Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận côn trùng học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.62 KB, 18 trang )

Mở đầu
Năm 2000, tổng dân số thế giới khoảng 6 tỉ và theo dự kiến sẽ tăng lên 9 tỉ vào
năm 2050 (Herrera-Estrela, 2000). Vì vậy, nhu cầu lương thực sẽ tăng lên trên một
hành tinh ngày càng đông. Sản xuất lương thực cũng phải tăng lên mà vẫn giữ được
một môi trường bền vững. Có nhiều cách để tăng sản lượng nông nghiệp như sử dụng
phân bón sinh học, tăng cường các biện pháp khống chế sâu bệnh, bảo tồn nguồn
nước và đất, gieo trồng các cây trồng cải tiến tạo ra nhờ những phương pháp truyền
thống hoặc hiện đại Trong các biện pháp trên, việc đưa vào ứng dụng các cây trồng
biến đổi di truyền (Genetically Modified – GM) có thể sẽ đem lại triển vọng lớn nhất
đối với vấn đảm bảo an ninh lương thực toàn cầu.
Cây trồng biến đổi di truyền nói riêng cũng như sinh vật biến đổi di truyền nói
chung (bao gồm động vật, thực vật và sinh vật) là sản phẩm của công nghệ sinh học
hiện đại, được con người tạo ra nhờ các kỹ thuật sinh học phân tử để đưa gen mới vào
bộp gen của cây trồng (hay sinh vật). Quá trình chỉnh sửa/sửa đổi này chỉ diễn ra
trong phạm vi một vài gen. Vì vậy thuật ngữ cây trồng/sinh vật biến đổi di truyền còn
được gọi là cây trồng/sinh vật chỉnh sửa/sửa đổi gen hoặc cây trồng/sinh vật công
nghệ sinh học. Thực phẩm được tạo tạo ra từ các cây trồng/sinh vật GM này hay có
chứa thành tố của chúng được gọi là thực phẩm biến đổi gen/thực phẩm GM
(Genetically Modified Food-GMF) hay thực phẩm công nghệ sinh học.
Hiện nay, công nghệ sinh học hiện đại với các công nghệ cao, đặc biệt là công
nghệ biến đổi di truyền đang được phát triển mạnh mẽ và sử dụng rộng rãi không chỉ
ở các quốc gia phát triển mà các quốc gia đang phát triển cũng từng bước ưu tiên đầu
tư cho công nghệ sinh học hiện đại để tạo ra các sản phẩm mới có giá trị ứng dụng.
Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghệ sinh học nông nghiệp, trên quy mô toàn cầu, các
nghiên cứu thử nghiệm và thương mại hóa cây trồng GM được triển khai rộng rãi và
đạt được những thành tựu hết sức to lớn. Việc đưa vào ứng dụng cây trồng GM có thể
giúp tăng năng suất và chất lượng nông sản, nâng cao khả năng chống chịu sâu bệnh
và các điều kiện ngoại cảnh bất lợi Ví dụ như ở Trung Quốc, nơi mà những người
nông dân sản xuất nhỏ trồng những giống bông có khả năng chống sâu bệnh nhờ sử
dụng công nghệ sinh học, những giống cây này cần dùng ít thuốc trừ sâu hơn, điều
này không chỉ giúp giảm chi phí sản xuất mà còn giảm đáng kể việc tiếp xúc với hóa


chất độc hại. Do đó, người nông dân sẽ khỏe mạnh hơn và thu nhập của họ tăng lên,
cho phép họ mua những loại lương thực có chất lượng tốt cho gia đình hoặc giúp họ
có đủ tiền cho con cái học hành chứ không phải buộc chúng làm việc trên cánh đồng.
Khi được nhân rộng ra toàn bộ dân số của một quốc gia mà hiện nông dân vẫn chiếm
tỉ lệ cao nhất, những kết quả như vậy tạo cơ hội cho sự phát triển thịnh vượng. Ở Việt
Nam, các loại cây trồng này cũng đang được tiếp cận và triển khai.
Trong bài này, chúng tôi đặt vấn tìm hiểu cây trồng biến đổi di truyền Bt, thành
tựu, hiện trạng và triển vọng trên thế giới và ở Việt Nam.
Sơ lược về công nghệ biến đổi di truyền
1
Trong lịch sử loài người, từ xa xưa nông dân đã biết sử dụng kỹ thuật lai chọn
giống để cải tiến giống cây trồng, vật nuôi. Việc sử dụng liên tục và lai tạo các giống
có chất lượng nhất là cơ sở để duy trì và tăng cường các đặc tính tốt qua nhiều thế hệ.
Dựa trên sự đa dạng di truyền tồn tại sẵn trong quần thể, trong đó có các đột biến xảy
ra ngẫu nhiên trong tự nhiên, nông dân và gần đây là các chuyên gia tạo giống đã
chọn tạo được các giống động, thực vật mang những đặc tính mong muốn như kháng
sâu bệnh , tăng sản lượng, chất lượng và chống chịu với môi trường khác nghiệt Đến
nay, kỹ thuật này phần lớn giống cây trồng vật nuôi sử dụng trong các nông trại và
vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong nông nghiệp (The Royal Society, 1999;
Chrispeels, Sadava, 2002).
Ngày nay, với sự can thiệp của con người, quá trình chọn tạo giống có thể vượt
qua các dào cản của tự nhiên. Biến đổi di truyền hay còn gọi là kỹ thuật di truyền,
được hình thành từ những năm 1970, sử dụng các kỹ thuật nucleic acid trong ống
nghiệm để phân lập các gen từ một hoặc nhiều cá thể động vật, thực vật và vi sinh
vật , thiết kế và chuyển chúng vào trong nguyên liệu di truyền của tế bào ở các cá thể
khác để tạo các sinh vật biến đổi di truyền. Khi đã được biến nạp vào tế bào sinh vật,
thông qua quá trình sinh sản bình thường, trong các thế hệ con cháu có thể tìm thấy sự
có mặt của những gen này ở các cá thẻ biến đổi di truyền (Goodman et al., 1987;
Mackenzie at al., 2003).
Về bản chất, kỹ thuật lai chọn giống tiến hành lựa chọn các gen tái tổ hợp dựa

