Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

TIỂU LUẬN: NHỮNG THÀNH TỰU TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG NÔNG NGHIỆP pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.1 KB, 9 trang )

Mục Lục
Mục Lục 1
Lời mở đầu 1
Mục Lục 2
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI: 2
1. Tiến bộ khoa học kỹ thuật: 2
2. Nội dung của cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp: 2
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG NÔNG
NGHIỆP. 3
1. Trong trồng trọt: 3
2. Trong chăn nuôi: 3
3. Trong thủy sản: 4
Trong chế biến nông, lâm, thủy sản: 5
6. Trong thủy lợi: 6
7. Cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ: 7
III. HẠN CHẾ: 7
KẾT LUẬN: 9
9
Lời mở đầu
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất ra đời sớm nhất trong xã hội loài người.
Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cho xã hội đại bộ phận là sản phẩm
nuôi sống con người và không có một ngành sản xuất nào có thể thay thế được nên nông
nghiệp giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của con người và xã
hội. Khi xã hội càng phát triển, đời sống con người được nâng cao thì nhu cầu về lương
thực-thực phẩm tăng cả về số lượng, chất lượng do 2 yếu tố sau: Thứ nhất là do sự tăng
lên không ngừng của dân số, thứ hai là do sự tăng lên của nhu cầu bản thân con người.
Do vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới đáp ứng được nhu cầu
tăng lên thường xuyên đó. Bên cạnh đó, trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế của nước
ta nhanh chóng phát triển hòa nhập với nền kinh tế thế giới, nền công nghiệp và dịch vụ
ngày càng lớn mạnh làm thu hẹp đáng kể diện tích đất nông nghiệp.
Đề tài triết học


NHỮNG THÀNH TỰU TIẾN BỘ
KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG
NÔNG NGHIỆP
Mục Lục
Mục Lục 1
Lời mở đầu 1
Mục Lục 2
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI: 2
1. Tiến bộ khoa học kỹ thuật: 2
2. Nội dung của cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp: 2
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ THUẬT TRONG NÔNG
NGHIỆP. 3
1. Trong trồng trọt: 3
2. Trong chăn nuôi: 3
3. Trong thủy sản: 4
Trong chế biến nông, lâm, thủy sản: 5
6. Trong thủy lợi: 6
7. Cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ: 7
III. HẠN CHẾ: 7
KẾT LUẬN: 9
9
I. CƠ SỞ CỦA ĐỀ TÀI:
1. Tiến bộ khoa học kỹ thuật:
Tiến bộ khoa học kỹ thuật là sự phát triển tịnh tiến của mối quan hệ giữa khoa học và kỹ
thuật, biểu hiện trên hai mặt: Thứ nhất là sự tác động thường xuyên của những phát minh
và sáng chế khoa học lên trình độ kỹ thuật và công nghệ, thứ hai là sự ứng dụng những
trang thiết bị và dụng cụ mới nhất vào nghiên cứu khoa học. Tiến bộ khoa học kỹ thuật
kích thích sự biến đổi về chất lượng sản xuất vật chất và lĩnh vực phi sản xuất, làm tăng
năng suất lao động không ngừng, có ảnh hưởng thiết thực lên mọi mặt đời sống xã hội,
là một bộ phận không thể tách rời của sự tiến bộ xã hội.

