Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đề tài: Đồ án Xoá đói giảm nghèo ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.13 KB, 29 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Đề tài
Đồ án Xố đói giảm nghèo

1

1


MỤC LỤC

I. Những vấn đề cơ bản về đói nghèo
1. Nghèo tuyệt đối
"Nghèo ở mức độ tuyệt đối.... là sống ở ranh giới ngoài cùng của tồn
tại. Những người nghèo tuyệt đối là những người phải đấu tranh để sinh tồn
trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê và mất phẩm cách vượt
quá sức tưởng tượng mang dấu ấn của cảnh ngộ may mắn của giới trí thức
chúng ta."
Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 USD/ngày theo sức mua tương
đương của địa phương so để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát
cho nạn nghèo tuyệt đối. Trong những bước sau đó các trị ranh giới nghèo
tuyệt đối (chuẩn) cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2
USD/ngày cho châu Mỹ La tinh và Carribean đến 4 USD/ngày cho những
nước Đông Âu cho đến 14,40 USD/ngày cho những nước công nghiệp….
(Theo nguồn tin của chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc 1997).
Đối với Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn
nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Theo Quyết định số
143/2001/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001,
trong đó phê duyệt "Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo
giai đoạn 2001-2005", thì những hộ gia đình có thu nhập bình qn đầu người


ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng
(960.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực nơng thơn đồng
bằng những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người từ 100.000 đồng/
người/tháng (1.200.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo, ở khu vực
thành thị những hộ có thu nhập bình qn đầu người từ 150.000 đồng/ người/
tháng (1.800.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
2

2


Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
8 tháng 7 năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn
2006-2010 thì ở khu vực nơng thơn những hộ có mức thu nhập bình qn từ
200.000 đồng/người/tháng (2.400.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ
nghèo, ở khu vực thành thị những hộ có thu nhập bình qn từ 260.000 đồng/
người/tháng (dưới 3.120.000 đồng/người/năm) trở xuống là hộ nghèo.
2. Nghèo tương đối
Nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ
các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng
lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó.
Nghèo tương đối có thể là khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ
thuộc vào cảm nhận của những người trong cuộc. Người ta gọi là nghèo
tương đối chủ quan khi những người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ
thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh việc thiếu sự cung cấp vật chất
(tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan
trọng hơn. Việc nghèo đi về văn hóa - xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã
hội do thiếu hụt tài chính một phần được các nhà xã hội học xem như là một
thách thức xã hội nghiêm trọng.
3. Nghèo khổ của con người (Nghèo khổ tổng hợp)

Sự nghèo khổ của con người là khái niệm đã được Liên Hợp Quốc đưa
ra trong “Báo cáo về phát triển con người” năm 1997. Theo đó, nghèo khổ
của con người là khái niệm biểu thị sự thiệt thịi (khốn cùng) theo cả ba khía
cạnh cơ bản nhất của cuộc sống con người. Chẳng hạn đối với các nước đang
phát triển thì sự thiệt thịi đó là:
+ Thiệt thịi trên khía cạnh cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được xác
định bởi tỷ lệ người dự kiến có tuổi thọ khơng q 40 tuổi.
+ Thiệt thịi về tri thức, được xác định bởi tỷ lệ người lớn mù chữ.

3

3


+ Thiệt thòi về đảm bảo kinh tế (nghèo khổ về thu nhập), được xác định
bởi tỷ lệ người không tiếp cận được các dịch vụ y tế, nước sạch và tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
Để đánh giá “nghèo khổ của con người”, Liên Hợp Quốc đã sử dụng
chỉ số nghèo khổ của con người – HPI (Human Poor Index) hay còn gọi là chỉ
số nghèo tổng hợp. Giá trị HPI của một nước nói lên rằng sự nghèo khổ của
con người ảnh hưởng lên bao nhiêu phần dân số của nước đó. So sánh các giá
trị HDI và HPI cho thấy sự phân phối thành tựu của tiến bộ con người. Các
nước có thể có giá trị HDI như nhau nhưng giá trị HPI sẽ khác nhau.
Ví dụ: Trường hợp của Trung Quốc và Gicđani (1999). Chỉ số phát
triển con người HDI của mỗi nước đều là 0,718 và 0,714; chỉ số nghèo khổ
con người HPI của Trung Quốc là 15,1% và của Gioócđani là 8,5%. ở Việt
Nam, HPI năm 1999 là 29,1% xếp hạng theo HPI nước ta đứng thứ 45 trên 90
quốc gia được Liên Hợp Quốc nghiên cứu.
4. Đặc trưng của người nghèo và chiến lược xố đói giảm nghèo
Quy mơ và mức độ nghèo đói ở mỗi nước phụ thuộc vào hai yếu tố: thu

nhập bình quân đầu người và mức độ trong phân phối bất bình đẳng thu nhập.
Với bất kỳ mức thu nhập bình quân đầu người nào, việc phân phối càng bất
cơng bao nhiêu thì số người nghèo đói sẽ càng nhiều hơn bấy nhiêu. Tương tự
như vậy thì với bất kỳ sự phân phối nào, mức thu nhập bình qn càng thấp
thì mức độ nghèo đói càng cao. Như vậy, phạm vi nghèo đói tuyệt đối là sự
kết hợp của thu nhập bình quân đầu người thấp và phân phối thu nhập khơng
đồng đều. Điều này có ý nhĩa quan trọng làm cơ sở để các nước đang phát
triển có được những lựa chọn chính sách tồn diện cho giảm nghèo đói. Nếu
chỉ tập trung vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế với hy vọng tăng
thu nhập quốc dân sẽ cải thiện được mức sống cho những người nghèo thì
chưa đủ mà cần phải tập trung cho chiến lược chống nghèo đói trong cả ngắn
hạn và dài hạn, kết hợp giữa yếu tố tăng trưởng kinh tế với đảm bảo công