trên các đa dạng di truyền tồn tại tự nhiên trong các cá thể động thực vật quan tâm. Vì
vậy, kỹ thuật này cho phép chọn lọc và lai tạo giống với các tính trạng chịu ảnh hưởng
của một vài gen riêng lẻ cũng như các tính trạng chịu sự kiểm soát của một gen. Lai
giống thường xảy ra giữa các cá thể của cùng một loài hoặc loài có quan hệ họ hàng.
Ở đây, các nhà tạo giống không biến đổi nguyên liệu di truyền của các cá thể nghiên
cứu. Trong khi ở kỹ thuật di truyền, các nhà khoa học tiến hành phân lập các gen
riêng lẻ kiểm soát các tính trạng cụ thể, nhân chúng lên và thiết kế chúng với các nhân
tố điều khiển tách từ các gen khác để tạo ra ‘kết cấu gen’ nhằm đảm bảo chúng có thể
hoạt động tốt trong sinh vật đích. Sau đó, chúng được chuyển vào trong sinh vật đích
ở các vị trí ngẫu nhiên. Các kỹ thuật sử dụng phương pháp GM liên quan đến các
bước xảy ra ở mức phân tử bên ngoài cơ thể sinh vật. Việc ứng dụng các kỹ thuật mới
này đã tạo ra những bước phát triển vượt bậc trong quá trình tiến hóa. Thông qua sự
biến đổi di truyền, gen được chuyển và biến đổi theo cách không thể xảy ra trong quá
trình tiến hóa của tự nhiên cũng như lai chọn giống như giữa các loài khác nhau và
giữa động vật – thực vật và vi sinh vật. Rất nhiều rào cản tự nhiên có thể dễ dàng vượt
qua như việc chuyển một hoặc nhiều gen giữa các cơ thể sinh vật không có quan hệ di
truyền (Wright, 1994; Gelvin, 1998).
Công nghệ GM đã phát triển nhanh chóng trên nhiều đối tượng và được ứng
dụng rộng rãi không chỉ trong nông nghiệp mà còn trong ngành dược và trong công
nghiệp để sản xuất các hóa chất mới tinh khiết, các chất phụ gia thực phẩm, các chất
phụ gia thực phẩm và các dược phẩm sử dụng các ‘nhà máy’ sản xuất là các GM.
2
Những giai đoạn chính yếu trong quá trình tạo dựng một SVCĐG
CÁC GEN CÓ HOẠT TÍNH GÂY ĐỘC CỦA BT
Sơ lược về Bt
Bt (Bacillus thuringiensis) là trực khuẩn sinh bào tử, hiếu khí hoặc hiếu khí
không bắt buộc, gram (+). Bt có khả năng sản sinh protein tinh thể độc ở dạng ngoại
bào (β, α, γ - exotoxin) và nội bào (δ- endotoxin). Trong đó δ- endotoxin là một họ
protein tinh thể độc chính gây độc hệ tiêu hoá của côn trùng. Trong các loại độc tố
này thì δ- endotoxin, β-exotoxin là các độc tố được nghiên cứu nhiều nhất về mặt

phân tử và phổ tác dụng với côn trùng, chúng tác dụng hầu hết lên các loại côn trùng
thuộc Bộ Cánh vảy (Lepidoptera), Hai cánh (Diptera), Cánh cứng (Coleoptera) và
tuyến trùng (Nematoda) (Francis & CS, 1996).
Phân loại gen mã hoá độc tố của Bt
Các gen nội độc tố cry
Có rất nhiều loại gen mã hóa cho các protein có hoạt tính diệt côn trùng của Bt
(gọi tắt là gen độc) chủ yếu là các gen cry, người ta đã phân tích trình tự của 50 gen
mã hóa cho protein tinh thể độc. Một số giống nhau hoàn toàn, một số khác gần giống
nhau đại diện cho cùng một gen hoặc nhiều gen hoặc là biến dạng từ 1 gen (Francis &
CS, 1996 [25]).
3
Năm 1989, Whiteley đã xây dựng một hệ thống phân loại các gen cry dựa trên
cơ sở khác nhau về trọng lượng protein, phổ tác dụng với côn trùng được chia thành
năm nhóm chính:
Nhóm gen Lớp gen Mã hóa cho
protein độc (kDa)
Phổ tác dụng với côn
trùng
Nhóm I CryI (A, B, C) 130 - 160 Lepidoptera
Nhóm II CryI (A, B, C) 67-71 Lepidoptera, Diptera
Nhóm III CryIII (A, B, C, D, E) 73 Diptera (Oanh và cs)
Nhóm IV CryIV (A, B, C, D) 135, 128, 78, 72 Diptera (Lộc)
Nhóm V Đang được nghiên cứu
sâu về cấu trúc và chức
năng
81,2
Lepidoptera,
Coleoptera (Whiteley
& CS, 1986)
Các gen ngoại độc tố khác

Gen cytA: Là gen tổng hợp nên protein độc với tế bào động vật có xương sống
và không xương sống, hồng cầu động vật có vú. Gen này mã hoá protein có trọng
lượng khoảng 27kDa (trình tự không đồng nhất với bất kì gen cry nào) và hoạt tính
chống côn trùng của protein này vẫn chưa được xác định rõ. Nhưng theo một số
nghiên cứu cho thấy protein này kết hợp vói một số protein do gen cry I mã hoá tạo ra
phức hợp tinh thể hình trứng có tác dụng độc với côn trùng (Sylvain & CS, 2002).
Nhóm gen vip (Vegetative Insecticidal Protein) : Ngoài các gen cry tạo độc tố trong
pha sinh bào tử của vi khuẩn Bacillus thuringiensis, còn có nhiều hướng nghiên cứu
mới về gen vip. Gen vip mã hoá các protein trong pha sinh dưỡng trong chu trình phát
triển của vi khuẩn Bt và Bc có hoạt lực diệt côn trùng có phổ tác dụng mạnh hơn các
protein độc do gen cry mã hóa (Juan & CS, 1996). Một số gen vip (vip1, vip2, vip3)
có phổ diệt côn trùng rất rộng và mạnh như protein Vip3 có kích thước khoảng 88,6
kDa và có hoạt tính kháng sâu xám (Agrotis ypsilon) cao gấp 260 lần so với protein
Cry1A và có phổ hoạt động rộng kháng một số loài côn trùng Bộ Cánh vảy như sâu
xám, sâu cắn chồi thuốc lá (Heliothis virescens) và sâu xanh hại ngô (Helicoverpa
zea) (Victor & CS) và protein vip được xử lý mất đoạn đầu C và N để mở rộng phổ
hoạt động như diệt sâu đục củ khoai tây (Phthrimea opercullelar), sâu đục thân ngô
(Chilo partellus), sâu khoang (Spodoptera litura), sâu tơ hại cải bắp (Plutella
xylostella) (Selvapandiyan & CS, 2001)
Về cơ chế tác dụng độc của các loại protein Vip cũng được nghiên cứu và bước
đầu cho thấy giống như phương thức tác dụng của tinh thể độc δ- endotoxins. Tuy
nhiên protein Vip có hoạt lực sau 48-72 giờ sau khi ăn protein độc, trong khi đó đối
với protein Cry là 16-24 giờ. ( Warren & CS, 1996).
Gần đây, đã có các nghiên cứu sâu hơn về cơ chế tác động, hoạt lực diệt côn
trùng, phổ tác dụng về gen vip để tiến tới phân lập và thiếp kế tạo vector chuyển gen
4
vào thực vật. Theo các nhà khoa học việc tìm ra các gen vip có hoạt tính diệt côn
trùng mạnh và ứng dụng để tạo ra cây chuyển gen có tính kháng sâu và phổ tác động
rộng hơn là vấn đề đang quan tâm của nhiều phòng thí nghiệm trên thế giới (Lê Thu
Hiền, 2003; Selvapandiyan & CS, 2001 [50]; Sylvain & CS, 2002); Victor & CS,