2. Nội dung của cách mạng khoa học kỹ thuật trong
nông nghiệp:
Phải đưa nông nghiệp thành ngành sản xuất hiện đại, biến khoa học kỹ thuật thành lực
lượng sản xuất trực tiếp và tạo bước chuyển biến lớn trong việc phát triển, phân bố nông
nghiệp( tổ chức quản lý và tổ chức lãnh thổ nông nghiệp).
Đưa khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp bằng các quá trình:
- Qúa trình cơ khí hóa.
- Qúa trình điện khí hóa.
- Qúa trình hóa học hóa.
- Qúa trình thủy lợi hóa.
- Quá trình sinh học hoá.
II. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA TIẾN BỘ KHOA HỌC KỸ
THUẬT TRONG NÔNG NGHIỆP.
1. Trong trồng trọt:
Nông nghiệp Việt Nam trong 10 năm qua đã có những bước phát triển khá vững chắc.
Hằng năm tổng sản lượng lương thực quy ra thóc tăng một triệu tấn. Đến năm 2003, Việt
Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới và hiện nay thì đứng thứ 2 sau Thái
Lan. Những thành tựu đó là nhờ ta đã áp dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật và công
nghệ sinh học…
Tiến hành đột biến để chọn giống cho năng suất cao trong điều kiện sống khắc
nghiệt. Theo báo cáo của hội nghị thường niên Hiệp hội chọn giống đột biến châu Á năm
2002: Hiện nay ở nước ta có hàng chục giống được chọn lọc theo phương pháp đột biến
đã được trồng trên khoảng 1 triệu ha ở miền Nam và miền Bắc.
“Công nghiệp hóa” nông nghiệp, trong trồng trọt, cơ giới hóa từ khâu chuẩn bị đến
khâu thu hoạch với sản phẩm máy cấy hiện đại như MC 6-250, MC -08, đến máy làm
đất và máy liên hợp gặt đập.
Việc áp dụng giống mới và các quy trình canh tác tiên tiến, chương trình “3 giảm, 3
tăng”, IPM, GAP được đẩy mạnh. Như chương trình “3 giảm, 3 tăng”, còn gọi là chương
trình quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp( ICM), được triển khai trên địa bàn tỉnh
Bình Định thời gian qua đã mang lại hiệu quả thiết thực, giúp tăng hiệu quả kinh tế trong

sản xuất lúa. Năng suất lúa cao hơn, giá thành sản xuất giảm, giảm thất thoát sau thu
hoạch, giúp hạn chế sâu bệnh, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường nên được nông
dân hưởng ứng mạnh mẽ.
2. Trong chăn nuôi:
Trong chăn nuôi đã sớm áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật trong quá trình lai tạo
giống từ nguồn gen phong phú trong nuớc và du nhập từ nước ngoài đã lai tạo thành
công những giống lợn siêu thịt, gà siêu trứng, cùng với những giống vật nuôi ngoại lai
cũng đuợc nuôi thí nghiệm và nhân rộng cho nhiều thành công với năng suất cao. Việc
tạo ra giống mới, thức ăn công nghiệp và phương pháp chăn nuôi kiểu công nghiệp, bán
công nghiệp, an toàn sinh học được phổ biến ngày càng rộng hơn.
Với việc tạo ra chế phẩm sinh học từ trùn quế để làm thức ăn gia súc, gia cầm và
phân bón cho cây bằng công nghệ vi sinh không tốn chi phí năng lượng, đem lại hiệu
quả kinh tế cao góp phần làm cho ngành chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản và trồng trọt
phát triển tốt hơn.
Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam đã chuyển giao 2000m
2
diện tích
trồng rau, quả sạch công nghệ cao trong nhà màng cho Trung tâm kiểm dịch giống -cây
trồng-vật nuôi(xã Phạm Văn Thái, Bình Chánh, Tp Hồ Chí Minh). Đến đầu tháng 10 sẽ
cho ra những sản phẩm sạch đầu tiên đến tay nguời tiêu dùng.
3. Trong thủy sản:
Công nghệ sinh sản nhân tạo một số loài thủy sản có giá trị kinh tế cao( tôm sú, tôm
he, cá tra, ba ba, cua, nhuyễn thể 2 vỏ…) đã tạo nên cuộc cách mạng thực sự trong ngành
nuôi trồng thủy sản. Công nghệ mới cũng được áp dụng trong các nghề khai thácnhư câu
vàng cá ngừ, câu cá mực, điều chỉnh kích thước mắt lưới trong khai thác để bảo vệ
nguồn lợi; áp dụng công nghệ làm lạnh nước biển để bảo quàn cá, tôm và các sản phẩm
khai thác sau thu hoạch…

Sau 3 năm triển khai, Trung tâm quốc gia giống thủy sản nước ngọt Nam bộ, thuộc
Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I (xã An Thái Trung, huyện Cái Bè, Tiền Giang)

đã thành công trong việc sinh sản nhân tạo cá bông lau. Theo đó, năm 2004, trung tâm
nuôi vỗ đàn cá bông lau bố mẹ ở ao hồ. Năm 2005, cá có dấu hiệu sinh sản
nhưng tỉ lệ thành công thấp dưới 5%, đến năm 2006 tỉ lệ cá nuôi sinh sản đạt 25%.
Đây là loài cá da trơn quý hiếm, có giá trị kinh tế cao, sống nhiều ở sông Mêcông
nhưng do đánh bắt bừa bãi nên ngày càng khan hiếm.
Ngay từ đầu năm 2006, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II (Viện II) đã
được Bộ Thủy sản phê duyệt dự án: “Nhập công nghệ sản xuất giống cá măng”, là
hướng đi ngắn đưa nghề nuôi cá biển Việt Nam tiếp cận nhanh với nghề nuôi cá biển
của các nước trong khu vực và thế giới, nhằm khai thác triệt để tiềm năng diện tích
mặt nước của các tỉnh ven biển, đa dạng hóa đối tượng nuôi biển để cung cấp cho
tiêu dùng và xuất khẩu, góp phần đa dạng hóa loài nuôi cho nghề nuôi cá biển ở Việt.
Cá măng có thể nuôi ghép được với tôm sú

