Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiểu luận: Xuất khẩu mặt hàng gạo - Thực trạng và giải pháp docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (473.36 KB, 18 trang )


Tiểu luận

Xuất khẩu mặt hàng
gạo - Thực trạng và
giải pháp
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
1
LỜI MỞ ĐẦU

Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được
sản xuất và tiêu dùng chủ yếu ở Châu Á. Cũng như các mặt hàng lương thực
khác, Chính phủ các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng cung trong
nước để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo trao đổi chiếm
khoảng 6 – 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới. Trong thương mại thế
giới, khối lượng và giá trị buôn bán mặt hàng gạo ở mức tương đương với lúa
mì và chiếm tỷ trọng nhỏ so với tổng giá trị thương mại hàng hóa.
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, sản
lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001), bình
quân diện tích tăng 1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản lượng tăng
5%/năm. Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo
hàng đầu thế giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay,
theo mức kim ngạch xuất khẩu, gạo được xem là một trong những mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu
USD, tăng hơn 3 lần so với năm 1991 và chiếm 4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể
cả xuất khẩu dầu thô).
Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn
là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt nguồn từ yêu
cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh lương thực. Do vậy
trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng đến


năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo ngon có giá trị xuất khẩu cao
(những giống gạo thường cho năng suất thấp).
Căn cứ vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để
hơn nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như tìm kiếm
cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt hàng gạo có
hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
2
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Xuất khẩu mặt hàng gạo. Thực trạng
và giải pháp" làm đề tài tiểu luận của mình.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
3
I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG GẠO THẾ GIỚI
1. Tổng quan tình hình sản xuất lúa gạo thế giới năm 1998 đến nay
Hiện tượng khí hậu elninô năm 1998 đã làm cho nhiều nước mất mùa và
phải tăng nhập khẩu gạo, điều này làm cho mậu dịch gạo thế giới tăng đến mức
kỷ lục 25,7 triệu tấn. Nhưng qua năm 1999 do nhiều nước được mùa làm cho
mậu dịch gạo thế giới giảm còn 21,8 triệu. Năm 2000 là một năm sóng gió trên
thị trường gạo thế giới với nhu cầu đặc biệt thấp, giá gạo giảm. Nhu cầu nhập
khẩu gạo của các nước lớn như Inđônêxia, Philipin, Bănglađet, Braxin… hạn
chế bởi sản lượng gạo của các nước này đang phục hồi sau 2 năm mất mùa vìe
biến động của thời tiết.
Năm 2000 tuy có thiên tai xảy ra ở các nước sản xuất gạo như lũ lụt tại
các miền nam Ấn Độ, lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, hạn
hán tại Trung Quốc, lũ lụt và bão nhiệt đới tại Đông Bắc Thái Lan. Mặc dù
thiên tai gây ảnh hưởng tới sản lượng gạo của một số nước nhưng nhìn chung
sản lượng thế giới vẫn tăng, giá gạo vẫn liên tục giảm. Ngoài Thái Lan và Việt
Nam, Trung Quốc nổi lên là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Với ưu thế giá