2002); Warren & CS, 1996).
Cơ chế diệt côn trùng của protein độc
Protein độc của Bt có nhiều loại khác nhau nhưng chúng có cơ chế tác động
gây độc chung với côn trùng gồm 3 bước chính (Lê Thu Hiền, 2003; Cannon & CS,
1997; Francis & CS, 1996):
i) Sau khi nuốt phải tinh thể độc (tiền độc tố), dưới tác động của môi
trường có độ pH>10 và sự hoạt động của enzym protease ở ruột giữa
của ấu trùng phân giải tiền độc tố tạo ra protein dạng hoạt hoá có kích
thước khoảng 55-75 kDa.
ii) Độc tố sau khi được hoạt hoá gắn với các phân tử thụ thể đặc hiệu trên
màng các tế bào biểu bì ruột.
iii) Sau khi gắn kết độc tố chèn vào màng tế bào và làm thay đổi gradient
điện hoá do tạo ra các lỗ và các kênh chọn lọc và không chọn lọc. Điều
này dẫn đến sự phá huỷ cân bằng áp suất thẩm thấu trong và ngoài màng
tế bào, là nguyên nhân làm tế bào trương và vỡ ra, làm cho côn trùng
không tiêu hoá được thức ăn dẫn đến chết. Sự chết của côn trùng diễn ra
nhanh chóng và xác chết đã tạo thành nền móng cho sự sinh trưởng của
Bacillus thuringiensis từ những bào tử.
Hình 1: Cơ chế diệt côn trùng của protein độc
Công nghệ Bt truyền thống
5
Bt có thể được nuôi cấy dễ dàng nhờ quá trình lên men. Vì vậy Bt đã được sử dụng
rộng rãi làm thuốc diệt côn trùng từ hơn 40 năm nay ở nhiều nơi trên thế giới. Đặc biệt , Bt
đem lại những lợi ích to lớn cho các nông trại hữu cơ vì chúng được coi là một trong rất ít
thuốc đạt tiêu chuẩn hữu cơ. Tùy thuộc vào cấu trúc (dạng hạt hay dịch) mà thuốc diệt côn
trùng được phun hay rắc. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế nhất định đối với cả hai
trường hợp ứng dụng này như thuốc diệt côn trùng Bt rất khó tiếp xúc với côn trùng đích
ẩn sâu dưới lá, đất. Những bất lợi này hoàn toàn được loại trừ nhờ công nghệ sinh học hiện
đại.
Nghiên cứu và ứng dụng cây trồng biến đổi di truyền Bt trên thế giới

Trên đối tượng thực vật, việc áp dụng công nghệ GM phải mất một thời gian
dài mới thu được thành công. Những thí nghiệm chuyển gen đầu tiên đã sử dụng vi
khuẩn Agrobacterium tumefaciens để đưa gen ADH của nấm men và gen kháng
Kanamycine vào cây thuốc lá (Horsch at al., 1984). Đến nay, rất nhiều cây trồng đã
được chuyển gen thành công, như cà chua, khoai tây, cải, hướng dương, dưa hấu,
khoai lang (James, 1997; Wu, 1998) sử dụng những phương pháp phổ biến như thông
qua A. tumefaciens, xung điện, PEG, bắn gen và mức độ biểu hiện gen có giá trị trong
cây GM đã tăng lên rất nhiều. Hoạt tính độc tố của protein Cry cải biến – protein độc
tố có hoạt tính diệt côn trùng của Bt do gen Cry mã hóa, có thể cao gấp 100 lần so với
hoạt tính của protein tự nhiên (Riazuddin et al., 1996; Cheng et al., 1998).
Nhờ công nghệ GM, các gen có giá trị nông học có thể dễ dàng được chuyển
vào bộ gen thực vật và được điều khiển biểu hiện ở những mô, cơ quan đặc biệt trong
những giai đoạn phát triển nhất định. Số lượng gen được tách dòng, đưa vào vector
thích hợp để chuyển vào cây trồng ngày một nhiều và sản phẩm của quá trình chuyển
gen là hàng loạt cây trồng mang những đặc tính mong muốn. Đến nay, lĩnh vực tạo
giống cây trồng nông nghiệp GM đã phát triển vượt bậc và được ứng dụng mạnh mẽ
nhất (bảng 1).
Bảng 1. Diện tích canh tác cây trồng GM trên thế giới từ năm 1996 – 2005
Hectares (triệu) Acres (triệu)
1996 1,7 4,3
1997 11,0 27,5
1998 27,8 69,5
1999 39,9 98,6
2000 44,2 109,2
2001 52,6 130,0
2002 58,7 145,0
2003 67,7 167,2
2004 81,0 200,0
2005 90,0 222,0
6

