêng, hiện
nay, xuất khẩu luôn là một hình thức mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho
các thành phần kinh tế cũng như cho nhà nước. ở nước ta, một đất nước có
phần lớn dân số làm nghề nông, cuộc sống luôn gắn liền với ruộng đất thì việc
xuất khẩu những sản phẩm từ đất luôn là điều tất yếu và luôn là mục tiêu hàng
đầu của các doanh nghiệp.
Việc phát triển xuất khẩu mặt hàng gốm sứ, cũng như các mặt hàng khác
trong nền kinh tế thị trường, sẽ không tránh khỏi những thăng trầm nhưng ta
có thể thấy tiềm lực xuất khẩu của mặt hàng này là rất lớn, nhất là đây lại là
mặt hàng mang tính truyền thống của Việt Nam nên việc ta thu được kết quả
tốt từ việc xuất khẩu mặt hàng gốm sứ chỉ còn là vấn đề khai thác tiềm lực ấy
như thế nào?
Nhằm tìm hiểu những triển vọng, thực trạng cũng như giải pháp của việc
phát triển xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ của Việt Nam, em đã chọn đề tài:


“Thực trạng và giải pháp phát triển xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam”
làm đề tài tiểu luận. Tiểu luận của em gồm 2 phần chính:
Chương 1: Khái quát chung về hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Chương 2: Hoạt động xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt Nam.
Do những nhận thức từ phía bản thân còn nhiều hạn chế nên những nhận
định đưa ra trong tiểu luận sẽ không tránh khỏi những sai sót, kính mong các
thầy cô giúp đỡ để bài tiểu luận của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn!
3
CHƯƠNG1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
CỦA VIỆT NAM
1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU:
Khái niệm hoạt động xuất nhập khẩu: hoạt động xuất nhập khẩu là hoạt
động mua bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước
ngoài thông qua hợp đồng mua bán.
ở mỗi quốc gia khác nhau lại có một mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác
nhau, với mỗi quốc gia hoạt động xuất khẩu luôn đóng vai trò chủ đạo trong
việc đóng góp vào thu nhập của nền kinh tế quốc dân, nhưng trước hết là
mang lại lợi ích trong cuộc sống của con người. Hoạt động xuất khẩu bao
gồm những vai trò chủ yếu sau:
- Đối với nền kinh tế, xuất khẩu tạo ra nhiều cạnh tranh khiến cho các
doanh nghiệp không ngừng ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới
trang thiết bị và quy trình công nghệ, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào quản
lý. Đây là quá trình quan trọng trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, hội nhập nền kinh tế thế giới. Đồng thời, hoạt động xuất khẩu đem
lại một nguồn lợi không nhỏ cho các doanh nghiệp xuất khẩu, thúc đẩy phát
triển sản xuất của mình, từ đó phát triển kinh tế đất nước
- Đối với nhà nước việc tăng cường xuất khẩu cũng làm thúc đẩy nhanh
quá trình công nghiệp hoá đất nước, đáp ứng nhu cầu cơ bản về sản xuất và

đời sống, góp phần điều hoà cung cầu để ổn định thị trường trong nước.
- Đối với người lao động, tăng cường hoạt động xuất khẩu sẽ tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho họ, kéo theo sự ổn định cuộc sống, nâng cao đời sống
vật chất cũng như tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó có thể cung cấp cho họ
những sản phẩm tốt nhất theo giá hợp lý nhất và thái độ phục vụ ngày càng tốt
hơn.
4
- Đối với kinh tế thế giới, việc giao lưu trao đổi, buôn bán sẽ thúc đẩy
các quan hệ kinh tế quốc tế khác phát triển, cải thiện và nâng cao vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, nối liền thị trường trong nước và nước ngoài.
2. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU HÀNG GỐM SỨ CỦAVIỆT
NAM:
Việt Nam hiện nay đã có hàng gốm sứ xuất khẩu ra các nước, chứng tỏ thị
trường đã chấp nhận hàng gốm sứ của nước ta. Nhưng trong thời gian qua
việc phát triển xuất khẩu của mặt hàng này chưa thực sự tương xứng với triển
vọng của nó.
Ở nước ta hiện nay có nhiều sản phẩm từ nhiều làng gốm khác nhau như
các sản phẩm từ các vùng như Bình Dương, Đồng Nai… nhưng lâu đời nhất
vẫn phải kể đến làng gốm Bát Tràng. Bát Tràng có niên đại ít nhất từ năm
1010 khi người ta biết đến vùng đất này là nơi khai thác loại đất sét trắng với
tổng cộng 72 gò, rất thích hợp cho việc làm gốm. Theo nhận định của nhà sử
học Dương Trung Quốc, nét đặc sắc của gốm sứ Bát Tràng có thể tìm thấy
trong chất đất Dâu Canh là đồ đàn hay chất cao lanh của Đông Triều làm đồ
sành trắng, trong chất men rạn ngọc có từ cuối thời Trần , men gio đầu Lê,
hay men lam, men rạn… đã tạo nên những san vật đặc sắc giúp ta nhận mặt
được gốm sứ Bát Tràng. Chính nhờ những nét truyền thống trong mỗi sản
phẩm của mình, các làng gốm đang khẳng định những chỗ đứng vững chắc
trong lòng những người tiêu dùng, đặc biệt là các bạn hàng nhập khẩu.
Bên cạnh đó, các sản phẩm gốm sứ của Việt Nam cũng có những nhận
định tốt về kiểu dáng và chất lượng. Theo Phòng thương mại Bắc Stafforshire