gạo ra và chất lượng ngày được một cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng
trên thị trường châu Phi và Nhật Bản.
Năm 2001 theo dự báo của Bộ nông nghiệp Mỹ USDA sản lượng gọa thế
giới giảm 8,66 triệu tấn (2,12%) so với năm 2000. Trong đó sản lượng giảm
nhiều nhất dự đoán ở Trung Quốc giảm 5,94 triệu tấn vằ ở Ấn Độ giảm 4 triệu
tấn. Nhu cầu tiêu thụ gạo thế giới năm 20021 dự báo sẽ giữ gần như năm trước
cao hơn hẳn sản lượng 3,6 triệu tấn.
Cũng theo USDA sản lượng gạo thế giới vụ 2001/2002 giảm 1,27 triệu
tấn so với dự đoán của tháng 8 còn 394,44 triệu tấn chủ yếu do dự kiến sản
lượng gạo giảm tại Trung Quốc và Ai Cập tuy rằng sản lượng của Mỹ, Ấn Độ
và Ôxtrâylia tăng. Tiêu thụ gạo sẽ ở mức 404,8 triệu tấn (giảm hơn 1 triệu tấn
so với dự báo hồi tháng 8). Tồn kho gạo thế giới vào cuối vụ sẽ còn 127,23
triệu tấn.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
4
Tiêu thụ gạo thế giới năm 2001 sẽ đạt mức kỷ lục 403,54 triệu tấn, nước
tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới là Trung Quốc 136,75 triệu tấn, tiếp đến là Ấn Độ
87 triệu tấn, Inđônêxia 36,6 triệu tấn. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất
thế giới nhưng sản lượng gạo cũng chỉ ở mức 16,7 triệu tấn và tiêu thụ 10%
triệu tấn.
2. Xuất nhập khẩu gạo thế giới
2.1. Nhập khẩu: Theo dự báo của USD năm 2001 nhu cầu nhập khẩu gạo
của thế giới tăng 1,2% (270.000 tấn) so với năm 2000. Trong đó nhập khẩu gạo
dự đoán sẽ tăng mạnh nhất Ơiran tăng 300.000 tấn, tiếp đến là CHDCND Triều
Tiên tăng 150.000 tấn. Về khu vực dự đoán sẽ tăng chủ yếu ở Trung Đông,
Châu Phi nhưng tiếp tục giảm ở Châu Á, tuy vậy các quốc gia Châu Á vẫn là
nước nhập khẩu gạo nhiều nhất chiếm 49% tổng nhập khẩu hoàn toàn thế giới,
năm 2001 nhập khẩu gạo Châu Á giảm do nước nhập khẩu lớn nhất của Châu
Á là Inđônêxia giảm lượng nhập.

Năm 2001 Inđônêxia giảm nhập khẩu gạo bởi những lý do sau: Diện tích
trồng lúa của nước này tăng 2,85% so với năm 2000 lên 11,4 triệu tấn ha. Đây
chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho sản lượng thóc gạo của Inđônêxia tăng
cao đạt ở mức 53,8 triệu tấn thóc tương đương với 35,8 triệu tấn gạo tăng 1,3
triệu tấn thóc so với năm 2000 vì thế nên năm 2001 Inđônêxia giảm lượng gạo
nhập khẩu xuống ở mức 0,7 triệu tấn so với 1,8 triệu tấn năm 2000.
Trung Đông tăng lượng nhập khẩu gạo bởi nhu cầu dùng gạo ở những
nước này tăng mà khả năng sản xuất ở những nước này bị hạn chế, như trường
hợp Saudi Arabia do ngày càng sử dụng nhiều lao động từ các nước Châu Á
quen ăn cơm nên nước này có thể tăng nhập khẩu gạo.
Châu Phi cũng sẽ tăng nhập khẩu gạo do các nước này phải dỡ bỏ bớt các
rào cản về thuế quan trong năm nay. Theo dự báo của tổ chức nông lương Liên
Hợp Quốc thì từ năm 1999 - 2005 nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước Châu
Phi sẽ tăng 30%
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
5
2.2. Xuất khẩu:
Cũng theo dự báo của FAO năm 2001 xuất khẩu gạo thế giới sẽ đạt 22,3
triệu tấn giảm 0,7 triệu tấn so với năm 2000. Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ,
Trung Quốc, Pakistan, tiếp tục là những nhà cung cấp gạo chính cho thế giới,
ngoài ra còn xuất hiện những nhà cung cấp gạo khác như Myanma, Cămpuchia
và một số nước Châu Mỹ la tinh/
Thái Lan: Sản xuất lúa gạo Thái Lan năm 2001 ước đạt 24,13 triệu tấn
thóc (16,7 triệu tấn gạo) giảm 34000 tấn so với năm 2000 tiêu thụ trong nước
10 triệu tấn gạo. Nhìn lại thành tích xuất khẩu gạo năm 2000 của Thái Lan thì
đã vượt quá mục tiêu do chính phủ đề ra về số lượng và giá trị. Lượng gạo xuất
khẩu của Thái Lan năm 2000 đạt 6,61 triệu tấn trị giá 68 tỷ Baht (1,74 tỷ USD)
vượt 10% so với mục tiêu về số lượng đề ra (6 triệu tấn) và vượt 13% mục tiêu
về giá trị đề ra (1,55 tỷ USD). Đó là nhờ sự tăng trưởng xuất khẩu gạo của

