Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

NỘI SOI NIỆU CHẨN ĐOÁN BỆNH ĐƯỜNG TIỂU TRÊN VÀ DƯỚI ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.66 KB, 13 trang )

NỘI SOI NIỆU CHẨN ĐOÁN BỆNH
ĐƯỜNG TIỂU TRÊN VÀ DƯỚI


Năm 1809, Philipp Bozzini thực hiện soi trực tiếp tử cung và bàng quang, dần dần
về sau những đèn soi được phát triển thêm. Ban đầu những đèn soi này cồng cềnh
và khó dùng, ánh sáng truyền từ một ống rỗng phản xạ trực tiếp qua một thấu kính.
Năm 1912, Hugh Hampton Young thực hiện soi niệu quản đầu tiên, sử dụng máy
soi niệu quản nhi ở trẻ 2 tháng tuổi bị van niệu đạo sau.
Năm 1960, Marshall dùng máy soi mềm để soi niệu quản và bể thận.
Năm 1968, Takayasu và Aso phát minh máy soi niệu quản bể thận đầu tiên có
kênh thao tác.
Năm 1981-1982, Enrique Perez-Castro dùng máy soi niệu quản cứng của hãng
Karl Storz ứng dụng đầu tiên trong lâm sàng.
Ban đầu tất các máy soi niệu quản cứng đều sử dụng hệ thống thấu kính hình que,
có đường kính ngoài 12Fr-13.5Fr.
Năm 1989, máy soi niệu quản bán cứng ra đời, sử dụng sợi quang học thay cho hệ
thống thấu kính hình que.
Năm 1809, Philipp Bozzini thực hiện soi trực tiếp tử cung và bàng quang, dần dần
về sau những đèn soi được phát triển thêm. Ban đầu những đèn soi này cồng cềnh
và khó dùng, ánh sáng truyền từ một ống rỗng phản xạ trực tiếp qua một thấu kính.
Năm 1912, Hugh Hampton Young thực hiện soi niệu quản đầu tiên, sử dụng máy
soi niệu quản nhi ở trẻ 2 tháng tuổi bị van niệu đạo sau.
Năm 1960, Marshall dùng máy soi mềm để soi niệu quản và bể thận.
Năm 1968, Takayasu và Aso phát minh máy soi niệu quản bể thận đầu tiên có
kênh thao tác.
Năm 1981-1982, Enrique Perez-Castro dùng máy soi niệu quản cứng của hãng
Karl Storz ứng dụng đầu tiên trong lâm sàng.
Ban đầu tất các máy soi niệu quản cứng đều sử dụng hệ thống thấu kính hình que,
có đường kính ngoài 12Fr-13.5Fr.
Năm 1989, máy soi niệu quản bán cứng ra đời, sử dụng sợi quang học thay cho hệ


thống thấu kính hình que.
NGUỒN SÁNG
Năm 1873, Trouve đưa nguồn sáng từ bên ngoài vào bên trong đầu ống soi, sử
dụng ánh sáng nóng platinum. Đến thập niên 1960 xuất hiện những sợi cáp quang
học có thể truyền ánh sáng từ nguồn sáng bên ngoài. Sợi cáp quang học cho ánh
sáng rõ hơn khi dùng ánh sáng lạnh, do đó làm máy soi được thiết kế nhỏ gọn hơn,
cho kênh làm việc và kênh nước tưới rữa lớn hơn.
Một nguồn sáng thích hợp là nguồn sáng có công suất cao: Tungsten, Metal halide
hoặc Xenon. Nguồn Tungsten thường cho công suất 50- 150 Watt và thích hợp với
nhiều loại camera, ti vi hiện đại. Nguồn Metal halide thường cho công suất 250
Watt và nguồn Xenon có công suất lớn hơn 300 Watt. Cả ba nguồn này điều cho
hình ảnh nội soi chuẩn.
Chỗ đầu dây dẫn nguồn sáng rất nóng, sự hấp thụ ánh sáng từ đầu kia của dây sáng
có thể làm bỏng bệnh nhân, cháy vải, áo phẫu thuật, vì vậy khi không sử dụng đầu
sáng phải đặt ở vị trí thích hợp.

Hình 2: Dây dẫn nguồn sáng.
DỤNG CỤ NỘI SOI NIỆU
MÁY SOI BÀNG QUANG CỨNG
Máy soi niệu đạo bàng quang cứng và mềm có thể dùng để soi kiểm tra niệu đạo
và bàng quang. Ống soi cứng cho chất lượng hình ảnh tốt hơn, kênh thao tác lớn
hơn, dễ điều khiển hơn, tuy nhiên máy soi cứng không khảo sát hết toàn bộ bàng
quang. Ngược lại, máy soi mềm có thể nhìn rõ tất cả các nơi ở thành bàng quang.
Thành phần cơ bản của máy soi bàng quang cứng hiện nay gồm: vỏ máy soi
(sheath), cầu nối (bright), đầu bịt (obturator), ống kính (telesope), nguồn sáng
(light source), dây dẫn nguồn sáng.
Kích thước của vỏ máy soi được tính bằng French (Fr), được đo từ đường kính
ngoài của vỏ máy soi, tính bằng milimet (1mm = 3Fr). Máy soi bàng quang dành
cho trẻ em có kích thước từ 8 đến 12Fr, và 16 đến 25Fr dành cho người lớn.