Tổng 474,6 1173,3
Nguồn: Clive James, 2005.
Hàng năm, nhiều triệu ha diện tích đất canh tác đã được gieo trồng đại trà.
Năm 2005, diện tích trồng cây GM trên thế giới là 90 triệu ha, tăng 11% so với con số
81 triệu ha của năm 2004, trong đó đậu tương là cây trồng có diện tích gieo trồng lớn
nhất với 54,4 triệu ha (chiếm 60% diện tích gieo trồng cây GM trên toàn cầu), tiếp
đến là ngô (21,2 triệu ha chiếm 24%), bông (9,8 triệu ha chiếm 11%) và cải dầu
canona (4,6 triệu ha chiếm 5%), tập trung chủ yếu vào một số tính trạng (bảng 2).
Bảng 2. Diện tích canh tác cây trồng GM trên toàn cầu năm 2004 – 2005 theo tính
trạng (triệu ha)
Tính trạng 2004 % 2005 % +/- %
Herbicide tolerance 58,6 72 63,7 71 5,1 +9
Insect resistance (Bt) 15,6 19 16,2 18 0,6 +4
Bt/Herbicide
tolerance
6,8 9 10,1 11 3,3 +49
Virus
resistance/Other
<0,1 <1 <0,1 <1 <0,1 <1
Tổng 81,0 100 90,0 100 +9,0 +11
Nguồn: Clive James, 2005.
Đây cũng là năm ghi dấu mốc lịch sử khi số nước trồng cây GM tăng đáng kể
từ 17 nước trong năm 2004 lên 21 nước vào năm 2005 (trong đó 3 nước thuộc liên
minh Châu âu, đó là Bồ Đào Nha, Pháp và CH Séc, nước thứ 4 là Iran) với sự tham
gia của 8,5 triệu nông dân (James, 2005). Đáng chú ý là 90% người trồng được hưởng
lợi là các nông dân nghèo ở các nước đang phát triển, nhờ vào việc trồng cây GM thu
nhập của họ đã tăng cao hơn và đóng góp cho quá trình xoá nghèo. Trong năm qua có
khỏang 7,7 triệu nông dân nghèo kiếm sống nhờ vào trồng trọt đã thu được lợi từ cây
trồng GM (tăng so với 7,5 triệu người của năm 2004) - phần lớn là nông dân ở Trung
Quốc (với 6,4 triệu người), Ấn Độ với 1 triệu người, hàng nghàn nông dân ở Nam Phi

gồm chủ yếu là các nữ nông dân trồng bông Bt, trên 50.000 nông dân ở Philippine, số
còn lại là ở 7 nước đang phát triển đang trồng cây GM trong năm vừa qua. Phần đóng
góp khiêm tốn ban đầu của cây trồng CNSH trong mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
nhằm làm giảm nghèo xuống một nửa vào năm 2015 là một diễn biến quan trọng có
tiềm năng to lớn đối với việc tiếp tục trồng loại cây trồng này trong thập kỷ tiếp theo
(từ năm 2006-2015).
Bảng 3: Diện tích trồng cây GM trên toàn cầu năm 2004 - 2005 phân theo quốc gia (triệu ha)
Quốc gia 2004 % 2005 % +/- % Loại cây trồng GM
Hoa Kỳ* 47,6 59 49,8 55 +2,2 +5 Đậu tương, ngô, bông, cải canola, bí,
7
đu đủ
Argentina* 16,2 20 17,1 19 +0,9 +6 Đậu tương, ngô, bông
Brazil* 5,0 6 9,4 10 +4,4 +88 Đậu tương
Canada* 5,4 6 5,8 6 +0,4 +7 Cải canola, ngô, đậu tương
Trung Quốc* 3,7 5 3,3 4 -0,4 -11 Bông
Paraguay* 1,2 2 1,8 2 +0,6 +50 Đậu tương
Ấn Độ* 0,5 1 1,3 1 +0,8 +160 Bông
Nam Phi* 0,5 1 0,5 1 - - Ngô, đậu tương, bông
Uruguay* 0,3 <1 0.3 <1 <0,1 - Đậu tương, ngô
Australia* 0,2 <1 0,3 <1 +0,1 - Bông
Mexico* 0,1 <1 0,1 <1 <0,1 - Bông, đậu tương
Romania* 0,1 <1 0,1 <1 <0,1 - Đậu tương
Philippines* <0,1 <1 0,1 <1 <0,1 - Ngô
Spain* <0,1 <1 0,1 <1 <0,1 - Ngô
Colombia <0,1 <1 <0,1 <1 <0,1 - Bông
Iran - - <0,1 <1 - - Lúa
Honduras <0,1 <1 <0,1 <1 <0,1 - Ngô
Portugal - - <0,1 <1 - - Ngô
Đức <0,1 <1 <0,1 <1 - - Ngô
8

Pháp - - <0,1 <1 <0,1 - Ngô
Cộng hòa Séc - - <0,1 <1 - - Ngô
Tổng 81,0 100 90,0 100 +9,0 +11
Nguồn: Clive James, 2005
*: Quốc gia canh tác trên 50000 ha cây trồng GM

Năm 1994 là năm đánh dấu cây trồng GM đầu tiên (cà chua Flav’r Sav’r) có
mặt trên thị trường thực phẩm Hoa Kỳ (Chrispeels, Sadava, 2002). Từ đó đến nay số
lượng và chủng lọai cây trồng GM đã tăng lên nhanh chóng và được thương mại hóa
đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế cho các quốc gia. Theo ước tính của
Hãng phân tích thị trường Cropnosis, năm 2005, thị trường cây trồng GM toàn cầu trị
giá 5,25 tỷ $US, trong đó 2,42 tỷ $US từ đậu tương (46% thị trường cây trồng GM
toàn cầu), 1,91 tỷ $US từ ngô (36%), 0,72 tỷ $US từ bông (14%) và 0,21 tỷ $US từ
cải dầu canola (4%). Tổng giá trị lũy kế của thị trường cây trồng GM mang lại trong
vòng 10 năm (từ 1996 – 2005) là khoảng 29,3 $US. Trị giá thị trường cây trồng GM
ước tính sẽ đạt 5,5 $US vào năm 2006.
Tại Mỹ
Người nông dân Mỹ đã nhanh chóng trồng nhiều giống cây chuyển gen từ khi chúng
được tạo ra. Cho đến năm 2000, xấp xỉ 20% diện tích ngô ở Mỹ, hơn 50 % diện tích
đậu tương và gần 75% diện tích bông trồng cây chuyển gen kháng côn trùng hoặc
thuốc diệt cỏ, hoặc cả hai.
Cây trồng Lợi nhuận
Đậu tương chống chịu thuốc diệt
cỏ
* Tiết kiệm 216 triệu đô la mỗi năm trong tổng
số chi phí kiểm soát cỏ dại