nước này sang thị trường chính như Nigiêria, Iran, Sengegal, Namphi.
Năm 2001 Thái Lan cũng đặt ra mục tiêu xuất khẩu 6 triệu tấn gạo,
nhưng đến ngày 11/9/2001 Thái Lan đã xuất khẩu được 4,64 triệu tấn tăng 15%
so với cùng kỳ năm trước ước tính đến hết
3. Triển vọng thị trường gạo thế giới trong năm 2002
3.1. Các nước xuất khẩu gạo.
Mỹ: xuất khẩu gạo của Mỹ năm 2002 dự kiến đạt 2,6 triệu tấn, giảm
50.000 tấn so với năm 2001, sản lượng đạt 8,8 triệu tấn tăng 140.000 tấn. Mặc
dù sản xuất gạo tăng nhưng vì giá gạo Mỹ không có sức cạnh tranh nên tổng
lượng gạo xuất khẩu dự kiến giảm.
Thái Lan: xuất khẩu gạo của Thái Lan theo dự báo mới nhất là 7 triệu tấn
vào năm 2002.
Việt Nam: xuất khẩu gạo của Việt Nam dự báo có thể đạt 4,3 triệu tấn vào
năm 2002 do dự báo sản lượng thóc của Việt Nam tăng 300.000 tấn so với 31,8
triệu tấn của năm 2001.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
6
Trung Quốc có thể xuất khẩu 2 triệu tấn gạo vào năm 2002, cao hơn
200.000 tấn so với năn 2001, sản lượng gạo của Trung Quốc giảm nên lượng
tồn kho có thể chỉ còn 7,6 triệu tấn.
Ấn Độ: xuất khẩu gạo của ấn độ sẽ tăng nhẹ so với mức 1 triệu tấn của
năm nay, do sản lượng thóc năm 2002 của ấn độ có thể vẫn vượt tiêu thụ kết
quả là năm thứ tư liên tiếp tồn kho gạo của ấn độ tăng, hơn nữa nhờ sức cạnh
tranh về giá cả của gạo ấn độ tăng lên và nhu cầu tăng lên từ Băngladet thị
trường lớn nhất của ấn độ.
Pakistan xuất khẩu gạo dự kiến giảm so với mức 2,25 triệu tấn năm nay, vì
sản lượng thóc có khả năng giảm 300.000 tấn, nên lượng gạo xuất khẩu dự kiến
chỉ đạt 2 triệu tấn.
Achentina và Urugoay dự kiến sẽ giảm xuất khẩu lần lượt còn 250.000 và

650.000 tấn, do sản lượng ở trong nước giảm và nhu cầu nhập khẩu ở Châu Mỹ
la tinh giảm nhẹ.
Ai Cập: mặc dù sản lượng dự kiến bình ổn, song xuất khẩu từ Ai Cập có
thể tăng 25.000 tấn đạt 525.000 tấn, vì giá gạo của Ai Cập rất có sức cạnh tranh
đặc biệt là ở Thỗ Nhĩ Kỳ.
Mianma: xuất khẩu của Mianma có thể giảm vì các chính sách xuất khẩu
và định giá của chính phủ chậm hơn những thay đổi trên thị trường toàn cầu.
3.2. Các nước nhập khẩu.
Bắc Mỹ: dự kiến nhập khẩu 315000 tấn gạo vào năm 2002 tăng 5000 tấn
so với năm 2001 vì tiêu thụ gạo thơm và các loại gạo đặc biệt tiếp tục tăng,
tổng nhập khẩu vào Mêhico vẫn ổn định ở mức 425.000 tấn vì nhập khẩu gạo
thô vẫn cao để cung cấp cho ngành xay xát của nước này.
Mỹ la tinh: nhập khẩu vào toàn khu vực dự kiến giảm hơn 100.000 tấn
mặc dù sản lượng thóc ổn định. Riêng nhập khẩu vào Braxin vẫn bình ổn ở
mức 500.000 tấn.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
7
Trung đông: nhập khẩu trong năm 2002 dự kiến tăng vì sản lượng thóc
trong khu vực giảm trong 2 năm liên tiếp do thời tiết khô hạn, nhập khẩu gạo
của Iran tăng 250.000 tấn đạt 1,25 triệu tấn.
Châu Phi: sản lượng gạo của Châu Phi tăng nhẹ và nhập khẩu trong khu
vực sẽ giảm, tồn kho giảm vì tiêu thụ trong khu vực tăng, nhập khẩu vào
Nigieria giảm vì sản lượng tăng lên và đã lập kho dự trữ.
Nam Á: sản lượng nhập khẩu và tồn kho cuối vụ của nam Á dự đoán tăng
do nhâp khẩu vào Băngladet tăng vì sản lượng gạo của nước này dự báo giảm 1
triệu tấn, tiêu thụ dự báo tăng tồn kho cuối vụ trước giảm.
Các nước châu Á khác: Nhập khẩu vào Châu Á dự đoán bình ổn trong 3
năm liên tiếp, trong khi sản lượng giảm tiêu thụ tăng, tồn kho sẽ giảm 10 triệu
tấn trong đó 75% mức tồn cuối vụ giảm thuộc về Trung Quốc, phần còn lại chủ