4

4


bằng trong phân phối thu nhập. Để làm được điều này thì phải biết các nhóm
nghèo là ai và đặc điểm kinh tế của họ là gì?
+ Điều khái quát có thể nhận thấy là trong số các nhóm nghèo thì đại bộ
phận là sống ở khu vực nơng thơn và chủ yếu tham gia vào các hoạt động
nông nghiệp. Họ là những nông dân thiếu phương tiện sản xuất, đặc biệt là đất
đai.
+ Ở thành thị thì người nghèo thường tập trung ở khu vực phi chính
thức, nơi mà họ nhận được thu nhập là do lao động tự tạo việc làm (những
người buôn bán nhỏ, bán hàng rong, trẻ đánh giày,….). Họ là những người
khơng có vốn hoặc có vốn nhưng ít và trình độ giáo dục thấp.
+ Hầu hết các nước đang phát triển, số phụ nữ có thu nhập thấp nhất
thường nhiều hơn nam giới. Các quan sát trong thực tế cho thấy, họ được học

hành ít hơn, ít có cơ hội kiếm việc làm hơn và được trả lương thấp hơn so với
nam giới.
Để đánh giá thành cơng trong xố đói giảm nghèo, người ta thường
xem xét mức độ giảm tương ứng với mỗi % tăng trưởng kinh tế. Theo nhận
xét của WB, tiêu dùng bình quân đầu người tăng 1% sẽ làm giảm trung bình
2% tỷ lệ nghèo (đối với bộ phận dân cư sống dưới mức 1USD/ngày), tỷ lệ
giảm này sẽ là 1,5% nếu hệ số GINI (bất bình đẳng trong phân phối thu nhập)
là 0,6 và tỷ lệ giảm này sẽ tăng lên gấp đơi (3%) nếu như hệ số GINI có giá trị
là 0,2. Ở Việt Nam, 1% tăng trưởng GDP/người đã làm giảm 1.3% nghèo
(giai đoạn 1993-1998) và giảm 1,2% (giai đoạn 1998-2002).
Nhìn chung nghèo khổ và sự giảm nghèo là không đồng đều giữa các
nước, giữa các vùng và nhóm dân cư trong từng nước. Vì vậy, chính sách
chống đói nghèo khơng chỉ chứa đựng nhiều thách thức mang tính chất vĩ mơ
và cả vi mơ. Nó khơng địi hỏi là cần phải đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh mà phải làm thế nào để tất cả các tầng lớp dân cư nghèo khổ trong xã
hội cùng được hưởng lợi từ tăng trưởng; đồng thời có chính sách trọng điểm

5

5


nhằm giảm tình trạng nghèo khổ tuyệt đối. Những nội dung này đã được phản
ánh trong “chiến lược xố đói giảm nghèo của quốc gia”.
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo của nước ta
đã được Chính phủ phê duyệt ngày 21/5/2002. Chiến lược này được coi là
chương trình hành động để thực hiện định hướng tăng trưởng kinh tế và xố
đói giảm nghèo. Chiến lược cũng đã thể hiện được tính hài hồ giữa tăng
trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội.


PHẦN 2: VẤN ĐỀ ĐĨI NGHÈO Ở VIỆT NAM

I. Xố đói giảm nghèo là chương trình trọng điểm của Chính phủ
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư khơng được hưởng và thoả
mãn các nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội
thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của
địa phương. Khái niệm này đang được nhiều quốc gia sử dụng trong đó có
Việt Nam.

6

6


Ngay từ khi Việt Nam giành được độc lập (1945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định đói nghèo như là một thứ "giặc" cũng như giặc dốt, giặc
ngoại xâm, nên đã đưa ra mục tiêu phấn đấu để nhân dân lao động thoát nạn
bần cùng, làm cho mọi người có cơng ăn, việc làm, ấm no và đời sống hạnh
phúc. Giảm đói nghèo khơng chỉ là một trong những chính sách xã hội cơ
bản, được Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà còn là một bộ phận
quan trọng của mục tiêu phát triển.
Xóa đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản đảm bảo công bằng xã hội và
tăng trưởng bền vững
Xóa đói giảm nghèo khơng chỉ là cơng việc trước mắt mà cịn là nhiệm
vụ lâu dài. Trước mắt là xóa hộ đói, giảm hộ nghèo; lâu dài là xóa sự nghèo,
giảm khoảng cách giàu nghèo, phấn đấu xây dựng một xã hội giàu mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh.
Xóa đói giảm nghèo khơng đơn giản là việc phân phối lại thu nhập một
cách thụ động mà phải tạo ra động lực tăng trưởng tại chỗ, chủ động tự vươn
lên thốt nghèo. Xóa đói giảm nghèo khơng đơn thuần là sự trợ giúp một

chiều của tăng trưởng kinh tế đối với các đối tượng xã hội có nhiều khó khăn
mà cịn là nhân tố quan trọng tạo ra một mặt bằng tương đối đồng đều cho
phát triển, tạo thêm một lực lượng sản xuất dồi dào và bảo đảm sự ổn định
cho giai đoạn “cất cánh”.
Do đó, xóa đói giảm nghèo là một trong những mục tiêu của tăng
trưởng (cả trên góc độ xã hội và kinh tế), đồng thời cũng là một điều kiện
(tiền đề) cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Trên phương diện nào đó, xét về
ngắn hạn, khi phân phối một phần đáng kể trong thu nhập xã hội cho chương
trình xóa đói giảm nghèo thì nguồn lực dành cho tăng trưởng kinh tế có thể bị
ảnh hưởng, song xét một cách tồn diện về dài hạn thì kết quả xóa đói giảm
nghèo lại tạo tiền đề cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Tình hình cũng
giống như việc thực hiện người cày có ruộng ở một số nước đã tạo ra sự phát
triển vượt bậc của nông nghiệp. Nhiều nông dân nhờ đó đã thốt khỏi đói
7

7


nghèo và có điều kiện tham gia thực hiện cách mạng xanh, tạo sự phát triển
mới cho ngành nơng nghiệp.
Xố đói giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và
tăng trưởng bền vững, ngược lại chỉ có tăng trưởng cao, bền vững mới có sức
mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn lên thốt khỏi
đói nghèo. Do đó, xố đói giảm nghèo được coi là một bộ phận cấu thành của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội hàng năm của cả nước, các ngành và các
địa phương.
Đói nghèo đang là vấn đề xã hội bức xúc và nóng bỏng của các quốc
gia trên thế giới. Vì vậy, đây là vấn đề được các Chính phủ, các nhà lãnh đạo,
các tổ chức quốc tế quan tâm để tìm các giải pháp hạn chế và tiến tới xố bỏ
nạn đói nghèo trên phạm vi tồn cầu.