nên sẽ góp phần giải quyết vấn đề ô
nhiễm môi trường nước các vùng nuôi tôm tập trung, thúc đẩy sự phát triển bền vững
của nghề nuôi tôm nói chung. 4.Trong lâm nghiệp:
Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới , nhất là trong tuyển chọn, tạo giống mới, nhân
nhanh giống bằng công nghệ mô, hom được đưa vào sản xuất góp phần cải thiện năng
suất, chất lượng rừng. Hiện nay, nhiều diện tích rừng kinh tế được trồng bằng giống
tiến bộ kỹ thuật. Tỷ lệ thành rừng đối với rừng trồng tăng từ 50% bình quân vào
những năm 1990 lên trên 80%, nhiều nơi năng suất rừng trồng đã đạt 15-
20m3/ha/năm.
Thời gian gần đây, cây giống giâm hom thay cây giống ươm từ hạt đã góp phần
nâng cao chất lượng rừng trồng. Trung tâm Ứng dụng - chuyển giao công nghệ Phú
Yên cam kết sẽ chuyển giao công nghệ giâm hom giống keo lai đến những nông dân
trồng rừng trong thời gian tới, góp phần khắc phục tình trạng nhiều nông dân phải
mua giống từ tỉnh khác hoặc mua ở một số hộ gia đình tự sản xuất như lâu nay.
Trong chế biến nông, lâm, thủy sản:
Ngoài việc chủ động đổi mới công nghệ, thiết bị, đa dạng hóa sản phẩm, còn tăng
cường việc kiểm tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm tại vưng nguyên liệu và

các cơ sở sơ chế, đảm bảo chất lượng nguyên liệu và sản phẩm, đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu.
Chiều 6-5, Bộ NN-PTNT đã chủ trì hội nghị trực tuyến với 63 tỉnh, thành để bàn bạc
kế hoạch tổng kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm (ATVSTP) trong cả nước. Thứ
trưởng Bộ NN-PTNT Lương Lê Phương cho biết, để chuẩn bị thực hiện Luật An toàn
thực phẩm (có hiệu lực từ 1-7), trong đó nhiệm vụ chính được giao cho Bộ NN-
PTNT, phân định rõ trách nhiệm của Bộ NN-PTNT và Bộ Y tế, trong thời gian qua,
Bộ NN-PTNT đã triển khai thí điểm hoạt động kiểm tra ATVSTP trong nông sản và
vật tư nông nghiệp tại 2 tỉnh Thanh Hóa và Tiền Giang.
Từ việc thí điểm tại 2 tỉnh Thanh Hóa và Tiền Giang, Bộ NN-PTNT yêu cầu triển
khai rộng khắp 63 tỉnh, thành trong cả nước. Theo đó, sẽ tổ chức một cuộc tổng kiểm
tra ATVSTP trong nông sản, phân loại các cơ sở sản xuất kinh doanh thành từng
nhóm A, B, C. Trong đó, với những cơ sở không đạt yêu cầu (loại C) sẽ yêu cầu phải
khắc phục ngay, nếu không sớm khắc phục được thì xử lý nghiêm theo luật định,
thậm chí sẽ rút giấy phép kinh doanh hoặc đề nghị khởi tố theo luật hình sự.
6. Trong thủy lợi:
Nhiều công nghệ mới được áp dụng trong xây dựng và quản lý, như công nghệ bê
tông đầm lăn, kè bản nhựa, van nhựa tổng hợp, đập xà lan di động, đập cao su, bơm
di động trên ray, công nghệ điều khiển từ xa trong quản lý, điều hành các công trình
thủy lợi…
Công nghệ bê tông đầm lăn (BTÐL) là loại công nghệ sử dụng bê tông không có độ
sụt, được làm chặt bằng thiết bị rung lèn từ mặt ngoài (lu rung). Công nghệ BTÐL
nếu áp dụng cho xây dựng mặt đường so với công nghệ thi công thông thường có các
ưuđiểmsau:
- Lượng dùng xi măng thấp, có thể sử dụng một số phế thải hoặc sản phẩm phụ của
các ngành công nghiệp khác giúp hạ giá thành vật liệu;
- Ðạt cường độ cao ở thời gian đầu, sớm cho phép lưu thông đường;
- Phương pháp thi công không phức tạp, tương tự như thi công bê tông asphalt;
- Tốc độ thi công nhanh giúp rút ngắn thời gian thi công và giảm tổng chi phí.
Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng hạn hán như hiện nay đã được các