Clive Drinkwater, chất lượng, kiểu dáng, hoa văn, men, kỹ thuật nung…của
các sản phẩm gốm sứ sử dụng trang trí trong nhà và các vật dụng bằng sứ cao
cấp của Việt Nam được nhiều người Châu âu ưa dùng và chọn mua, đặc biệt
là sản phẩm từ các vùng Bình Dương, Đồng Nai, Bát Tràng. Các sản phẩm
này của Việt Nam vượt xa về mặt chất lượng và đẳng cấp so với các sản phẩm
của các quốc gia khác trong khu vực, thậm chí qua mặt cả hàng hoá của
5
Trung Quốc. Đây là một nhận định cho thấy kiểu dáng và chất lượng của các
sản phẩm sản xuất ở Việt Nam có thể so sánh với các sản phẩm trên thị
trường thế giới, đồng thời nó cũng cho thấy khả năng phát triển vốn có của
gốm sứ Việt Nam.
Một ưu điểm nữa là một số sản phẩm được sản xuất với công nghệ hiện
đại không thua kém so với công nghệ sản xuất gốm sứ trong khu vực. Hiện
nay, các lò gốm đã dần chuyển sang sử dụng gas để nung, mang lại hiệu quả
cao cho sản phẩm gốm. Bên cạnh đó vào tháng 11/2004 gốm sứ Việt Nam đã
ra mắt thương hiệu gốm sứ Bát Tràng, khẳng định vị thế cũng như quyết tâm
của làng gốm Bát Tràng nói riêng và các doanh nghiệp xuất khẩu gốm sứ nói
chung trong việc gìn giữ và nâng cao chất lượng sản phẩm gốm trên trường
thế giới.
Có thể nhận thấy chúng ta đã thu được một bài học kinh nghiệm quý báu
từ đất nước Indonesia khi chính phủ nước này thực hiện cam kết AFTA, cắt
giảm thuế xuống 5%, lúc đầu doanh nghiệp gốm sứ nước này thực sự lo lắng
và bối rối, thậm chí có phản ứng dữ dội, nhưng sau đó, vì lợi ích của chính
mình, họ vẫn tồn tại và phát triển tốt trong hoàn cảnh hầu như không có sự
bảo hộ của nhà nước, giá sản phẩm nội địa không hề tăng mà lại còn ngang
bằng với giá của hàng gốm sứ nhập khẩu. Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt
Nam có thể chắc chắn được sự hỗ trợ và hậu thuẫn của Asean Cica Excom
( hiệp hội gốm sứ bao gồm 6 nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore,
Philippin và Việt Nam) , nhất là trong khâu tìm kiếm thị trường và quảng bá
sản phẩm.