* Giảm sử dụng 19 triệu liều thuốc diệt cỏ
(1999)
Bông chống chịu thuốc diệt cỏ

* Giảm sử dụng 19 triệu liều thuốc diệt cỏ
(2000)
Bông kháng sâu
* Sử dụng thuốc trừ sâu ít hơn 2,7 triệu Ib

* Giảm sử dụng 15 triệu liều thuốc trừ sâu mỗi
9
năm

* Tổng thu nhập tăng 99 triệu đô la
Ngô kháng sâu
* 66 triệu ruộng tránh được sâu đục ngô
Tại Canada
Nông dân Canada đã nhanh chóng sử dụng các giống cải dầu chuyển gen từ khi chúng
được tạo ra vào năm 1995. Trong năm 2000, xấp xỉ 55% tổng diện tích cải dầu trồng
cây chuyển gen. Để đánh giá ảnh hưởng của việc này đối với người nông dân và nền
công nghiệp, một nghiên cứu ở Canada đã được tiến hành để xác định những ảnh
hưởng tới kinh tế và nông nghiệp.
Những kết quả của nghiên cứu như sau:
• Kiểm soát cỏ dại hiệu quả hơn
• Quản lý thuốc diệt cỏ dễ dàng hơn nhằm giảm tính kháng của cỏ
• Giảm cày cấy, do đó góp phần bảo tồn đất
• Sản lượng tăng 10 % (7,5 bu/ha)
• Giảm năng lượng cần sử dụng do có ít hoạt động trên đồng ruộng hơn (tiết
kiệm năng lượng 31,2 triệu lít năm 2000, tiết kiệm 8,7 triệu đô)
• Chi phí thuốc diệt cỏ giảm 40%
• Lượng thuốc diệt cỏ sử dụng giảm 6000 tấn
• Thu nhập người nông dân tăng 9,75 đô/ha
Từ khi được đưa ra thị trường vào giữa thập kỷ 90, việc sử dụng cây trồng chuyển gen
ở Bắc Mỹ đã tăng lên đáng kể. Trong năm 1996, Mỹ và Canada trồng tương ứng 1,5

triệu ha và 0,5 triệu ha cây chuyển gen, trong khi đó năm 2000, những con số này tăng
tới 30,3 triệu ha. Vậy sử dụng công nghệ này có đem lại lợi nhuận cho người nông
dân và môi trường không?
Cho tới nay, số lượng những nghiên cứu đã công bố về ảnh hưởng của công nghệ sinh
học ở nông trại tại các nước ngoài Bắc Mỹ còn rất ít. Lợi nhuận đó có đến được với
người nông dân nghèo ở các nước đang phát triển ở châu á và châu Mỹ la tinh hay
không? Rất nhiều người đã nghi ngờ nhưng những nghiên cứu sau đây lại chỉ ra
ngược lại.
Ảnh hưởng của bông Bt ở Nam Phi
10
Ở Nam Phi diện tích trồng bông khoảng trên 80.000 ha và bị thiệt hại đáng kể
hàng năm do sâu quả gây ra. ở vùng đồng bằng Makathini, người nông dân nghèo
trồng từ 1,5 đến 3,0 ha bông; trong đó một số nông dân trồng tới 10 ha.
Từ năm 1997, ngày càng nhiều người nông dân lựa chọn việc trồng bông Bt do nhiều
lợi ích như tăng năng suất và giảm sử dụng thuốc trừ sâu.
Số nông dân trồng bông Bt
Mùa Số lượng nông dân Ha trồng bông Bt
1998 - 1999 75 200
1999 - 2000 410 798
2000 - 2001 644 1250
Những nguyên nhân làm tăng số lượng người nông dân trồng bông Bt
• Giảm số lần sử dụng thuốc trừ sâu
• Giảm chi phí sản xuất
• Tăng cường sức khỏe do ít phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu hơn.
• Tiết kiệm thời gian do không phải mua thuốc trừ sâu mà cửa hàng gần nhất
cũng cách khu vực đồng bằng Makhatini 20 km
Số lần dùng thuốc trừ sâu và sản lượng của 4 người nông dân nghèo ở Makhatini
trồng bông Bt và bông truyền thống.
Nông
dân

Số lần sử dụng thuốc trừ sâu hóa học
(Số lần phun)
Sản lượng (Kg/ha)
Bt Không Bt Tiết kiệm số lần phun Bông Bt Không Bt Tăng sản
lượng
1 0 7 7 2,349 2,005 344
2 0 6 6 1,508 1,206 302
3 1 7 6 1,475 1,149 336
4
1 5 4 2,090 1,509 581
11
Lợi nhuận tương đối của người nông dân qui mô nông trại nhỏ và trồng bông Bt
3
Loại nông dân % tăng sản
lượng
Tiết kiệm số lần
phun thuốc trừ sâu
Lượng thuốc trừ
sâu giảm (g
ai*/ha)
Tổng lợi nhuận
(đôla/ha)
Quy mô lớn
Quy mô nhỏ
23
26
4
6
160
240

112
165
*g ai/ha ? số gam của các thành phần hoạt động mỗi hecta
Ảnh hưởng của bông Bt* ở Trung Quốc
Cho đến nay, những thành quả hứa hẹn nhất cho các nước đang
phát triển là việc trồng bông Bt của ít nhất 3 triệu nông dân
nghèo ở Trung Quốc. Họ trồng tổng số ít nhất 0,5 triệu ha năm
2000, thu được nhiều lợi nhuận.
Trang trại nhỏ hơn và thu nhập thấp hơn đạt được gần gấp đôi
thu nhập trên mỗi đơn vị đất từ việc trồng bông Bt cũng như
những người nông dân quy mô lớn hơn và thu nhập cao hơn.
Phân bố lợi nhuận của bông Bt theo phân loại qui mô nông trại và thu nhập.
Lợi nhuận của bông Bt chủ yếu đến tay người nông dân
Có ít nhất 82,5 % lợi nhuận năm 1999 do trồng bông Bt của Viện hàn lâm Khoa học
Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS), ít nhất 87% lợi nhuận của bông Bt Monsanto
(Mon) và Bông Delta Pineland(DPL) đến tay người nông dân
Những người nông dân trồng những giống bông Bt nổi tiếng nhất giảm được chi phí
sản xuất 20-23% so với những giống mới không phải Bt.
CAAS Hạt của người
nông dân
Mon /
PDL
Hạt của người
nông dân
Diện tích bông Bt năm 1999
(ha)
120,000 60,000 100,000 60,000
Sản lượng (kg/ha) 3,500
3,500
3,440

