Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (56.08 KB, 4 trang )
Hướng điều trị bướu bàng quang
1. Bướu nông (giai đoạn Ta, T1):
- Nếu có độ biệt hóa cao (G1):
+ Nếu đã chắc chắn lấy hết bướu thì có thể theo dõi, soi bàng quang mỗi 3
tháng.
+ Nếu có nhiều bướu thì nên hóa trị bơm bàng quang: theo cơ chế miễn
nhiễm như BCG hay theo cơ chế diệt bào như mitomycin C, adriamycin.
- Nếu bướu nông nhưng độ biệt hóa kém (G2, G3): hóa trị bơm bàng quang
sớm (15 ngày sau cắt đốt nội soi).
2. Bướu thâm nhiễm:
- Bướu đơn độc, chỉ thâm nhiễm cơ nông:
+ Cắt đốt nội soi cố lấy hết bướu và cho hóa trị bơm bàng quang nhưng phải
theo dõi sát và nguy hiểm vi bướu có thể cho di căn hạch và đi xa mà không
biết.
+ Cắt thủng bàng quang với điều kiện che chắn kỹ lưỡng, không cho gieo rắc
bướu ra ngoài, đốt cách chân bướu ít nhất 2 cm, bơm rửa bàng quang với
nước nóng, nạo hạch chậu, bịt ít nhất là phía bên bướu, có đánh dấu các vị trí
cơ thể học bằng các mốc có cản quang, sau đó chờ kết quả giải phẫu bệnh.
Nếu:
oHạch âm tính: có thể theo dõi và cho hóa trị bơm bàng quang.
oHạch dương tính hay giải phẫu bệnh nghi có tế bào bướu thâm nhiễm thần
kinh, mạch máu: trong trường hợp này nên hóa trị đường toàn thân, nếu có
kết hợp xạ trị thì càng tốt.
+ Nếu bướu thâm nhiễm tới lớp cơ kể cả cơ nông: cắt toàn bộ bàng quang và
nạo hạch, sau đó làm bàng quang thay thế và dựa vào kết quả giải phẫu bệnh
để hóa trị toàn thân hay không. Ðây là 1 phương pháp tốt về tỉ lệ tái phát
nhưng để lại nhiều di chứng như bất lực, chức năng bàng quang thay thế
cũng không bằng bàng quang thật.
- Nhiều bướu, thâm nhiễm nhiều qua khỏi cơ sâu:
Ðây là loại bướu rất độc, độ tái phát cao, dễ cho di căn xa,