Phân tích tác phẩm 'vợ nhặt' của kim lân (bài 2)
Phân tích tác phẩm vợ nhặt của Lim lân , tơi xin tạm gọi
đó là bài 1, sau đây các bạn có thể tham khảo một bài
khác mà tơi vừa sưu tầm trên mạng :
Kim Lân tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ngày
1/8/1920, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng , huyện Tiên
Sơn, tỉnh Bắc Ninh.Do hồn cảnh gia đình khó khăn, ông
chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt
đầu viết truyện ngắn bắt đầu từ năm 1941. Tác phẩm của
ông được đăng trên các báo “Tiểu thuyết thứ bảy” và
“Trung Bắc chủ nhật”. Một số truyện (“Đứa con người vợ
lẽ”, ” Đứa con người cơ đầu”, ”Cơ Vịa”…) mang tính chất
tự truyện, nhưng đã thể hiện được khơng khí tiêu điều, ảm
đạm của nơng thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả
của người nơng dân. Ơng được dư luận chú ý nhiều hơn
khi đi về đề tài độc đáo: tái hiện sinh hoạt văn hoá phong
phú ở thôn quê (đánh vật,chọi gà,thả chim…). Các truyện:
”Đôi chim thành”, ”Con mã quái”, ”Chó săn”… kể lại một
cách sinh động những thú chơi lành mạnh, qua đó thể
hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước
Cách mạng _những người sống cực nhọc, khổ nghèo
nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng
tháng tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn
chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam
_mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc.
Những tác phẩm chính: ”Nên vợ nên chồng” (tập truyện
ngắn 1955), ”Con chó xấu xí” (tập truyện ngắn 1962).
Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều
nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm
hay. Là một cây bút vững vàng, ông đã viết về cuộc sống
và con người ở nơng thơn bằng tình cảm, tâm hồn của
một người vốn là con đẻ của đồng ruộng. Nói như Ngun
Hồng, ơng là nhà văn một lòng đi về với “đất”, với “người”,
với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn
(Bước đường viết văn NXB Văn học Hà Nội 1971). (SGK
Văn học 12)
Với một tâm hồn luôn hướng về cuộc sống và con người
nông thôn, Kim Lân luôn đặt ra những vấn đề xã hội làng
quê rất tự nhiên và gần gũi ,dễ đi vào lòng người đọc. Đặc
biệt dựa trên bối cảnh nạn đói năm 1945, Kim Lân đã thể
hiện tài năng của mình qua tác phẩm “Vợ Nhặt”_một tác
phẩm thấm đẫm tinh thần nhân đạo, phản ánh cuộc sống
nghèo khổ, cơ cực và khát vọng về hạnh phúc gia đình
của người nơng dân Việt Nam trong thời Pháp thuộc. Qua
đó bày tỏ tiếng nói chung của những ngừơi nơng dân
trong thời chiến và những ao ước giản dị của họ , tạo nên
sự đồng cảm và suy nghĩ trong lòng người đọc .
Ngay trong tựa đề,Kim Lân đã gợi sự tò mò cho người
đọc.Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện hệ trọng trong
cả đời người,thế mà Kim lân lại dùng hình ảnh “Vợ
Nhặt”,một sự gặp gỡ tình cờ và nhanh chóng tiến đến hôn
nhân trong cái bối cảnh hiện thực của truyện ngắn là nạn
đói mùa xuân Ất Dậu 1945,một trong những thời kỳ đen
tối trong lịch sử.Kim Lân đã thổi vào tác phẩm thứ ánh
sáng nhập nhoạng,mù mờ của một buổi tối chiều “chạng
vạng”.Và thấp thống trong thứ ánh sáng đó là hình ảnh
những con người “xanh xám như những bóng ma”,”nằm
ngổn ngang khắp lều chợ”,”những cái thây nằm cong
queo bên đường”,một cuộc sống đang mấp mé bên bờ
vực thẳm giữa sự sống và cái chết,một khơng khí “vẩn lên
cái mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác
ngừơi”.Những yếu tố mở đầu cho tác phẩm đã gợi lên một
khơng khí nặng nề,phản ánh được cuộc sống của người
nơng dân lúc bấy giờ mới khó khăn,cực nhọc đến dường
nào,gây xúc động cho mỗi chúng ta khi ông cha ta đã trải
wo những thời gian khó khăn, ăn “bo bo” thay gạo,chịu đói
rét.