3,440
Tổng lợi nhuận đến người
nông dân (triệu đô)
45.5 24.1 33.1 36.5
Tổng thu nhập của công ty 9.6 0 5.0 0
12
hạt (triệu đô)
Hoàn lại cho CAAS hoặc
Mon/PDL (triệu đô)
0 0 1.9

0
Cột ?Hạt của người nông dân ? là ước tính xấp xỉ ở những vùng có hạt do nông dân
bán truyền tay, không qua các công ty của Mon/DPL hay CAAS
Benefits of Bollgard over Conventional Cotton
Conventional
Bollgard
Benenfit
Net Revenue (Rs/Acre) 5683 12410 6727
% Gross Revenue Benefit 118%
Yield (Quintals/Acre)
6.54
10.7 4.16
% Yield Benenfit
64%
Number of Sprays against Bollworm
5.1
2.7 2.4
Total Reduction in Pesticides Spend
(Rs/Acre)

2133 1582
551
% Reduction in Pesticides Spend
25%
Source: IMRB International, March, 2006
Giảm sử dụng thuốc trừ sâu và các chất độc hại liên quan
Sử dụng bông Bt đã giảm lượng thuốc trừ sâu sử dụng 15.000 tấn hay 47 kg/ha.
Người nông dân và người lao động ít bị tiếp xúc với thuốc trừ sâu hơn, và những bằng
chứng đã chứng minh sự ngộ độc thuốc trừ cũng giảm.
Giống
Ngộ độc thuốc trừ sâu đã ghi chép (% nông dân)
Chỉ Bt 4,7
Bt và không Bt 10,8
Chỉ không Bt 22,2
Tăng cường đa dạng sinh học
Sử dụng bông Bt có thể làm tăng sự đa dạng sinh học của côn trùng. Các nhà chức
trách địa phương ở tỉnh Hebei năm 1997 tìm thấy 31 loài côn trùng ở cánh đồng Bt,
trong đó có 23 loài có ích, trong khi đó những cánh đồng bông không phải là Bt có 14
loài và trong đó 5 loài có ích.
13
Các nước đang phát triển còn lại
Việc trồng bông Bt ở Achentina cũng có những ảnh hưởng tương tự đối với
những người nông dân địa phương. Trong mùa 1999/2000, lợi nhuận tăng 65,05 đô la
trên một ha. Điều này có được là do tăng sản lượng, cải thiện chất lượng và tiết kiệm
được chi phí sử dụng thuốc trừ sâu (27,55 đô /ha). Các nghiên cứu thực địa ở mọi nơi
ở châu á đều khẳng định những lợi ích đó. Chẳng hạn, ở inđônexia, bông Bt ưu việt
hơn các giống bông địa phương ở tất cả 15 địa điểm được kiểm tra và hiện nay đang
được trồng rộng rãi ở Nam Sulawesi. Các nghiên cứu thực địa ở ấn Độ về bông Bt
cũng cho những kết quả tương tự. Ở Philippin, một nghiên cứu đã chứng minh ngô Bt
cho sản lượng cao hơn.

Cây trồng chuyển gen sẽ đem lại lợi ích cho người nông dân ở các nước đang
phát triển hay không? Từ những kinh nghiệm về bông Bt ở Trung quốc, Nam Phi, và
Achentina, dường như câu trả lời là có. Tuy nhiên, không phải tất cả Công nghệ sinh
học thực vật sẽ có cùng những đặc điểm như bông Bt. Chính người nông dân và chính
phủ quyết định sản phẩm nào họ muốn sử dụng.
Những lợi ích của cây chuyển gen đối với môi trường
Một trong những lợi ích to lớn của cây trồng chuyển gen đối với môi trường là
chúng giúp làm giảm đáng kể lượng thuốc trừ sậu được sử dụng, với tỷ lệ phụ thuộc
vào loại cây trồng và các đặc điểm mới được đưa vào cây trồng đó. Một nghiên cứu
về các tác động của cây trồng GM đối với môi trường và kinh tế sau 9 năm được canh
tác (1996 – 2004) cho thấy việc ứng dụng GM đã là giảm lượng thuốc trừ sâu cần
phải sử dụng khoảng 172 triệu kg, và làm giảm các tác động lên môi trường khoảng
14%. GM cũng góp phần làm giảm đáng kể lượng khí nhà kính thải ra từ các hoạt
động nông nghiệp, tương đương với loại bỏ khoảng 5 triệu xe ôtô. Ở Hoa Kỳ, việc sử
dụng cây trồng GM làm giảm khoảng 46,4 triệu pao thuốc trừ sâu năm 2003. Việc sử
dụng bông Bt ở Trung Quốc làm giảm khoảng 78.000 tấn thuốc trừ sâu năm 2001.
Con số này tương ứng với tổng số thuốc trừ sâu được sử dụng ở Trung Quốc vào giữa
thập niên 90. Hơn nữa, sử dụng bông Bt còn tránh cho người nông dân phải tiếp xúc
với thuốc trừ sâu, giảm rủi ro bị ngộ độc. Thực vật kháng thuốc diệt cỏ tiếp tục tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của phương pháp canh tác giúp bảo tồn đất ở Hoa
Kỳ, đặc biệt là phương pháp canh tác không cần cày đất.Việc sử dụng phương pháp
canh tác bảo tồn đất này giữ được khoảng 1 tỷ tấn đất 1 năm. Cây trồng GM đã được
chứng minh là có ảnh hưởng tích cực lên số lượng và sự đa dạng của các loại côn
trùng có lợi trên cánh đồng bông của Hoa Kỳ và Australia· Ngô Bt được sử dụng ở
Phi-líp-pin không cho thấy bất cứ ảnh hưởng tiêu cực nào lên sự đa dạng và phong
phú của côn trùng (cây trồng chuyển gen và môi trường.
.)
Quản lý tính kháng côn trùng (IRM)
14
Vì cây trồng Bt có khả năng biểu hiện protein Bt liên tục trong suốt mùa gieo trồng