Chính phủ Việt Nam coi vấn đề xố đói giảm nghèo là mục tiêu xuyên
suốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cũng như Việt
Nam đã công bố cam kết thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế đã được
nhất trí tại Hội nghị thượng đỉnh các quốc gia năm 2000. Công cuộc phát triển
kinh tế và xố đói giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu
đáng kể và được quốc tế đánh giá cao.
Xóa đói giảm nghèo được đặt thành một bộ phận của Chiến lược phát
triển dài hạn, kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển kinh tế - xã hội từ
Trung ương đến cơ sở. Cơng tác xóa đói giảm nghèo phải được quan tâm
ngay từ khi xây dựng chủ trương, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội dài hạn,
trung hạn và hàng năm, coi đó là một nhiệm vụ trọng tâm của kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của Nhà nước đối với cơng tác xóa đói giảm nghèo.
Thơng qua kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước chủ động điều tiết
hợp lý các nguồn lực của toàn xã hội vào mục tiêu và hoạt động xóa đói giảm
nghèo quốc gia. Nhà nước xây dựng các biện pháp thiết yếu như đầu tư hỗ trợ
sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng, lập các quỹ cứu trợ xã hội,.... để giúp đỡ,
bảo vệ người nghèo. Duy trì liên tục sự trao đổi, phân phối mang tính thị
8

8


trường, nhưng không loại người nghèo ra khỏi những nguồn lực và lợi ích của
sự thịnh vượng chung về kinh tế. Kinh nghiệm thế giới cho thấy sự thiếu vắng
vai trị của Nhà nước đặc biệt có hại đối với người nghèo, cộng đồng nghèo,
vì người nghèo khơng tự bảo vệ được các quyền của mình, hơn nữa trong
thành quả chung của tăng trưởng kinh tế, Nhà nước có vai trị nịng cốt và có
trách nhiệm thu hút sự tham gia tích cực của cộng đồng, các tổ chức chính trị,
kinh tế, xã hội.
Xóa đói giảm nghèo khơng chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, toàn xã hội

mà trước hết là bổn phận của chính người nghèo phải tự vươn lên để thốt
nghèo. Trong khi trách nhiệm của Chính phủ là giúp gỡ bỏ rào cản ngăn cách
xã hội và kinh tế để xóa đói giảm nghèo; thì hiệu quả xóa nghèo đạt thấp nếu
bản thân người nghèo khơng tích cực và nỗ lực phấn đấu vươn lên với mức
sống cao hơn. Xóa đói giảm nghèo phải được coi là sự nghiệp của bản thân
người nghèo, cộng đồng nghèo, bởi vì sự nỗ lực tự vươn lên để thốt nghèo
chính là động lực, là điều kiện cần cho sự thành cơng của mục tiêu chống đói
nghèo ở các nước. Nhà nước sẽ trợ giúp người nghèo biết cách tự thoát nghèo
và tránh tái nghèo khi gặp rủi ro. Bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất trực tiếp thì
việc tạo việc làm cho người nghèo bằng cách hướng dẫn người nghèo sản
xuất, kinh doanh phát triển kinh tế theo điều kiện cụ thể của họ chính là điều
kiện xóa đói giảm nghèo thành công nhanh và bền vững.

II. Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Việt Nam
1. Thực trạng
1.1. Việt Nam được xếp vào nhóm các nước nghèo của thế giới
Tỷ lệ hộ đói nghèo của Việt Nam cịn khá cao. Theo kết quả Điều tra
mức sống dân cư (theo chuẩn nghèo chung của quốc tế), tỷ lệ đói nghèo năm
1998 là trên 37% và ước tính năm 2000 tỷ lệ này vào khoảng 32% (giảm

9

9


khoảng 1/2 tỷ lệ hộ nghèo so với năm 1990). Nếu tính theo chuẩn đói nghèo
về lương thực, thực phẩm năm 1998 là 15% và ước tính năm 2000 là 13%.
Theo chuẩn nghèo của Chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia mới,
đầu năm 2000 có khoảng 2,8 triệu hộ nghèo, chiếm 17,2% tổng số hộ trong cả
nước.

1.2. Nghèo đói phổ biến trong những hộ có thu nhập thấp và bấp bênh
Mặc dù Việt Nam đã đạt được những thành công rất lớn trong việc
giảm tỷ lệ nghèo, tuy nhiên cũng cần phải thấy rằng, những thành tựu này vẫn
còn rất mong manh. Thu nhập của một bộ phận lớn dân cư vẫn nằm giáp ranh
mức nghèo, do vậy chỉ cần những điều chỉnh nhỏ về chuẩn nghèo, cũng khiến
họ rơi xuống ngưỡng nghèo và làm tăng tỷ lệ nghèo.
Phần lớn thu nhập của người nghèo là từ nông nghiệp. Với điều kiện
nguồn lực rất hạn chế (đất đai, lao động, vốn), thu nhập của những người
nghèo rất bấp bênh và dễ bị tổn thương trước những đột biến của mỗi gia đình
và của cộng đồng. Nhiều hộ gia đình tuy mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo,
nhưng vẫn giáp ranh với ngưỡng nghèo đói nên khi có những dao động về thu
nhập cũng có thể khiến họ trượt xuống ngưỡng nghèo. Tính mùa vụ trong sản
xuất nơng nghiệp cũng tạo nên khó khăn cho người nghèo.
Mức độ cải thiện thu nhập của người nghèo chậm hơn nhiều so với
mức sống chung và đặc biệt so với nhóm có mức sống cao. Sự gia tăng chênh
lệch thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất (từ 7,3 lần năm
1993 lên 8,9 lần năm 1998) cho thấy, tình trạng tụt hậu của người nghèo
(trong mối tương quan với người giàu). Mặc dù chỉ số nghèo đói có cải thiện,
nhưng mức cải thiện ở nhóm người nghèo chậm hơn so với mức chung và đặc
biệt so với nhóm người có mức sống cao. Hệ số chênh lệch mức sống giữa
thành thị và nơng thơn cịn rất cao.
1.3. Nghèo đói tập trung ở các vùng có điều kiện sống khó khăn
Đa số người nghèo sinh sống trong các vùng tài nguyên thiên nhiên rất
nghèo nàn, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa
10