yếu thuộc về Indonexia.
3.3. Mậu dịch: Dự kiến mậu dịch gạo toàn cầu năm 2002 bình ổn, tiêu thụ
tăng 2% do dân số tăng, làm giảm khoảng10 tấn tồn kho cuối vụ, chủ yếu ở
Trung Quốc nơi có 2/3 sản lượng gạo dự trữ toàn cầu. Ấn Độ một nước xuất
khẩu lớn đang phát triển kế hoạch sử dụng hoặc bán gạo dự trữ.
3.4 Giá cả: Giá gạo thế giới năm 2002 dự đoán tiếp tục giảm mặc dù tồn
kho gạo toàn cầu sẽ giảm. Từ khi các nước xuất khẩu lớn nắm giữ 85% dự trữ
toàn cầu, họ là tác nhân chính trên thị trường, nhu cầu nhập khẩu lúc này thấp,
các nhà nhập khẩu ít quan tâm đến nhập khẩu vì sản lượng trong nước không
thiếu hơn nữa do dự đoán giá không tăng trong tương lai gần.
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY.
1. Tình hình chung
Sản lượng gạo của Việt Nam năm nay dự đoán giảm xuống còn khoảng 31
triệu tấn, so với mức 32,6% triệu tấn năm ngoái, một phần là do giá gạo thế
giới giảm. Dự đoán nông dân sẽ giảm 40% diện tích trồng lúa trong vụ xuân hè
này xuống còn khoảng 310.000 ha, so với 535.000 ha năm ngoái, vì giá gạo
thấp. Nếu tính sản lượng gạo trung bình 3,5 tấn/ha, việc giảm diện tích trồng
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
8
lúa trong vụ xuân hè năm nay sẽ làm giảm khoảng 500.000 - 600.000 tấn thóc.
Vụ Đông xuân năm 2000 - 2001 do lũ lụt tại vùng ĐBSCL đã làm giảm thu
hoạch do đó đã giảm sản lượng của cả năm vào khoảng hơn 843.000 tấn.
Vụ đông xuân năm nay đã sản xuất được 15,5 triệu tấn thóc, sản lượng của
vụ hè thu năm nay cũng có thể bị giảm, một mặt do nông dân lo ngại giá gạo
thấp, mặt khác Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn đã kêu gọi nông dân
giảm sản lượng gạo và chuyển sang trồng các cây công nghiệp khác như mía,
dâu và ngô.
Tuy nhiên, việc giảm sản lượng thóc năm nay sẽ không ảnh hưởng đến
xuất khẩu, dự định vẫn đạt chỉ tiêu bằng hoặc cao hơn chút ít so với năm ngoái.

Sản lượng gạo năm 2001 thấp cũng sẽ không ảnh hưởng đến việc tiêu dùng gạo
trong nước vì hiện náy Việt Nam đã có đủ gạo để đáp ứng nhu cầu trong nước.
1.1. Giá cả: Qua những số liệu ghi nhận được chứng tỏ gạo xuất khẩu Việt
Nam ngày càng được cải thiện hơn, ngày càng được giá hơn và khoảng cách
với giá gạo Thái Lan ngày càng được rút ngắn, nếu như 6 tháng đầu năm
khoảng cách này là 20 - 25USD/ tấn, thì đến 6 tháng cuối năm chỉ còn chênh
nhau 10 - 15 USD/ ấn, có thời điểm giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã ngang
với giá gạo Thái Lan.
1.2. Cơ cấu xuất khẩu gạo năm 2000.
Gạo phẩm cao cấp 42,71%
Gạo phẩm cấp trung bình 25,55%
Gạo phẩm cấp thấp 24,13%
Gạo tám 5,06%
Gạo nếp 1,07%
Các loại khác % 0,55