nên các bước phòng ngừa đã được triển khai nhằm tránh sự hình thành tính kháng côn
trùng. EPA liên tục yêu cầu có vùng đệm, khu vực trồng các loài cây không chuyển
gen Bt gần với vùng trồng cây Bt. IRM cho rằng chìa khóa đảm bảo sử dụng bền
vững thuốc diệt côn trùng bao gồm các cây trồng chuyển gen và các công thức phun
vi sinh vật Bt.
Khía cạnh an toàn của Bt
Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
Protein Bt có an toàn với các sinh vật hay không?. Tính đặc hiệu của độc tố Bt đối với
côn trùng đích là một trong những tính trạng khiến Bt trở thành thuốc trừ sâu sinh học
lý tưởng. Trên thực tế, các chủng Bt khác nhau sản sinh ra protein độc tố đối với một
số loài nhất định. Độc tố của pr. Bt tương tác với thụ thể. Có nghĩa là đối với những
côn trùng bị ảnh hưởng protein Bt, trong ruột của chúng phải có những vị trí thụ thể
đặc trưng để protein có thể bám. May mắn là người và đại đa số các côn trùng có ích
không có các thụ thể này. Trước khi đưa ra thị trường cây trồng Bt phải trải qua rất
nhiều thử nghiệm quản lý nghiêm ngặt trong đó bao gồm các nghiên cứu độc tính và
khả năng gây dị ứng. Theo Extension Toxicology Network (Extoxnet), các dự án về
thuốc trừ sâu ở mộ số trường đại học của Hoa Kỳ cho thấy “kết quả cuộc thử nghiệm
trên 18 người mỗi ngày ăn 1 gram Bt thương mại trong vòng 5 ngày, và trong các
ngày khác nhau không gây ra dị ứng gì. Những người ăn 1 gram Bt/ngày trong 3
ngày liên tục hoàn toàn không bị ngộ độc hay nhiễm bệnh”. Hơn nữa ở mức phân tử
protein nhanh chóng bị phân hủy bởi dịch vị dạ dày (trong điều kiện phòng thí
nghiệm) (Extoxnet, 1996).
Ảnh hưởng đến môi trường nước ngầm và hệ sinh thái đất
Protein Bt tồn tại tương đối bền trong đất và được phân loại vào dạng bất động vì nó
không có khả năng di chuyển hoặc thấm qua nước ngầm. Protein này không bền vững
trong điều kiện đất acid, và bị phân hủy nhanh chóng dưới ánh nắng mặt trời, dưới tác
động của tia UV.
Các chuyên gia đã tiến hành những nghiên cứu độc lập nhằm điều tra các ảnh hưởng
của cây trồng Bt đối với sinh vật đất và các loài côn trùng khác được xem lầ có ích
trong nông nghiệp. Kết quả cho thấy, chúng không gây ra ảnh hưởng bất lợi đối với

sinh vật đất không phải là đích tấn công của chúng, thậm chí ngay cả sinh vật này
được xử lý Bt với liều lượng cao hơn nhiều so với thực tế có thể xẩy xa trong điều
kiện tự cho thấy không có sự thay đổi nào trong quần thể vi sinh vật đất giữa các cánh
đồng có nguyên liệu thực vật Bt và cánh đồng nguyên liệu thực vật truyền thống
(Donegan et al., 1995), cũng như không quan sát thấy sự khác biệt giữa các cánh đồng
trồng Bt và cây không chuyển gen (Donegan et al., 1996).
Động vật và côn trùng
Các thử nghiệm tiến hành trên chó, chuột, chuột lang, thỏ, cá, ếch, kỳ nhông và chim
cho thấy protein Bt không ra những ảnh hưởng có hại. Cũng cần nhấn mạnh rằng, độc
tố cũng hoàn toàn không gây ảnh hưởng tới các loài côn trùng có ích hoặc động vật ăn
15
thịt như ong mật và bọ cánh cứng (Extocnet, 1996). Năm 1999, có một báo cáo về ảnh
hưởng có hại của hạt phấn ngô Bt đến ấu trùng của loài bướm Monarch, báo cáo này
đã gây ra mối quan tâm lo ngại về mối rủi ro mà thực vật Bt có thể gây ra đối với dinh
vật không cần diệt. Tuy nhiên, những nghiên cứu gần đây cho thấy ngô Bt gây ảnh
hưởng không đáng kể đối với quần thể bướm Monarch trên cánh đồng. Nỗ lực nghiên
cứu hợp tác giữa các nhà khoa học Hoa Kỳ và Canada đã cung cấp những thông tin để
xây dựng quy trình đánh giá rui ro tiêu chuẩn về ảnh hưởng của ngô Bt đối với quần
thể bướm Monarch. Họ đi đến kết luận rằng, hầu hết các giống lai thương mại, protein
Bt được biểu hiện với nồng độ thấp trong hạt phấn và nghiên cứu trong phòng thí
nghiệm và trên cánh đồng cho thấy mọi mật đọ hạt phấn đều không gây ảnh hưởng có
hại trên đồng ruộng.
Hiện trạng nghiên cứu và ứng dụng cây trồng GM ở việt nam
Ở nước ta, công nghệ sinh học được xem là ngành quan trọng. Nghị quyết số 18/CP
của chính phủ ngày 11 tháng 3 năm 1994 chỉ rõ: “ cùng với các ngành công nghệ
mũi nhọn khác (công nghệ thông tin và công nghệ vật liệu mới), công nghệ sinh học
sẽ góp phần khai thác tối ưu các nguồn lực của đất nước phục vụ sản xuất, nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân và chuyển bị những tiền đề cần thiết về mặt công
nghệ cho đất nước tiến vào thế kỷ 21 ”. Từ năm 1994 đến nay, nhờ các biện pháp và
chính sách khuyến khích, đầu tư hiệu quả công nghệ sinh học ở nước ta ngày càng