10


hoặc ở các vùng Đồng bằng sông Cửu Long, miền Trung, do sự biến động của

thời tiết (bão, lụt, hạn hán....) khiến cho các điều kiện sinh sống và sản xuất
của người dân càng thêm khó khăn. Đặc biệt, sự kém phát triển về hạ tầng cơ
sở của các vùng nghèo đã làm cho các vùng này càng bị tách biệt với các
vùng khác. Năm 2000, khoảng 20-30% trong tổng số 1.870 xã đặc biệt khó
khăn chưa có đường dân sinh đến trung tâm xã; 40% số xã chưa đủ phịng
học; 5% số xã chưa có trạm y tế; 55% số xã chưa có nước sạch; 40% số xã
chưa có đường điện đến trung tâm xã; 50% chưa đủ công trình thuỷ lợi nhỏ;
20% số xã chưa có chợ xã hoặc cụm xã.
Bên cạnh đó, do điều kiện thiên nhiên không thuận lợi, số người trong
diện cứu trợ đột xuất hàng năm khá cao, khoảng 1-1,5 triệu người. Hàng năm
số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thốt khỏi nghèo vẫn cịn lớn.
1.4. Đói nghèo tập trung trong khu vực nơng thơn
Nghèo đói là một hiện tượng phổ biến ở nông thôn với trên 90% số
người nghèo sinh sống ở nơng thơn. Năm 1999, tỷ lệ nghèo đói về lương thực,
thực phẩm của thành thị là 4,6%, trong khi đó của nơng thơn là 15,9%. Trên
80% số người nghèo là nơng dân, trình độ tay nghề thấp, ít khả năng tiếp cận
các nguồn lực trong sản xuất (vốn, kỹ thuật, công nghệ....), thị trường tiêu thụ
sản phẩm gặp nhiều khó khăn do điều kiện địa lý và chất lượng sản phẩm
kém, chủng loại sản phẩm nghèo nàn. Những người nơng dân nghèo thường
khơng có điều kiện tiếp cận với hệ thống thơng tin, khó có khả năng chuyển
đổi việc làm sang các ngành phi nông nghiệp. Phụ nữ nông dân ở vùng sâu,
vùng xa, nhất là nữ chủ hộ độc thân, phụ nữ cao tuổi là những nhóm nghèo dễ
bị tổn thương nhất. Phụ nữ nghèo lao động nhiều thời gian hơn, nhưng thu
nhập ít hơn, họ ít có quyền quyết định trong gia đình và cộng đồng do đó có ít
cơ hội tiếp cận các nguồn lực và lợi ích do chính sách mang lại.
Biểu 1.2: Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới giữa
thành thị và nông thôn năm 2000
11

11



Số hộ

So với số hộ

So với tổng

nghèo

trong vùng

số hộ nghèo

(%)

(nghìn hộ)
Tổng số
2.800
Nơng thơn:
2.535
Trong đó: - Nơng thơn miền núi 785
- Nơng thơn đồng 1.750

17,2
19,7
31,3
16,9

cả nước (%)

100
90,5
28,0
62,5

bằng
Thành thị

7,8

9,5

265

Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo

1.5. Nghèo đói trong khu vực thành thị
Trong khu vực thành thị, tuy tỷ lệ nghèo đói thấp hơn và mức sống
trung bình cao hơn so với mức chung cả nước, nhưng mức độ cải thiện điều
kiện sống không đồng đều. Đa số người nghèo đô thị làm việc trong khu vực
kinh tế phi chính thức, công việc không ổn định, thu nhập thấp và bấp bênh.
Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế và chủ sở hữu trong khu vực Nhà nước
dẫn đến sự dôi dư lao động, mất việc làm của một bộ phận người lao động ở
khu vực này, làm cho điều kiện sống của họ càng thêm khó khăn hơn. Số lao
động này phải chuyển sang làm các công việc khác với mức lương thấp hơn,
hoặc khơng tìm được việc làm và trở thành thất nghiệp.
Người nghèo đô thị phần lớn sống ở những nơi có cơ sở hạ tầng thấp
kém, khó có điều kiện tiếp cận tới các dịch vụ cơ bản (nước sạch, vệ sinh mơi
trường, thốt nước, ánh sáng và thu gom rác thải....). Họ thường dễ bị tổn
thương do sống phụ thuộc chủ yếu vào nguồn thu nhập bằng tiền và khơng có

hoặc có ít khả năng tiết kiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn tạo
việc làm.
Q trình cơng nghiệp hóa và đơ thị hóa làm tăng số lượng người di
cư tự do từ các vùng nông thôn đến các đô thị, chủ yếu là trẻ em và người
12

12


trong độ tuổi lao động. Hiện tại chưa có số liệu thống kê về số lượng người di
cư tự do này trong các báo cáo về nghèo đói đơ thị. Những người này gặp rất
nhiều khó khăn trong việc đăng ký hộ khẩu hoặc tạm trú lâu dài, do đó họ khó
có thể tìm kiếm được cơng ăn việc làm và thu nhập ổn định. Họ có ít cơ hội
tiếp cận các dịch vụ xã hội và phải chi trả cho các dịch vụ cơ bản như y tế,
giáo dục ở mức cao hơn so với người dân đã có hộ khẩu.
Ngồi ra, đói nghèo cịn chiếm tỷ lệ cao trong các nhóm đối tượng xã
hội khác như những người không nghề nghiệp, người thất nghiệp, người lang
thang và người bị ảnh hưởng bởi các tệ nạn xã hội (mãi dâm, nghiện hút, cờ
bạc....).
1.6. Tỷ lệ nghèo đói khá cao trong các vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao
Đói nghèo mang tính chất vùng rất rõ rệt. Các vùng núi cao, vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người sinh sống, có tỷ lệ đói nghèo khá
cao. Có tới 64% số người nghèo tập trung tại các vùng miền núi phía Bắc,
Bắc Trung bộ, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Đây là những vùng có
điều kiện sống khó khăn, địa lý cách biệt, khả năng tiếp cận với các điều kiện
sản xuất và dịch vụ còn nhiều hạn chế, hạ tầng cơ sở rất kém phát triển, điều
kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thiên tai xảy ra thường xun.
Biểu 1.3: Ước tính quy mơ và tỷ lệ nghèo đói theo chuẩn nghèo mới (20012005) của Chương trình xóa đói giảm nghèo theo vùng đầu năm 2001
Số hộ


13

So với tổng

nghèo,
Tổng số
Vùng Tây Bắc
Vùng Đông Bắc
Vùng Đồng bằng sông Hồng
Vùng Bắc Trung Bộ
Vùng duyên hải miền Trung
Vùng Tây Nguyên
Vùng Đông Nam Bộ

So với tổng
số hộ trong

số hộ nghèo

vùng (%)
17,2
33,9
22,3
9,8
25,6
22,4
24,9
8,9

cả nước (%)