Trong khung cảnh đó,nhân vật Tràng hiện lên như một
con người hoang sơ ngật ngưỡng bước đi trong ánh chiều
tàn của một cuộc sống không ra cuộc sống.Tràng được
Kim Lân miêu tả với diện mạo chung của người dân lúc
bây giờ: hai con mắt gà gà,nhỏ tí,hai bên quai hàm bạnh
ra,bộ mặt thì thơ kệch,thân hình thì “vập vạp”,cùng với cái
kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh hệch”,”cái đầu trọc
nhẵn”,”cái lưng to rộng như lưng gấu”,và cái áo nâu tàng
vắt ở một bên tay,một hình ảnh hết sức hoang dã trong xã
hội đói nghèo .Ngay cả nơi ở của Tràng cũng không kém
phần hoang dã như thế: cành dong rấp cổng,tấm phên rấp
che nhà,mảnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại,mà Tràng cũng
chỉ là kẻ ngụ cư,loại người lúc bấy giờ bị coi khinh,ruồng
bỏ,một thứ cỏ rác hương thôn.Và Kim Luân đã dùng sáng
tạo nghệ thuật của mình,gây ra những bất ngờ cho người
đọc ở đầu truyện :”Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát
ấy,một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về
với một người đàn bà nữa.”Một người đàn bà đã bước
vào cuộc sống của Tràng.
Tràng có vợ.Người như Tràng mà có vợ.Cái “kẻ” mang bộ
dạng giống như con gấu hoặc gốc cây xù xì,trần trụi ấy,lại
trong một cuộc đời đang bị đẩy sát tới cái ranh giới phân
chia giữa tồn tại và ko tồn tại thế kia,mà lại nhặt được
“thứ” vốn biểu trưng cho hạnh phúc.Tràng có vợ một cách
hiển hách,oanh liệt,cứ như một anh chàng tốt số, đào hoa:
chỉ bng ra có một lời ỡm ờ tán tỉnh,mà “cô nàng” đã vội
vã theo không.Tưởng đâu một truyện truyền kỳ về một
thời thảm hại. Nhưng đó khơng phải là một chuyện cổ tích
hay theo một mơ tp chàng ngốc gặp tiên nữ,nhưng đây
lại là một sự thật não lòng.Người vợ mà được Tràng nhặt
về được trên đường đời thảm đạm cũng thuộc về một
dạng người giống như Tràng.Chân dung của chị ta cũng
là một bức ký họa khác với tự nhiên,với những đường nét
tai hại cho người phụ nữ:”cái ngực gầy lép,khuôn mặt lưỡi
cày xám xịt”,..gầy xọp,rách mướt,” áo quần tả tơi như tảo
đỉa”, đấy là hình ảnh người đàn bà đã làm đảo lộn cuộc
đời Tràng.Nhưng khéo nhất là những dòng được viết,Kim
Lân cho ta nhận thấy:cái người phụ nữ đói rách kia cịn xa
mới có thể coi là hiền thục;làm sao mà Kim Lân có thể tả
cái đanh đá,cái trơ của người đàn bà lao động nghèo tài
thế,sinh động đến là như thế.Kim Lân cũng rất tài tình khi
tả vợ của Tràng rất cong cớn nhưng khơng nanh nọc,trơ
trẽn.Và cũng chính cái cong cớn,sưng sỉa, đanh đá,trơ
trẽn kia,nó có thể sinh ra từ dốt nát, đói nghèo,tâm tối chứ
tuyệt không sinh ra từ cái ác,cái xấu xa.
Vậy là hai thân phận bọt bèo ấy đã dạt đến nhau qua
những lời yêu đại loại như:”Rích bố cu,hở”,”Hà,ngon!Về
chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”,”Làm đếch gì có vợ.Này nói
đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng
về.”. Đó là ngơn ngữ của tình dun,hay cũng chỉ là bốn
bát bánh đúc mà người đàn ông nổi hứng khao và người
đàn bà cắm đầu ăn liền một chập,chẳng bng một lời trị
chuyện gì.Bốn bát bánh đúc trong những ngày tháng đói
kém,chúng đủ phép màu để làm hai con mắt trũng hoáy
của người phụ nữ đói rách sáng lên.Có xót xa khơng,khi
cái đói tuy mang lại nhiều đau khổ lại cũng có thể xe
dun cho một mối tình giữa hai tâm hồn cũng nghèo khó.