6
CHƯƠNG 2
HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU HÀNG GỐM SỨ CỦA VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG HÀNG GỐM SỨ CỦA VIỆT NAM
Bên cạnh những triển vọng và thuận lợi cho việc phát triển xuất khẩu gốm
sứ thì cũng có những điểm khó khăn mà các doanh nghiệp xuất khẩu mặt
hàng này gặp phải. Đầu tiên, một thực trạng dễ nhận thấy hiện nay ở các làng
gốm là thiếu nguyên liệu trầm trọng.
Theo hiệp hội gốm sứ Việt Nam, với sự phát triển nhanh chóng của ngành
công nghiệp gốm sứ hiện nay, nhu cầu nguyên liệu để sản xuất sẽ không
ngừng tăng. Ta bảng số liệu về nhu cầu nguyên liệu liệu sản xuất gốm sứ sau:
Đơn vị: tấn
Năm 2000 2005 2010
Men màu 44.000 80.000 100.000
Nguyên liệu 840.000 1.400.000 17.000.000
Qua bảng tổng hợp trên ta có thể thấy dự kiến nhu cầu về nguyên liệu liên
tục tăng qua các năm từ 2000 cho đến năm 2010. Thực tế hiện nay, nhiều nhà
sản xuất gốm sứ trong nước vẫn phải nhập nguyên liệu cao lanh, đất sét, men,
tràng thạch… trong khi trữ lượng nguyên liệu trong nước cao gấp nhiều lần
nhu cầu. Riêng năm 2000, kim ngạch nhập khẩu các nguyên liệu trên khoảng
gần 50 triệu USD. Nguyên nhân là do trong mấy năm qua, chúng ta chỉ tập
trung xây dựng nhà máy sản xuất gốm sứ hiện đại với tốc độ sản lượng tăng
chóng mặt nhưng lại chưa quan tâm đến đầu tư khai thác, chế biến nguyên
liệu.
Phần lớn các mỏ nguyên liệu của ta có dự trữ lớn nhưng chưa được khai
thác hợp lý. Công nghệ khai thác quá lạc hậu, chủ yếu là khai thác thủ công,
bán cơ giới, phân tán và manh mún, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghệ
sản xuất gốm sứ hiện đại.
7
Nguyên liệu không đáp ứng đủ là nguyên nhân dẫn đến việc giảm chất

lượng các mặt hàng thành phẩm, bên cạnh đó là việc tăng giá gốm sứ của
nước ta. Nếu giải quyết được vấn đề này ngành gốm sứ mới có thể nâng cao
chất lượng giảm giá thành, cạnh tranh được với những nước cũng xuất khẩu
mặt hàng này.
Một hạn chế nữa của phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng này
đó là “lối ra”. Theo ông Nguyễn Trần Nam, Tổng công ty Viglacera, cho biết
tổng kim ngạch xuất khẩu gốm sứ của Việt Nam chỉ mới bằng 16% so với
Malaysia, 7,4% so với Thái Lan, càng nhỏ hơn so với Indonesia. Cả năm
2001, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này chưa tới 9 triệu USD, và trong nửa
đầu năm 2002 tình hình có vẻ không tiến triển với kim ngạch chỉ khoảng 2,3
triệu USD. Trong thời gian qua các công ty sản xuất sứ ứng dụng như Hải
Dương, Thái Bình, Bát Tràng… lại gặp không ít khó khăn khi hàng gốm sứ
của Trung Quốc, Thái Lan nhập lậu trốn thuế vào thị trường Việt Nam bán
với giá thấp, trong khi đó chất lượng chưa cao, mẫu mã còn hạn chế.
Cũng nói về mẫu mã, sản phẩm gốm sứ của Việt Nam có mẫu mã đơn
điệu, chất lượng men thấp, không đáp ứng đươc yêu cầu của bạn hàng, kể cả
mẫu mã, hoa văn, khuôn mẫu…có khi đều do các đối tác nước ngoài chuyển
giao, hoặc không thích ứng với xu thế của thị trường. Tính riêng tại Bát Tràng
đã có tới 13 nghệ nhân được phong tăng, 15 lao động được Nhà nước công
nhận danh hiệu Bàn tay vàng và 4 hoạ sĩ gốm, nhưng sự đột phá càn có sản
phẩm, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường thì gần như chưa có. Một vài cá
nhân, nghệ nhân tìm tòi, sáng tạo được loại men mới nhưng họ không bán
“bản quyền”, mà chỉ để sản xuất trong phạm vi gia đình hoặc công ty riêng.
Vì thế, hàng xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài như Đức, Nhật Bản,
Hàn Quốc và một số nước châu Âu… không cạnh tranh được với các sản
phẩm của các “kinh đô gốm sứ” như Trung Quốc. Còn tại thị trường trong
nước, mức tiêu thụ hiện nay đã bão hoà, vì thế hàng chợ của Bát Tràng cũng
“dậm chân tại chỗ”.
8
2. GIẢI PHÁP VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:

Việc phát triển sản xuất hàng gốm sứ dựa rất nhiều vào nguyên liệu để làm
ra sản phẩm, vì thế muốn phát triển xuất khẩu mặt hàng này trước tiên phải
giải quyết vấn đề thiếu nguyên liệu hiện nay. Đối với nguyên liệu thô, nên tập
trung khai thác các mỏ hiện có trong nước, nhằm giảm tối đa chi phí nhập
khẩu nguyên liệu thô, lý do làm giá sản phẩm gốm sứ của chúng ta chưa có
tính cạnh tranh. Đối với các loại men màu, để sảm phẩm tạo được chỗ đứng
vững chắc ở thị trường trong nước cũng như nước ngoài, các nghệ nhân cần
nỗ lực nghiên cứu những sản phẩm men mới, đặc biệt như men Thuý Hồng
(một loại men trước đây chỉ có ở Trung Quốc) đã được sản xuất thành công
và đưa ra thị trường những sản phẩm kiểu dáng đa dạng, chất lượng cao.
Về phía các cơ qua chức năng: tạo mọi điều kiện thuận lợi để các doanh
nghiệp xuất khẩu những mặt hàng của mình như vay vốn với lãi xuất ưu đãi,
khuyến khích hỗ trợ bằng thuế, tạo điều kiện cho đăng ký thương hiệu, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp được cấp chứng nhận sản xuất hàng hoá,
đồng thời tổ chức những hội chợ, cuộc thi tay nghề nhằm giới thiệu sản phẩm
và nâng cao tay nghề.
Về phía các doanh nghiệp: các nhà sản xuất cần tăng cường tiếp thị, đặc
biệt là tìm hiểu và nắm bắt đặc điểm tiêu thụ ở từng thị trường cụ thể từ đó
đưa ra những chính sách phát triển cho từng thị trường đó.
Ngoài chất lượng, các yếu tố kỹ thuật như độ trắng, thấu quang, sáng,
bóng… các nhà sản xuất cần đặc biệt lưu ý đến việc tạo ra những sản phẩm
phù hợp với những nét đặc trưng về văn hoa, yêu cầu về thời trang của người
tiêu dùng bản địa. Do đó muốn thành công, các nhà sản xuất còn phải nghiên
cứu sâu về công nghệ chế biến sứ cùng đặc điểm của các dòng sản phẩm sứ
hiện nay trên thế giới để sản phẩm luôn đồng bộ và có chất lượng cao.
Theo các chuyên gia thương mại, ngoài việc đầu tư cho nghiên cứu, hiện
đại hoá trang thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm, các nhà sản xuất gốm
9
sứ cần tăng cừng tìm hiểu, khảo sát thị trường nước ngoài bằng cách tham dự
các hội chợ triển lãm quốc tế hoặc thông qua cơ quan xúc tiến xuất khẩu.

Bên cạnh những vấn đề đầu tư công nghệ, đầu tư lò nung cũng là những
yếu tố hết sức quan trọng để có được những sản phẩm được thị trường chấp
nhận. Ngoài ra, việc cộng tác liên kết giữa các nhà sản xuất để có thể đáp ứng
được những yêu cầu lớn của bạn hàng cũng là một yếu tố cần thiết.
Việt Nam đang đặt ra mục tiêu thực hiện việc xuất khẩu 100 triệu USD
hàng gốm sứ vào năm nay. Mục tiêu này khó có thể đạt được trong thời gian
hiện nay khi chúng ta chưa khắc phục được những yếu điểm của mình, trong
khi đó các nước xuất khẩu lớn trong khu vực chưa khai thác hết công suất.
Thêm vào đó các nước này có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn Việt Nam như
quan hệ bạn hàng rộng, kinh nghiệm nhiều, sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu
mã đẹp hơn, chi phí thấp hơn (chi phí vận tải của Việt Nam cao hơn hẳn các
nước tới 1,5 lần). Nhưng mục tiêu này cho thấy quyết tâm xuất khẩu mặt hàng
này của Việt Nam từ đó làm động lực, mục tiêu cho việc xuất khẩu mặt hàng
này phát triển.
10
KẾT LUẬN
Chúng ta có thể thấy rằng việc phát triển xuất khẩu hàng gốm sứ của Việt
Nam có rất nhiều thuận lợi nhưng khó khăn cũng không ít. Để đạt được mục
tiêu 100 triệu USD trong năm 2005 này là một mục tiêu khó cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, nhưng nếu đạt được mục tiêu đó thì lợi ích sẽ không thể
tính hết.
Theo em vấn đề quyết định nhất tới phát triển được xuất khẩu là tạo được
nguồn nguyên liệu ổn định, xuất phát từ trong nước. Việc tạo được nguồn
nguyên liệu ổn định sẽ giảm được chi phí nhập khẩu những nguyên liệu mà
trong nước có thể tự cung cấp, từ đó giảm giá thành sản phẩm, một yếu tố
cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu mặt hàng này.


11
TÀI LIỆU THAM KHẢO.

www.vnn.vn
www.exim.pro.vn
www.gov.vn
www.nhandan.org.vn
Giáo trình Quản lý và nghiệp vụ kinh doanh thương mại quốc tế (tác giả
PTS.TS Trần Văn Chu)
Giáo trình Thương Mại 1.
12

×