nhà khoa học xác định là do tỉ lệ thất thoát nước cao trong quá trình tưới. Công nghệ
tưới tiết kiệm nước (TTKN) lần đầu tiên trên thế giới được sử dụng trong nhà kínhơ
nước Anh từ cuối năm 1940. Ở Việt Nam công nghệ TTKN đang còn ở mức thấp,
đơn giản, hiệu quả chưa cao. Trước thực trạng đó, Viện Khoa học thủy lợi miền Nam
đã xây dựng và hoàn thiện thành công chuyển giao công nghệ kỹ thuật TTKN tại một
số địa phương. Đây cũng là nội dung nghiên cứu khoa học của Đề tài cấp nhà nước
KHCN 08-09 “ nghiên cứu ứng dụng các giải pháp công nghệ tưới tiêu hiện đại tiết
kiệm nước cho các vùng khan hiếm nước” đã được đánh giá đạt hiệu quả cao trong
nghiên cứu, chế tạo cũng như đưa sản phẩm ứng dụng vào thực tiẽn sản xuất.
7. Cơ khí hóa nông nghiệp có bước tiến bộ:
Đến năm 2007, nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp đạt tỷ lệ cơ giới hóa cao, như:
làm đất đạt 70%, tưới tiêu nước 80%, tuốt lúa 83.6%; xay xát lúa gạo đạt 95%; phát
triển mạnh máy gặp đập liên hợp phục vụ thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long
( trong năm 2005-2006 tăng lên 10%). Tổng công suất tàu, thuyền đánh bắt thủy sản
năm 2006 đạt 5.8 triệu CV; công suất trung bình máy tàu tăng từ 1.5CV/tàu (năm
1990) lên 60.6 CV/tàu (năm 2006).ất
III. HẠN CHẾ:
Dự báo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) cho thấy, mỗi năm
nước ta có thể trồng được 7.2 triệu ha lúa và ước tính sản lượng năm 2015 là 38.75
triệu tấn. Mặc dù có diện tích gieo trồng lớn nhưng việc áp dụng khoa học công nghệ
(KHCN), đặc bịêt là cơ giới hóa trong tất cả các khâu từ làm đất, gieo sạ, chăm sóc
đến thu hoạch còn hạn chế.
Cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào đánh giá chính xác sự đóng góp của
KHCN đối với sản xuất nông nghệp, người ta mới chỉ đưa ra những tỉ lệ tương đối
như: Hàm lượng chất xám chiếm hơn 30 % giá trị sản phẩm hàng hóa; biện pháp
giống làm tăng năng suất từ 15-20%; biện pháp phân bón tăng 10-15%; tưới tiêu giúp
tăng 20-40%
Tiến sĩ Chu Văn Thiện, Phó Viện trưởng Viện Cơ điện nông nghiệp và Công nghệ
sau thu hoạch cho biết: Đồng bằng sông Cửu Long(ĐBSCL) là vùng trồng lúa lớn
nhất nước với những cánh đồng từ 1000-2000 ha nhưng việc áp dụng cơ giới hóa hầu