Điều đó,ta nhận thấy dường như khơng có sự cách biệt
giữa Kim Lân và người nơng dân,nên ông mới có thể miêu
tả người nông dân trong những năm nghèo đói mới chân
thật đến như vậy,và những tình tiết có vẻ buồn cười thì
bên dưới đó lại là những nỗi buồn và niềm thương
cảm.Những trang viết về những con người “dưới đáy” thế
này thì khơng làm ta khinh ghét họ mà xót thương và buồn
cho họ vì họ không thể sống trong điều kiện tốt hơn trong
cái xã hội mà được mọi người gọi là con người mà chính
cái xã hội đó cũng đang từ bỏ họ, để mặc họ trong cái
nghèo đói.Ở đây ,tác giả khơng phải nói về những nét
thấp kém của con người bộc lộ qua nhân hình và nhân
cách.Ngược lại ,với việc đặt nhân vật vào một khoảng
sống mờ tối,lắt lay,nhà văn đã tìm ra một cơ hội song để
biểu hiện nỗi bất diệt của niềm khao khát thèm được
sống, được thương u và hy vọng.Niềm ao ước hạnh
phúc đó khơng thể diệt trừ cái đói hay sự u tối của một
tương lai khơng mấy sáng sủa và nó cũng khơng bị diệt
trừ.Nó cứ âm thầm vươn lên từ đói khát,tối tăm và chính
bởi thế mà nó trở nên cảm động và đáng qúy biết chừng
nào.
Khi “nhặt” vợ về,Tràng không phải là không biết suy
nghĩ:”thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có
ni nổi khơng lại cịn đèo bồng”.Nhưng rồi anh lại tặc
lưỡi:”Chậc,kệ!”.Một quyết định có vẻ rất tầm thường với
một sự việc hết sức trọng đại trong thời điểm bấy
giờ.Nhưng ta có thể hiều rằng,cái tặc lưỡi đó đồng nghĩa
với việc là Tràng đã đánh cuộc với đời,với cái nghèo đói,
để sống “đầy đủ” cuộc sống bình thường như mọi người.
Đó là khát vọng làm người mà một kẻ thơ kệch,chất phác
như Tràng vẫn có đã khiến Tràng liều lĩnh một phen.Và
Tràng cũng đã được đền bù:”Trong một lúc,Tràng hình
như quên hết những cảnh sống ê chề,tăm tối hàng
ngày,quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa từng
ngày,và quên cả những tháng ngày trước mặt.Trong lòng
hắn bây giờ chỉ cịn tình nghĩa giữa hắn và ngừơi đàn bà
đi bên.Một cái gì mới mẻ,lạ lắm,chưa từng tấhy ở người
đàn ơng nghèo khổ ấy,nó ơm ấp,mơn man khắp da thịt
Tràng,tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ trên sống
lưng.”Qua đó,Kim Lân đã gieo vào lòng người đọc những
cảm xúc: Khác với những người có đầu óc bi quan
thường nghi,sự đói khát,nghèo khổ khơng làm giảm đi giá
trị của lòng người.Bao giờ cái hạnh phúc được thương
yêu cũng qúy hơn tất cả,ngay cả khi người ta tưởng như
rằng khơng cịn cần gì hơn là một miếng cơm ăn.
Con người ai ai cũng mong có được hạnh phúc.Và Kim
Lân,hạnh phúc, đến lượt nó,lại có thể làm thay đổi cả một
con người như chính Tràng chẳng hạn.Tràng hơm nay đã
khơng cịn giống như Tràng của những ngày hơm
qua.Anh Tràng hơm nay ngượng nghịu,khổ sở,tay nọ xoa
xoa mãi vai kia,chỉ vì đi bên một người đàn bà ở một nơi
vắng vẻ,muốn bng một câu tình tứ mà chịu khơng sao
nói nổi.Rồi đến khi vợ hỏi,anh chàng to xác ấy lại trả lời
một cách đến là vô cùng ngờ nghệch,ngây thơ:”Có một
mình tui mấy u”. Ắt hẳn nhiều người sẽ cười Tràng,cũng
đúng thơi,nhưng có ai đã từng sống qua mà khơng thấy:
có những cái ngượng nghịu,cái ngẩn ngơ,những sự “khổ
sở êm ái” chỉ đến với con người vào những phút giây thật
là hạnh phúc.Cái xúc động mà Tràng đang có vào buổi lần
đầu đi bên người vợ nhặt,ngẫm ra cũng khơng ít điều xót
xa,cay đắng,nhưng ít nhất cũng là một thứ xúc động,lâng
lâng,bồi hồi,biến người đàn ông thô nhám và chai sạn
thành một đứa trẻ lớn tuổi hiền lành.
Cái chi tiết Tràng khoe chai dầu con trong tay cũng thế.Nó
khơng chỉ là một sự việc buồn cười.Có lẽ cũng nên nhận
ra dưới cái cười,một tiếng thở dài thương cảm cho những
kiếp người mà cuộc đời khốn khổ đến mức việc mua có
hai hào dầu là cũng đã là một cái gì hoang phí lắm,một cử
chỉ có vẻ lãng mạn,ga-lăng lắm lắm.Nhưng dẫu sao thì
Tràng đã có cái hãnh diện mà trước kia anh ta chưa từng
có.cái hãnh diện được làm một người chồng, đuợc có một
đêm tân hôn, được biết mùi vị tiêu hoang một chút để có
lấy một lần sáng sủa trong cái thực tại mù mờ:”Hai hào
đấy, đắt q,có mà thơi chả cần.”,một lời nói nghe sao mà
thật tội nghiệp,nhưng trong cái tội nghiệp đó là một niềm
vui khơng tầm thường,bởi trong hồn cảnh như thế của
Tràng lúc ấy, được coi thường đồng tiền vì một đềiu gì đó
lớn hơn, trong trẻo,qúy báu hơn đâu có thể cho là một
niềm vui hạ cấp?”