Hình 3: Vỏ máy soi (sheath)
¬Cầu nối (bright) được gắn vào vỏ máy soi để có kênh đưa nước tưới rửa, kênh
đặt ống kính và kênh đưa dụng cụ thao tác.

Hình 4: Cầu nối (bright)
Đầu bịt (obturator) được gắn vào vỏ máy soi để tạo thành một đầu trơn láng khi
đưa vào niệu đạo. Ống kính 0o có thể đưa vào đầu bịt để nhìn trực tiếp đường đi
của máy vào niệu đạo.

Hình 5: Đầu bịt (obturator)
Ống kính của máy soi luôn có đường kính 4mm, có 4 góc nhìn khác nhau: 00
(nhìn trực tiếp – nhìn thẳng), 300 (nhìn chéo), 700 (nhìn bên), 1200 (nhìn ngược).

Hình 6: Ống kính (telesope)
Ống kính 00 cho góc nhìn thẳng, dùng để soi niệu đạo, nhưng không thể dùng để
soi bàng quang ở nam vì sẽ bỏ sót góc nhìn ở mặt trên và hai bên thành bên bàng
quang.
Ở nữ, niệu đạo ngắn và di động dễ nên ống kính 300 thường được sử dụng và đủ
để quan sát thấy hết toàn bộ bàng quang.
Ở nam, niệu đạo dài hơn và ít di động ở đoạn niệu đạo tiền liệt tuyến, nên ống
kính 300 thì không thích hợp và thường dùng ống kính 700. Tuy nhiên ống kính
700 vẫn không thấy được phần trên lỗ niệu đạo trong gọi là “vùng mù” (“blind
spot”). Sự thay đổi bệnh học ít khi xảy ra ở vùng này nhưng chúng ta cần phải
quan sát hết. Lúc này ống kính 1200 giúp quan sát đầy đủ các thương tổn.

Hình 7: Góc nhìn của các loại ống kính.[4]

Hình 8: Vùng không thể nhìn thấy được
khi dùng ống kính 700 soi bàng quang ở nam.
Tóm lại, ống kính 300 dùng trong các phẫu thuật ở niệu đạo và bàng quang, dùng

để soi bàng quang ở nữ và soi niệu đạo ở nam. Ống kính 700 dùng để soi bàng
quang ở nam. Ống kính 00 và 1200 giúp nhìn rõ sang thương niệu đạo và “vùng
mù” ở nam.
MÁY SOI BÀNG QUANG MỀM
Máy soi niệu đạo bàng quang mềm được dùng như máy soi thận qua da. Thành
phần cơ bản gồm: những bó sợi quang học đặt trong một thân mềm để cung cấp
ánh sáng và truyền hình ảnh, một kênh 6.4- 7.5 Fr để điều chỉnh nước tưới rửa và
đưa dụng cụ thao tác.
Đầu của ống soi có thể điều khiển uốn cong 180- 2200. Kênh thao tác có thể đưa
kìm gắp, kìm sinh thiết, cần tán sỏi hoặc rọ.
Gần đây, máy soi thận bàng quang kỹ thuật số cho chất lượng hình ảnh tốt, có thể
uốn cong lên hoặc xuống quanh trục, do vậy máy soi này dễ dàng tiếp cận các đài
thận khi dùng với vỏ máy soi thận qua da.

Hình 9: máy soi thận bàng quang kỹ thuật số.
(Digital Cystonephroscope)
MÁY SOI NIỆU QUẢN CỨNG
Máy soi niệu quản cứng có kích thước từ 10.5Fr đến 13Fr, có thể soi lên đến niệu
quản đoạn lưng, thậm chí đến bể thận.
Góc quan sát của kính soi thay đổi từ 00 đến 6,50

Hình 10: Máy soi niệu quản cứng

Hình 11: Đầu máy soi niệu quản cứng
Ưu điểm của máy soi cứng là kênh thao tác rộng, nước lưu thông tốt và thị trường
quan sát rất rõ; nhưng vì kích thước lớn nên trong một số trường hợp khi đưa máy
soi niệu quản phải nong miệng niệu quản. Tỷ lệ hẹp niệu quản tăng dần theo kích
thước máy soi.
MÁY SOI NIỆU QUẢN BÁN CỨNG
Máy soi niệu quản bán cứng thế hệ mới được làm bằng những sợi quang học, vỏ