100
5,2
18,2
12,0
19,8
13,9
6,8
6,6

(nghìn hộ)
2.800
146
511
337
554
389
190
183

13


Vùng Đồng bằng sơng Cửu 490

14,4

17,5

Long


Nguồn: Chương trình quốc gia xóa đói giảm nghèo
1.7. Tỷ lệ hộ nghèo đói đặc biệt cao trong các nhóm dân tộc ít người
Trong thời gian qua, Chính phủ đã đầu tư và hỗ trợ tích cực, nhưng
cuộc sống của cộng đồng dân tộc ít người vẫn gặp nhiều khó khăn và bất cập.
Mặc dù dân số dân tộc ít người chỉ chiếm khoảng 14% tổng số dân cư, song
lại chiếm khoảng 29% trong tổng số người nghèo.
Đa số người dân tộc ít người sinh sống trong các vùng sâu, vùng xa, bị
cô lập về mặt địa lý, văn hoá, thiếu điều kiện phát triển về hạ tầng cơ sở và
các dịch vụ xã hội cơ bản.
2. Nguyên nhân nghèo ở Việt Nam
Có nhiều quan điểm về nguyên nhân gây ra nghèo đói ở Việt Nam
nhưng nói chung nghèo đói ở Việt Nam có nhiều nguyên nhân khách quan và
chủ quan như sau:
2.1 Nguyờn nhõn khỏch quan
* Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu vừa trải qua một cuộc
chiến tranh lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, ruộng đồng bị bỏ
hoang, bom mìn, nguồn nhân lực chính của các hộ gia đình bị sút giảm do mất
mát trong chiến tranh, thương tật, hoặc phải xa gia đình để tham gia chiến
tranh, học tập cải tạo trong một thời gian dài.
* Chính sách nhà nước thất bại: Sau khi thống nhất đất nước việc áp
dụng chính sách tập thể hóa nơng nghiệp, cải tạo cơng thương nghiệp và
chính sách giá lương tiền đã đem lại kết quả xấu cho nền kinh tế vốn đã ốm
yếu của Việt Nam làm suy kiệt toàn bộ nguồn lực của đất nước và hộ gia đình
ở nơng thơn cũng như thành thị, lạm phát tăng cao có lúc lên đến hơn 700%
năm.

14

14



* Hình thức sở hữu: Việc áp dụng chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu nhà
nước và tập thể của các tư liệu sản xuất chủ yếu trong một thời gian dài đã
làm thui chột động lực sản xuất.
* Việc huy động nguồn lực nông dân quá mức, ngăn sông cấm chợ đã
làm cắt rời sản xuất với thị trường, sản xuất nông nghiệp đơn điệu, công
nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp tư nhân lụi tàn, thương nghiệp quốc
doanh thiếu hàng hàng hóa làm thu nhập đa số bộ phận giảm sút trong khi dân
số tăng cao.
* Lao động dư thừa ở nơng thơn khơng được khuyến khích ra thành thị
lao động, không được đào tạo để chuyển sang khu vực cơng nghiệp, chính
sách quản lý bằng hộ khẩu đã dùng biện pháp hành chính để ngăn cản nơng
dân di cư, nhập cư vào thành phố.
* Thất nghiệp tăng cao trong một thời gian dài trước thời kỳ đổi mới do
nguồn vốn đầu tư thấp và thiếu hệu quả vào các cơng trình thâm dụng vốn của
Nhà nước.
2.2 Ngun nhân chủ quan
Sau 20 năm đổi mới đến năm 2005 kinh tế đã đạt được một số thành tựu
nhưng số lượng người nghèo vẫn cịn đơng, có thể lên đến 26% (4,6 triệu hộ)
do các nguyên nhân khác như sau:
* Sai lệch thống kê: Do điều chỉnh chuẩn nghèo của Chính phủ lên cho
gần với chuẩn nghèo của thế giới (1USD/ngày) làm cho tỷ lệ nghèo tăng lên.
* Việt Nam là nước nơng nghiệp lạc hậu, năm 2004 vẫn cịn 74,1% dân
sống ở nơng thơn trong khi tỷ lệ đóng góp của nơng nghiệp trong tổng sản
phẩm quốc gia thấp. Hệ số Gini là 0,42 và hệ số chênh lệch là 8,1 nên bất
bình đẳng cao trong khi thu nhập bình qn trên đầu người cịn thấp.
* Người dân cịn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa
có các thiết chế phịng ngừa hữu hiệu, dễ tái nghèo trở lại như: thiên tai, dịch
bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, tai nạn giao thông, thất nghiệp, rủi ro về giá
sản phẩm đầu vào và đầu ra do biến động của thị trường thế giới và khu vực

15

15


như khủng hoảng về dầu mỏ làm tăng giá đầu vào, rủi ro về chính sách thay
đổi khơng lường trước được, rủi ro do hệ thống hành chính kém minh bạch,
quan liêu, tham nhũng....
* Nền kinh tế phát triển không bền vững, tăng trưởng tuy khá nhưng
chủ yếu là do nguồn vốn đầu tư trực tiếp, vốn ODA, kiều hối, thu nhập từ dầu
mỏ trong khi nguồn vốn đầu tư trong nước cịn thấp. Tín dụng chưa thay đổi
kịp thời, vẫn còn ưu tiên cho vay các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả
thấp, khơng thế chấp, mơi trường sớm bị hủy hoại, đầu tư vào con người ở
mức cao nhưng hiệu quả còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo đáp
ứng nhu cầu thị trường còn thấp, nơng dân khó tiếp cận tín dụng ngân hàng
nhà nước,
* Ở Việt Nam, sự nghèo đói và HIV/AIDS tiếp tục phá hủy từng kết
cấu của tuổi thơ. Các em không được thừa hưởng quyền có một tuổi thơ được
thương yêu, chăm sóc và bảo vệ trong mái ấm gia đình hoặc được khích lệ
phát triển hết khả năng của mình. Khi trưởng thành và trở thành cha mẹ, đến
lượt con cái các em có nguy cơ bị tước đoạt các quyền đó vì các hiểm họa đối
với tuổi thơ lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
* Sự chênh lệch lớn giữa các vùng miền, thành thị và nông thôn, giữa
các dân tộc cao.
* Môi trường sớm bị hủy hoại trong khi đa số người nghèo lại sống nhờ
vào nơng nghiệp.
* Hiệu năng quản lý chính phủ thấp.
III. Xố đói giảm nghèo – Thành tựu, thách thức và giải pháp
Ở Việt Nam, đói, nghèo vẫn đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc.
Xóa đói, giảm nghèo tồn diện, bền vững ln ln được Đảng và Nhà nước

ta hết sức quan tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong quá trình phát
triển kinh tế - xã hội và là một trong những nhiệm vụ quan trọng góp phần
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