phát triển mạnh mẽ (Nguyễn Văn Bộ, 2001). Từ năm 2001, chính phủ đã đầu tư 3 dự
án/đề tài nghiên cứu sinh vật GM liên quan đến nhiều cây trồng quan trọng của Việt
Nam. Bên cạnh đó, một số phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học đã và đang được
nhà nước đầu tư trang thiết bị hiện đại và triển khai các kỹ thuật cơ bản của công nghệ
gen như phân lập và xách định trình tự gen, thiết kế và biến nạp gen vào tế bào vi sinh
vật, động vật thực vật, nghiên cứu biểu hiện gen Tại Viện Công nghệ sinh học,
hướng nghiên cứu các giống cây trồng GM đã được đẩy mạnh ngay từ cuối những
năm 1990. Các cán bộ của Viện đã tiến hành thu thập và phân lập các nguồn gen có
giá trị nông nghiệp như gen chịu hạn, lạnh ở lúa; gen Cry, gen mã hóa protein bất hoạt
hóa ribosome (RIP) ở cây mướp đắng và gen mã hóa α-amylase của cây đậu cove có
hoạt tính diệt côn trùng; gen VIP kháng bọ hà khoai lang của vi khuẩn Bt; gen CP mã
hóa protein vỏ của virus gây bệnh đốm vòng ở cây đu đủ (Lê Trần Bình et al., 1998;
Lê Trần Bình, Lê Thị Muội, 1998; Lâm Đại Nhân et al., 1999; Lê Thị Thu Hiền et al.,
1999; Nguyễn Thúy Hà et al., 1999; Nguyễn Trung Nam et al., 2002; Võ Thị Thứ et
al., 2002). Các gen này đã, đang và sẽ được làm nguyên liệu thiết kế vector chuyển
gen (Lê Thị Thu Hiền et al., 2002a,2002b). Viện cũng triển khai các nghiên cứu hoàn
thiện những phương pháp chuyển gen vào một số cây trồng quan trọng (Đinh Thị
Phòng et al., 1995); Trần Thị Phương Liên, Nông Văn Hải, 1997; Hoàng Thị Kim
Oanh et al., 1997, 1998; Phạm Bích Ngọc et al., 2002; Trương Thu Thủy et al., 2003).
Đặc biệt trong chương trình CNSH KHCN-02 giai đoạn 1996-2000, Viện đã thực hiện
đề tài công nghệ chuyển gen vào cây trồng, trong đó gen Xa21 kháng bệnh bạc lá do
vi khuẩn ở lúa gây ra, gen Cry đã được chuyển vào lúa và trong chương trình Khoa
16
học Công nghệ nhà nước KC.04, Viện thực hiện đề tài KC.04.13 Nghiên cứu áp dụng
công nghệ gen để tạo cây chuyển gen nâng cao sức chống chịu đối với sâu bệnh và
ngoại cảnh bất lợi đã thu được một số dòng cây mang gen chuyển (4 loại cây trồng đã
chuyển gen: lúa, bông, hoa cúc và hoa hồng mang gen Cry kháng sâu và gen ACO
nhằm kéo dài tuổi thọ của hoa cắt. Ngoài ra, trong khuôn khổ các đề án hợp tác trong
nước và quốc tế, những vấn đề tăng cường tính chịu hạn và chịu mặn ở cây lúa bằng
công nghệ GM, chuyển gen kháng virus đốm vòng vào cây đu đủ, chuyển gen Cry và

gen chịu hạn vào cây bông đã và đang được triển khai hiệu quả với một số loài cây
GM trồng thử nghiệm ở nhà kính (Lê Trần Bình, 2002). Ngoài ra còn một số phòng
thí nghiệm và Viện khác cũng bắt tay vào công cuộc tạo cây trồng GM, như Viện
Sinh học Nhiệt đới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Di truyền nông
nghiệp
Kết quả của những nghiên cứu trên là những cây chuyển gen đã được tạo ra và
lưu giữ trong điều kiện phòng thí nghiệm và trong điều kiện nhà kính. Những cây
trồng này đang được thử nghiệm từ khi có quy chế quản lý về an toàn sinh học đối với
các sinh vật biến đổi gen; sản phẩm, hàng hoá có nguồn gốc từ sinh vật biến đổi gen
(văn bản số 212/2005/QĐ-TTg ngày 26 tháng 8 năm 2005 của thủ tướng chính phủ).
Hiện nay ở Việt Nam, chỉ có cây bông Bt được trồng và thử nghiệm đặc tính
kháng sâu của chúng.
Một số kết quả điển hình
Diện tích sản xuất bông bằng giống kháng sâu ở các vùng qua các năm (Số liệu thống
kê ở các vùng bông chính thuộc các Chi nhánh Công ty Bông)
Vụ/Chi nhánh Niên vụ
2000/2001 2001/2002 2002/2003
Giống
kháng
Toàn
vùng
Tỷ lệ
(%)
Giống
kháng
Toàn
vùng
Tỷ lệ
(%)
Giống

kháng
Toàn
vùng
Tỷ lệ
(%)
* Vụ đông xuân
Ban Mê Thuột 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Cư Jút 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Gia Lai 0 0 0 470 470 100,0 570 570 100,0
Đồng Nai 0 0 0 303 305 99,3 0 0 0
Phan Thiết 123 123 100,0 512 512 100,0 700 700 100,0
Tổng/vụ 123 123 100,0 1285 1287 99,8 1270 1270 200,0
*Vụ mùa
Ban Mê Thuột 0 5351 0 115 5640 2,0 1357 6631 20,5
Cư Jút 0 3607 0 0 0 0 1327 5280 25,1
Gia Lai 0 563 0 120 1811 6,6 4400 5054 87,1
Đồng Nai 0 1255 0 145 2458 5,9 1138 2003 56,8
Phan Thiết 0 2527 0 410 4080 10,0 3350 4700 71,3
Hà Nội 0 120 0 5 460 1,1 145 1000 14,5
Tổng/vụ 0 13603 0 795 14449 5,5 11717 24668 47,5
17
Tình hình một số loài sâu miệng nhai trên giống bông Bt
Đố tượng sâu hại
Mật độ (sâu/100 cây)
Bông thường Bông chuyển gen
Sâu đo 35,6 8,4
Sâu cuốn lá 35,0 1,8
Sâu
hồng
Sâu/100 quả 176,5 25,0

% sâu bị hại 75,5 15,0
(Nguồn: Nguyễn Hữu Bình, 2002)
Từ những lý do trên, chúng tôi thấy rằng:
Cây trồng GM đã góp phần đáng kể vào việc tăng năng suất và chất lượng
nông sản phẩm, đặc biệt việc canh tác trồng cây Bt đã làm giảm thiểu việc sử dụng
thuốc hóa học, đảm bảo an toàn cho môi trường sinh thái cũng như sức khỏe con
người, mang lại những mùa màng bội thu.
Công nghệ GM và cây trồng GM sẽ tiếp tục là mũi nhọn trong thế kỷ 21. Việc
sử dụng sinh vật GM và sản phẩm của chúng đã trở thành một vấn đề toàn cầu, gây ra
một thách thức lớn đối với các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Trong các biện pháp bảo vệ cây trồng khỏi sự tấn công của sâu bệnh thì biện
pháp canh tác cây trồng Bt là một trong những đường hướng quan trọng góp phần vào
bảo vệ mùa màng, đem lại lợi ích về kinh tế, môi trường trước mắt và lâu dài.
18

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×