máy làm bằng kim loại bán cứng, có thể bẻ cong nhưng không ảnh hưởng đến chất
lượng ảnh. Máy được thiết kế đủ cứng để đi qua miệng niệu quản và đủ mềm để
qua những đoạn uốn khúc của niệu quản.
Hầu hết đầu máy soi bán cứng có hình tròn, bầu dục, những máy soi thế hệ mới
đầu có dạng tam giác. Thiết kế này giúp dễ đưa máy qua miệng niệu quản.
Phần đầu máy soi, kích thước thay đổi từ 5Fr đến 8,5Fr, phần thân máy soi 7,8Fr
đến 14,5Fr. Thiết kế này giúp máy vững chắc và có tác dụng nong dần niệu quản
khi soi lên cao. Chiều dài máy soi 31cm có thể soi đến đoạn niệu quản lưng ở nam
và đến bể thận ở nữ, ngược lại chiều dài máy soi 40cm đủ để đến được bể thận ở
nam.
Máy soi có thể được thiết kế một kênh chung để đưa dụng cụ và nước tưới rửa
hoặc có hai kênh riêng biệt. Máy soi có hai kênh riêng, khi đưa dụng cụ vào thao
tác không làm giảm dòng chảy nước tưới rửa.
Hiện nay đa số máy soi có hai kênh riêng, một kênh thao tác có kích thước 3,4Fr
đủ để đưa dụng cụ có kích thước 3Fr (dụng cụ chuẩn có kích thước 3Fr) và một
kênh cho nước tưới rửa có kích thước từ 2,1Fr đến 2,4Fr.

Hình 12: Máy soi niệu quản bán cứng
MÁY SOI NIỆU QUẢN MỀM
Máy soi niệu quản mềm có đường kính từ 4,9Fr đến 11Fr ở phần đầu ống, phần
thân ống to dần từ 5,8Fr đến 11Fr. Chiều dài máy thay đổi từ 54cm đến 70cm. Đa
số máy soi mềm chỉ có một kênh thao tác, kích thước tối đa 3,5Fr.

Hình 13: Máy soi niệu quản mềm
Đầu máy soi có góc nhìn 00, được thiết kế đầu phẳng, đầu vạc góc, hoặc đầu dạng
tam giác giúp dễ dàng đưa qua miệng niệu quản, giảm làm tổn thương miệng niệu
quản.

Hình 14: (A) Đầu máy soi dạng phẳng.
(B) Đầu máy soi dạng vạc góc.

Đầu máy soi có hai cơ chế uốn cong chủ động và uốn cong thụ động với góc hoạt
động 1200 đến 2700 (uốn cong chủ động: được điều khiển bằng tay qua một cần
đặt ở tay cầm máy soi; uốn cong thụ động: uốn cong phải có điểm tựa và lực tác
động, khi không còn lực tác động thì đầu uốn cong trở về vị trì ban đầu).

Hình 15: Độ uốn cong của đầu máy soi niệu quản mềm.
ỨNG DỤNG CỦA NỘI SOI TRONG TIẾT NIỆU
SOI BÀNG QUANG
Chỉ định
+ Soi bàng quang được chỉ định chẩn đoán trong các trường hợp:
• Các bất thường giải phẫu và cấu trúc đường tiểu dưới (hẹp niệu đạo, sỏi niệu
đạo, túi thừa bàng quang, sỏi bàng quang, dị vật trong bàng quang).
• Chẩn đoán nguyên nhân tiểu máu.
• Tiểu không kiểm soát.
• Khảo sát sự xâm lấn vùng chậu đối với bàng quang, niệu quản.
• Rò bàng quang âm đạo hoặc rò bàng quang đường tiêu hóa.
• Nghi ngờ bướu bàng quang, bướu niệu mạc đường tiểu trên.
• Theo dõi sau cắt đốt bướu bàng thể nông.
• Bàng quang thần kinh.
• Đánh giá tình trạng bàng quang trước phẫu thuật tạo hình làm rộng bàng quang.
+ Soi bàng quang để điều trị
• Lấy dị vật trong bàng quang.
• Sinh thiết bướu bàng quang.
• Điều trị bướu bàng quang thể nông.
• Cắt tuyến tiền liệt qua nội soi.
SOI NIỆU QUẢN
Chỉ định
+ Chỉ định chẩn đoán
• Tế bào học nước tiểu (+), soi bàng quang bình thường.
• Theo dõi bệnh nhân ung thư tế bào chuyển tiếp đường tiểu trên đã điều trì bằng

cắt đốt nội soi.
• Hình khuyết của đường tiểu trên phim cản quang.
• Tiểu máu đại thể chưa được chẩn đoán.
+ Chỉ định điều trị điều trị
• Tán sỏi và lấy sỏi niệu quản.
• Nội soi xẻ đoạn hẹp niệu quản.
• Nội soi xẻ đoạn hẹp trong bệnh lý khúc nối bể thận niệu quản.
• Sinh thiết hoặc cắt đốt bướu trong ung thư tế bào chuyển tiếp đường tiểu trên.
Biến chứng soi niệu quản
Hai biến chứng thường gặp nhất khi soi niệu quản:
• Thủng niệu quản 0-4,7% xảy ra khi cố gắng đẩy dây dẫn hoặc đẩy ống soi và
niệu quản có tắc nghẽn do sỏi hoặc đường đi của niệu quản bị xoắn voặn do viêm
dính.
• Hẹp niệu quản 3,5%-5,9% khi có thủng niệu quản kèm theo
Ngoài ra còn những biến chứng ít gặp khác: vùi niệu quản, tổn thương niệu mạc,
tiểu máu, đau quanh thận, sốc nhiễm trùng niệu …

×