16

16


Trong gần 20 năm đổi mới, nhờ thực hiện cơ chế, chính sách phù hợp
với thực tiễn nước ta, cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được thành tựu
đáng kể, có ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc
phịng, phát huy được bản chất tốt đẹp của dân tộc ta và góp phần quan trọng
trong sự nghiệp phát triển đất nước bền vững. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh
trong khoảng thời gian 5 năm từ 17,2% năm 2001 với 2,8 triệu hộ, xuống còn
8,3% năm 2004 với 1,44 triệu hộ, bình quân mỗi năm giảm 34 vạn hộ, đến
cuối năm 2005 còn khoảng dưới 7% với 1,1 triệu hộ. "Những thành tựu giảm
nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành cơng nhất trong
phát triển kinh tế". Đó là đánh giá trong "Báo cáo phát triển Việt Nam năm
2004" của Ngân hàng thế giới.
Do đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện, cùng với định
hướng chung là từng bước tiếp cận với trình độ của các nước đang phát triển
trong khu vực, nên chuẩn nghèo đã được điều chỉnh lại, trong đó có tính đến
các nhân tố ảnh hưởng. Chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010
quy định: Hộ nghèo là những hộ ở khu vực nơng thơn có thu nhập bình qn
200.000 đồng/người/tháng trở xuống, đối với những hộ ở khu vực thành thị
có thu nhập bình qn từ 260.000 đồng/người/tháng trở xuống. Theo quy định
này, ước tính năm 2005 cả nước ta có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22%
số hộ trong tồn quốc; Các vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao là vùng Tây Bắc (44%)
và Tây Nguyên (40%); vùng có tỉ lệ hộ nghèo thấp nhất là vùng Đơng Nam

Bộ (9%).
Với sự phấn đấu không mệt mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
trong nhiều năm qua, công cuộc xóa đói, giảm nghèo đã đạt được một số
thành tựu quan trọng, nhưng phía trước vẫn cịn khơng ít khó khăn và thách
thức:
Thứ nhất là về nhận thức, một bộ phận không nhỏ người nghèo và địa
phương nghèo vẫn cịn tư tưởng ỷ lại, trơng chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước,
nên chưa chủ động vượt lên để thoát nghèo.
17

17


Thứ hai là sự đánh giá tỷ lệ nghèo còn thấp hơn thực tế ở một vài địa
phương, nên một bộ phận người thực sự nghèo chưa được tiếp cận với các
chương trình xóa đói, giảm nghèo.
Thứ ba là nguồn lực huy động cho chương trình xóa đói, giảm nghèo
cịn khiêm tốn. Hằng năm, ngân sách nhà nước hỗ trợ cho chương trình xóa
đói, giảm nghèo mới chỉ được bình quân khoảng 60.000 đồng/người. Trong
khi đó, một số địa phương chưa chủ động huy động hoặc huy động chưa
tương xứng với tiềm năng của nguồn lực tại chỗ; chưa lồng ghép hài hòa các
loại nguồn lực trên cùng địa bàn và chưa huy động được sự tham gia mạnh
mẽ của các doanh nghiệp, các tổ chức, các cộng đồng và các cá nhân có điều
kiện vào cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo. Vì vậy, chưa đáp ứng được nhu cầu
cần hỗ trợ của người nghèo để đủ điều kiện thoát nghèo bền vững, dẫn đến
mục tiêu thốt nghèo khó thực hiện được.
Thứ tư là một số cơ chế, chính sách và biện pháp hỗ trợ xóa đói giảm
nghèo chưa thật phù hợp, việc tổ chức thực hiện còn bất cập, cịn mang tính
bao cấp, nên khơng tạo được động lực để người nghèo chủ động vượt nghèo.
Biện pháp hỗ trợ làm nhà ở cho đồng bào nghèo chưa thật phù hợp với nhu

cầu và tập quán của từng dân tộc, từng địa phương; có địa phương chưa chú ý
đầy đủ đến quy hoạch sản xuất lâu dài và môi trường sống của nhân dân trong
khi xây dựng các khu dân cư vượt lũ; mức chi phí cho khám, chữa bệnh cịn
thấp; chính sách trợ cước, trợ giá cũng cịn bất hợp lý; mức vốn vay tín dụng
ưu đãi cịn thấp và chưa thật phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh; cơ chế
phân bổ vốn cịn mang tính bình quân, v.v.... Ở một số nơi, nhất là vùng cao,
vùng sâu thông tin đến với người dân chưa đầy đủ nên nhận thức về các chính
sách của Nhà nước đối với người nghèo cịn hạn chế. Những khiếm khuyết
nói trên đã làm cho hiệu quả của chương trình xóa đói, giảm nghèo bị giảm
bớt một phần.
Thứ năm là việc tổ chức thực hiện chương trình xóa đói, giảm nghèo
khơng đồng đều ở một số địa phương. Đội ngũ cán bộ vừa thiếu về số lượng,
18

18


vừa yếu về năng lực. Phần lớn cán bộ thực thi chương trình ở cấp xã đều kiêm
nhiệm, chưa được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên. Việc theo dõi, giám sát
chương trình chưa có hệ thống và đồng bộ. Cơng tác sơ kết, tổng kết, đánh giá
chương trình chủ yếu dựa trên các báo cáo với lượng thông tin chưa đầy đủ.
Do nhiều yếu tố tác động khách quan trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, tình trạng nghèo đói hiện nay đang vận động theo hướng:
+ Tốc độ giảm nghèo không đồng đều giữa các vùng và có xu hướng
chậm lại, các hệ số tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo từ 1 - 0,7 trong những
năm 1992 - 1998, giảm xuống còn khoảng 1 - 0,3 giai đoạn 1998 - 2004. Tốc
độ giảm nghèo thể hiện rõ nhất là ở những vùng bị chia cắt về địa lý, kết cấu
hạ tầng và mặt bằng dân trí cịn thấp. Một số chính sách và giải pháp động lực
cho xóa đói, giảm nghèo đã bộc lộ những hạn chế, khơng cịn tác dụng mạnh
mẽ như giai đoạn đầu, như các chính sách về đất đai, về giao đất, giao rừng,
về khốn trong nơng nghiệp,.... Vì vậy, cần phải có động lực mới cho tương