Cũng có thể nghĩ như vậy về cái câu Tràng giới thiệu vợ
mình với mẹ:”Kìa nhà tơi nó chào u.”.Kim Lân quả thật rất
tài trong việc sử dụng những lời thoại ít chữ,văn xuôi hết
sức,những câu văn không hề cầu kỳ,gọt giũa,mơ
mộng,mà mang đậm phong cách làng quê và lại rất tình
cảm chứa đọng trong từng câu nói.Người mà Tràng gọi là
“nhà tơi” ấy,cái người con dâu đang thực hiện những nghi
lễ đầu tiên ra mắt mẹ chồng tuy là chỉ nhặt được,chưa trải
qua cưới hỏi,chưa gặp mặt qua một lần,chưa được mẹ
chồng diện kiến “nhan sắc” của mình một lần nhưng
những tiếng của Tràng gọi nghe thật nở ruột nở gan như
một sự chứng nhận hẳn hoi,rành rọt trước mẹ
Tràng,người đàn bà ấy và chính Tràng,một sự thật hiển
nhiên:”Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?Hà!…”.Tuy sự xác nhận
ấy có chút nặng nề nhưng cũng giúp Tràng có được một
cuộc sống của con người bình thường:”Bỗng nhiên hắn
thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ
lùng.Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ
cái ở đấy.Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng..Bây
giờ hắn mới thấy hắn nên người.” Đó cũng là những ao
ước của những người nông dân luôn mong có được một
gia đình hạnh phúc.Giống như nhân vật Chí Phèo trong
tác phẩm cùng tên của Nam Cao,từng có khát vọng cùng
Thị Nở xây dựng gia đình,dù rằng đi làm thuê mướn cho
người ta,cùng nhau mỗi ngày được thưởng thức “bát cháo
hành” của vợ.Chính những cái ước mơ vơ cùng giản đị
như thế đã tạo nên nét đẹp trong tâm hồn người nông dân
Việt,và Kim Lân đã đưa vào tác phẩm những điều tinh túy
và tiếng nói đầy tính nhân bản ,tạo nên sự đồng cảm thiết
tha cho người đọc.
Nói về người vợ của Tràng,người đã tìm ra một chốn để
nương tựa thân phận người phụ nữ của mình trong cảnh
đói nghèo,Kim Lân đã bộc lộ vài sự thất vọng thầm kín khi
thấy cảnh tù túng nhà chồng chồng: một tiếng thở dài cố
nén trong “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên” trước túp nhà
rách nát và rúm ró;cách nhếch cười nhạt nhẽo và nét mặt
bần thần khi bước vào nơi ở của anh chàng mới lúc ban
ngày cịn vỗ túi khoe “rích bố cu”;hai con mắt thoáng tối lại
khi được bà lão đon đả mời ăn bát cám.và khi trên đường
“rước dâu” dài dặc giữa xóm ngụ cư.cái cơ nàng cong cớn
và trơ trẽn hồi nào bỗng trở nên e dè ngượng ngập;và có
khó chịu lắm trước những sự tị mị trêu cợt thì cũng chỉ
dám càu nhàu trong miệng,khẽ đến mức ông chồng đi bên
cũng không nghe thấy. Đôi mắt tư lự khi đặt bước trên
con đường về nhà chồng,cả cái dáng điệu khép nép ngồi
mớm ở mép giừơng và tiếng chào u lúng túng..tất cả
những cái đó chỉ làm cho người đàn bà gầy nhom,xám xịt
và rách rưới c1o được cảm giác m2inh đã là một nàng
dâu thực sự,một bơng hoa đã có chủ.Và chính Tràng cũng
ngạc nhiên trước những thay đổi của nàng ta:”Tràng nom
thị hôm nay khác lắm,rõ ràng là người đàn bà hiền hậu
đúng mực khơng cịn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy
lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh.”Cuộc đời éo le và nhận hậu
bao nhiêu dưới ngòi bút của Kim Lân khi chị vợ kia lại chịu
đi theo một người đàn ơng như Tràng ,xấu xí và xa lạ như
để tránh sự cơ đơn và nghèo đói.Thế mà khi đến nhà