hết chỉ dừng ở khâu làm đất. Ở Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH), do trung bình mỗi hộ
có đến 8.6 thửa ruộng, diện tích manh mún, cách xa nhau nên việc ứng dụng cơ giới
hóa gặp nhiều khó khăn. Đến nay diện tích lúa cấy bằng tay ở ĐBSH vẫn chiếm tới
90%.
Theo thống kê của bộ NN&PTNT, hiện nay cả nước có khoảng 1300 doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất kinh doanh máy móc,thiết bị nông nghiệp. Lượng máy móc phục vụ
sản xuất nông nghiệp là trên 500.000, gồm: máy nổ, máy phát điện, máy cày, gặt đập
và các dòng máy chuyên dùng khác. Song điều đáng lo hơn cả là các cơ sở sản xất cơ
khí trong nước mới đáp ứng được 30% nhu cầu và phải nhập khẩu từ Trung Quốc tới
60%. Do công tác thu hoạch dựa nhiều vào lao động thủ công nên tỷ lệ thất thoát lúa
là 12-15% sản lượng.
Không chỉ riêng cây lúa, những cây trồng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cao
su, hồ tiêu, hạt điều, lạc, đỗ tương, ngô…cũng ở trong cảnh chăm sóc và thu hoạch
chủ yếu bằng lao động chân tay. Khâu được xem là khá nhất trong sản xuất nông
nghiệp hiện mới dừng lại ở công tác lai tạo và chọn giống.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng mức độ đóng góp của KHCN thấp đối với
tăng trưởng sản xuất nông nghiệp, trong đó nổi bật là đầu tư thấp và cơ chế chính
sách bất cập. Theo Ngân hàng thế giới, tổng đầu tư cho một cán bộ nghiên cứu ở Việt
Nam chỉ bằng 9% của Indonesia và Thái Lan, 2.5% của Malayxia. Những yếu kém
trong cơ chế chính sách khó chỉ ra bằng con số, nhưng rõ ràng cán bộ KHCN không
có động lực, hăng hái dốc toàn tâm cho việc nghiên cứu. Các đơn vị KHCN chưa
thực sự gắn bó tha thiết với hiệu quả đóng góp cho sản xuất. Do thu nhập và hiệu quả
sản xuất thấp nên nông dân không gắn bó với nông nghiệp…
IV. GIẢI PHÁP:
Theo viện Cơ Điện nông nghịêp và công nghệ sau thu hoạch, đến năm 2020 nước ta
phấn đấu đạt 100% diện tích trồng lúa ở ĐBSH và ĐBSCL được cơ giới hóa bằng
các thiết bị tiên tiến. Trong đó, diện tích được gieo trồng và thu hoạch bằng máy ở
ĐBSH đạt 50%, ở ĐBSCL là 80%. Để làm được điều này,trước tiên cần có cơ chế,
chính sách thích hợp nhằm thúc đẩy xây dựng công trình thủy lợi, cải tạo ruộng đồng,
nâng cấp cơ sỏ hạ tầng nông thôn.

Cùng với đó là chính sách hỗ trợ các thành phần kinh tế đầu tư chế tạo máy móc nông
nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng cường hơn nữa viếc áp dụng các thành tựu
KHCN vào lĩnh vực nông nghiệp, tạo ra nền nông nghiệp giá trị cao bằng cách
chuyển giao, ứng dụng các kết quả KHCN, nhất là công nghệ cao và công nghệ sinh
học, cải tiến máy móc của nước ngoài cho phù hợp với điều kiện thực tế trong nước
để giảm thời gian và chi phí nghiên cứu. Đòng thời đẩy mạnh công tác tập huấn cho
nông dân về kỹ năng sử dụng máy móc, đào tạo các ngành nghề cơ khí nông nghiệp
theo mô hình liên kết 4 nhà: Nhà nước-nhà khoa học-nhà doanh nghiệp-người nông
dân. Ngoaì ra, vấn đề đổi mới công nghệ, ưu tiên ứng dụng chuyển giao công nghệ
chế biến thu hoạch cũng cần được quan tâm.
KẾT LUẬN:
Nền kinh tế của đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tăng trưởng khá nhanh,
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đời sống nhân dân được cải
thiện. Kết quả trên là do nỗ lực chung của các ngành, các cấp. Trong đó ngành Nông
Nghiệp có những đóng góp tích cực cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế Việt
Nam.
Vai trò của Ngành Nông Nghiệp càng thể hiện rõ thông qua việc đáp ứng nhu cầu
lương thực, thực phẩm trong nước mà còn xuất khẩu thu nguồn ngoại tệ về cho đất
nước. Mặt khác Ngành Nông Nghiệp cũng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế xã
hội của đất nước trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Nông nghiệp chiếm giữ vị trí quan trọng, nông nghiệp không chỉ là ngành kinh tế đơn
thuần mà còn là hệ thống sinh vật-kỹ thuật. Để tạo ra nhiều sản phẩm với chất lượng
cao, tạo việc làm, tăng nhanh thu nhập, ổn định kinh tế, chính trị-xã hội và làm cơ sở
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do đó, cần phải không ngừng
áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp để không bị lạc hậu với các
nước và hội nhập.

×