lai, đó là chính sách phát triển và chuyển giao cơng nghệ sinh học, công nghệ
sau thu hoạch để nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, nâng cao giá trị sản
xuất trên một diện tích gieo trồng, chính sách chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo
hướng sản xuất hàng hóa tập trung, chuyên canh phục vụ cho xuất khẩu và
cung cấp nguyên liệu cho các ngành chế biến (bông, cà phê, cao su, hạt điều,
chè, mía, gỗ, tre, lúa, ngơ, khoai, sắn, vừng, lạc, đậu....), chính sách phát triển
kinh tế trang trại, phát triển tiểu, thủ công nghiệp, doanh nghiệp quy mơ vừa
và nhỏ; chính sách khuyến khích chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đưa chăn ni
đại gia súc có hiệu quả kinh tế cao thành ngành sản xuất chính,v.v….
+ Tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực miền núi vẫn còn cao, gấp từ 1,7 đến 2 lần
tỷ lệ hộ nghèo bình quân của cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo của cả nước có chiều hướng tăng từ 21%
năm 1992 lên 36% năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng
khó khăn, có nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu
hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai.
19

19


Ngoài ra, xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đơ thị
hóa và nhóm lao động nhập cư vào đơ thị, họ thường gặp nhiều khó khăn hơn
và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những điều
kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong
tốc độ giảm nghèo giữa các vùng. Các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những vùng có tỷ
lệ hộ nghèo cao nhất.
+ Chênh lệch về thu nhập giữa các nhóm giàu và nhóm nghèo có xu
hướng gia tăng: Trong những năm gần đây, chênh lệch về thu nhập giữa 20%
nhóm giàu và 20% nhóm nghèo từ 4,3 lần năm 1993 lên 8,14 lần năm 2002;

chênh lệch giữa 10% nhóm giàu nhất và 10% nhóm nghèo nhất từ 12,5 lần
năm 2002, tăng lên 13,5 lần năm 2004; Mức độ nghèo còn khá cao, thu nhập
bình qn của nhóm hộ nghèo ở nơng thơn chỉ đạt 70% mức chuẩn nghèo
mới. Sự gia tăng khoảng cách giàu - nghèo sẽ làm cho tình trạng nghèo tương
đối trở nên gay gắt hơn, việc thực hiện các giải pháp để giảm nghèo sẽ càng
khó khăn hơn.
Mặc dù, trong những năm qua số hộ nghèo trong cả nước đã giảm
mạnh, song trên thực tế cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo cịn vơ cùng gian nan.
Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do tác động của kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế quốc tế, do đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng chưa đồng đều, cơ
hội về việc làm của người nghèo ngày càng khó khăn hơn do đổi mới công
nghệ trong sản xuất, yêu cầu trình độ của người lao động ngày càng cao. Đói
nghèo trở lại là vấn đề ln rình rập một bộ phận khá lớn số hộ nghèo vừa
vượt khỏi ngưỡng nghèo. Chỉ cần gặp thiên tai, dịch bệnh, đau ốm hoặc biến
động giá cả, thì các hộ này lại dễ rơi vào tình trạng đói nghèo.
Để thực hiện mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới từ 22% năm
2005 xuống còn 11% năm 2010, cải thiện đời sống người nghèo, hạn chế tốc
độ gia tăng chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa thành thị và nông thôn,

20

20


giữa đồng bằng và miền núi, giữa nhóm hộ giàu và nhóm hộ nghèo, trong thời
gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:
1. Dựa trên sự tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm để nâng cao đời sống
cho người nghèo
Bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, bền vững là điều kiện tiên quyết
để giảm nghèo. Kinh nghiệm ở một số nước và thực tế ở nước ta cho thấy

trong gần một thập kỷ vừa qua, nước ta đạt được thành tựu tích cực về giảm
nghèo là dựa trên sự tăng trưởng kinh tế cao và liên tục. Để bảo đảm cho kinh
tế tăng trưởng nhanh và ổn định, vấn đề cải cách cơ cấu kinh tế và bộ máy
quản lý nhà nước đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết trên tất cả các mặt chủ
yếu như thể chế kinh tế, thúc đẩy thị trường phát triển, đẩy mạnh xuất khẩu,
cải thiện môi trường đầu tư, cải cách mạnh mẽ khu vực kinh tế nhà nước, xóa
bỏ bao cấp, hỗ trợ phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cải cách
hành chính và các hoạt động phục vụ đầu tư, sản xuất kinh doanh,v.v..
Phát triển kinh tế, xã hội đồng bộ từ miền xuôi đến miền núi, từ vùng
thuận lợi đến vùng sâu, vùng xa. Chú trọng giúp các địa phương nghèo phát
triển kinh tế thông qua chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật ni
có giá trị kinh tế cao, phát triển sản xuất hàng hóa, đổi mới cơ cấu lao động
theo hướng tăng dần tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ
trọng lao động nơng nghiệp. Có được như vậy, mới tạo thêm nhiều việc làm ở
cả thành thị và nông thôn. Việc giảm tỷ lệ nghèo đói nghiêm trọng ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa địi hỏi có sự đầu tư mạnh mẽ, liên tục của Nhà nước
và sự chủ động vượt lên của chính địa phương và người nghèo ở những nơi
này.
2. Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển các loại hình dịch vụ
giáo dục, y tế, văn hóa và bảo vệ mơi trường
Đẩy mạnh xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông, hệ thống
điện, trường học, cơ sở khám chữa bệnh và các thiết chế văn hóa cho các địa
phương nghèo để sớm khắc phục tình trạng thiếu điện, thiếu nước sạch, thiếu
21

21


thuốc chữa bệnh, thiết bị y tế nghèo nàn, lạc hậu, đồng thời thực hiện đồng bộ
các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, đặc biệt chú trọng đào tạo,

tăng cường năng lực cho đội ngũ cán bộ, nhân viên y tế và cung cấp đầy đủ
thuốc chữa bệnh, phù hợp với thu nhập của người dân. Kết hợp chặt chẽ
chương trình xóa đói, giảm nghèo với các chương trình, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường.
Giải pháp nói trên nhằm nâng cao thiết thực mức sống và chất lượng cuộc
sống nhân dân ở các xã nghèo, vùng nghèo, giảm dần khoảng cách giữa các
vùng, các dân tộc và các tầng lớp dân cư; bảo đảm cho người nghèo tiếp cận
được với các dịch vụ xã hội, đặc biệt là về chăm sóc y tế, giáo dục và kế
hoạch hóa gia đình, sẽ làm giảm bớt những hậu quả trước mắt và nguồn gốc
của nghèo đói.
3. Xã hội hóa các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là về nguồn
lực
Trong cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, nguồn lực của Nhà nước vừa có
vai trị chủ đạo, vừa mang tính xúc tác, khơi nguồn, nguồn lực của cộng đồng,
của quốc tế cũng có có vai trị rất quan trọng. Xây dựng và phát triển các
chương trình "Những tấm lòng từ thiện"; "Nối vòng tay lớn"; "Một thế giới
trái tim"; "Quỹ tình thương"; "Nhà đại đồn kết"…., đã thu hút đông đảo các
cá nhân, cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ chức xã hội trong nước và quốc tế
tham gia hỗ trợ người nghèo. Cuộc vận động "Ngày vì người nghèo", "xóa
nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo", đã giúp cho hàng trăm nghìn hộ nghèo
sửa chữa hoặc xây mới được nhà ở. Các mơ hình tín dụng - tiết kiệm, nông
dân sản xuất giỏi, thanh niên làm kinh tế, v.v. đã góp phần cải thiện điều kiện
sống cho nhiều thành viên của các tổ chức, các đoàn thể xã hội.
Ngoài các nguồn lực trong nước và nguồn hỗ trợ tài chính của cộng
đồng quốc tế, điều quan trọng hơn là chúng ta đã tiếp thu có hiệu quả sự trợ
giúp kỹ thuật của bè bạn quốc tế và đã nhân rộng được nhiều bài học kinh
nghiệm và mô hình tốt về xóa đói, giảm nghèo như: phương pháp lập kế
22

22



hoạch có sự tham gia của người dân, vấn đề giới trong xóa đói, giảm nghèo,
cơ chế tăng cường phân cấp cho địa phương, đặc biệt là cấp xã,.... Những
kinh nghiệm và bài học quý báu ấy đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả và tính bền vững của cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo.
Trong những năm tới, xã hội hóa các hoạt động xóa đói giảm nghèo
cần được các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội và mọi người tiếp tục quan
tâm và thúc đẩy lên một tầm cao mới, nhằm tăng cường hơn nữa trách nhiệm
của xã hội và của mọi người dân trong việc giải quyết vấn đề nghèo đói ở
nước ta.
4. Đổi mới cơng tác tổ chức, bảo đảm tính cơng khai, minh bạch và làm rõ
trách nhiệm trong việc lập kế hoạch, tạo điều kiện để chính quyền địa phương
chủ động, người dân bàn bạc, thảo luận, nhằm tạo ra sự đồng thuận và hợp
tác, quyết tâm vượt nghèo, vươn lên làm giàu của các xã nghèo, vùng nghèo
và chính bản thân người nghèo trong q trình triển khai chương trình xóa
đói, giảm nghèo
Những năm gầy đây, các cơ quan quản lý nhà nước đã có nhiều tiến bộ
trong cơng tác chỉ đạo, điều hành bảo đảm thực hiện có chất lượng các
chương trình xóa đói, giảm nghèo. Cơ chế tự chủ về phân bổ ngân sách, tổ
chức thực hiện và quản lý các chương trình trên cơ sở nhu cầu thực tiễn, lập
kế hoạch và huy động nguồn lực trên địa bàn đã tạo điều kiện cho các cấp
chính quyền chủ động, tự giải quyết và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả của
chương trình. Song trên thực tế, việc thực hiện quyền kiểm tra, giám sát và ra
quyết định tại cấp xã vẫn rất hạn chế. Vì vậy, cần tạo mọi điều kiện để phát
huy tính năng động, chủ động của cơ sở, phát huy sức mạnh về vật chất và
tinh thần của cả cộng đồng để nâng cao hiệu quả của chương trình xóa đói,
giảm nghèo.
Hai yếu tố quan trọng nhất để thực hiện giảm nghèo là: Nhà nước tạo
động lực giảm nghèo thơng qua các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và ý

chí vượt nghèo của người nghèo. Các chương trình giảm nghèo và phát triển
23

23


kinh tế - xã hội ở các vùng nghèo, xã nghèo bước đầu được nhân dân trong
cộng đồng tham gia, thảo luận và quyết định. Người dân từng bước nhận thức
được vai trị và trách nhiệm của mình trong việc tham gia thực hiện các
chương trình giảm nghèo. Phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra" phải được thực hiện xuyên suốt trong các hoạt động của chương
trình giảm nghèo ở địa phương.
Trong thời gian tới, công tác xóa đói, giảm nghèo cần tập trung vào các
địa bàn là các xã khó khăn nhất ở vùng căn cứ cách mạng, vùng cao, biên
giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người và các đối
tượng khó khăn nhất, trong đó, đặc biệt ưu tiên phụ nữ và trẻ em nghèo. Động
viên cộng đồng người nghèo phát huy nội lực, tự vươn lên thoát nghèo, kết
hợp với sự hỗ trợ của Nhà nước và các cộng đồng khác, tăng cường và đa
dạng hóa các nguồn lực, kết hợp sử dụng có hiệu quả các nguồn lực quốc tế;
có chính sách, cơ chế khuyến khích và các giải pháp có tính đột phá, áp dụng
tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chuyển giao cơng nghệ thích hợp đến các xã
nghèo, người nghèo, khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo nghề và tạo việc
làm ổn định và tăng thu nhập cho người nghèo để xóa đói, giảm nghèo bền
vững, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Chống đói nghèo là một cuộc chiến đấu lâu dài và quyết liệt. Mặc dù
đất nước cịn nhiều khó khăn, nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn luôn ưu tiên
giành nguồn lực để xóa đói, giảm nghèo; đồng thời thực hiện cam kết với
cộng đồng quốc tế về việc thực hiện các chỉ tiêu thiên niên kỷ, trong đó có các
chỉ tiêu về xóa đói, giảm nghèo.
Sắp tới, để thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 2006 - 2010 và Nghị

quyết Đại hội lần thứ X của Đảng, Chính phủ sẽ tiếp tục tạo lập động lực để
phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội, đồng thời chủ động chỉ đạo thực hiện
cơng cuộc xóa đói, giảm nghèo với sự đồng tâm hiệp lực của các ngành, các
cấp, của cả cộng đồng, của các tổ chức kinh tế, xã hội và của chính người
nghèo.
24

24


Với quyết tâm cao và tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải
pháp, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thắng lợi mục tiêu cao cả và đầy tính
nhân văn đã cam kết với cộng đồng quốc tế - mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
trên đất nước ta.

25

25


×