1.3. Xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2001.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
9
Dự đoán sản lượng thóc của Việt Nam năm 2001 giảm xuống còn 31 triệu
tấn, so với 32,6 triệu tấn năm ngoái. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế dự đoán sản
lượng thóc giảm không ảnh hưởng đến xuất khẩu.
Do người dân chuyển đổi diện tích trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản,
trồng mía, dâu, bông, vì thé mà mục tiêu xuất khẩu 4 triệu tấn gạo trong năm
2001 ngay từ đầu năm đã gặp nhiều khó khăn, trong khi cạnh ranh giữa các
nước xuất khẩu gạo đang ngày càng trở nên quyết liệt, mậu dịch gạo thế giới
năm 2001 dự đoán không tăng hơn so với năm 2000 cho nên giá gạo xuất khẩu
đã giảm xuống chỉ bằng 73% so với cùng kỳ năm 2000, nên mặc dù quý I/
2001 xuất khẩu được xấp xỉ 753.000 tấn gạo, gấp 2 lần về lượng nhưng về giá

trị chỉ tăng 90% so với cùng kỳ năm 2000. Song quý II tình hình xuất khẩu gạo
còn khó khăn hơn do vậy giá lúa gạo ở thị trường trong nước liên tục giảm
xuống (950 - 1000 đ/ kg ở vùng sâu vùng xa) dưới mức giá thành sản xuất làm
cho người dân bị lỗ vốn.
Để giải quyết tình trạng này chính phủ đã đề ra nhiều biện pháp tăng tiêu
thụ lúa hàng hoá, trong đó có biện pháp mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo (quyết định
233/qđ - ttg của thủ tướng chính phủ ngày 6/3/2001 quy định giá sàn thóc từ
1250 - 1300đ/ kg) thực hiện trong tháng 3 và 4/2001 nhờ biện pháp đó mà đến
tháng 5 giá lúa gạo đã tăng được từ 50 - 100đ/ kg.
1.4. Thị trường xuất khẩu
Thị trường xuất khẩu gạo ngày càng rộng mở: Theo thống kê của Tổng
cục Hải Quan, từ đầu năm đến nay mặt hàng gạo nước ta đã xuất khẩu tới 37
nước và vùng lãnh thổ, tăng thêm 12 thị trường so cùng kỳ, tiêu biểu đó là Ai
Cập, Senegal, Nam Phi, Tanzania…Riêng Tanzania, gạo là mặt hàng xuất khẩu
duy nhất của nước ta với khối lượng gần 40.000 tấn. Tính chung tổng lượng
gạo xuất khẩu của ta tới những thị trường mới này đạt trên 300.000 tấn.
Tại một số thị trường, lượng gạo nhập khẩu từ Việt Nam đã tăng mạnh
như Philipin nhập nhhiều gấp 3 lần cùng kỳ năm trước và Nga, Ba Lan…cũng
nhập tăng gấp đôi. Nhờ đó lượng gạo xuất khẩu của cả nước từ đầu năm đến
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
10
nay đã vượt trên 3 triệu tấn, tăng khoảng 23% so cùng kỳ. Tuy nhiên do giá
giảm mạnh nên kim ngạch xuất khẩu mới đạt 525 triệu USD, chỉ tăng trên 3%
so cùng kỳ.
Như vậy, đến nay thị trường châu á chiếm trên 47% thị phần xuất khẩu
gạo Việt Nam, châu Phi gần 30%, Trung Đông gần 9%, châu Mỹ khoảng 7%,
còn lại là các thị trường khác. Theo dự báo, xuất khẩu gạo năm nay có thể đạt
và vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 3,5 triệu tấn.
Tiểu luận Ngoại thương

Nguyễn Thị Vân Dung - 738
11
2. Khó khăn của Việt Nam trong xuất khẩu gạo và nguyên nhân.
Thị trường các mặt hàng nông sản thế giới vẫn ở trong tình trạng không
mấy sáng sủa. Mặt hàng giá nông sản đang ở mức thấp và rất khó có khả năng
phục hồi sớm. Mục tiêu xuất khẩu 4 triệu tấn gạo của Việt Nam trong năm
2001 sẽ gặp khó khăn, trong khi cạnh tranh giữa các nước xuất khẩu gạo đang
ngày càng trở nên quyết liệt, vì mậu dịch gạo thế giới ở mức 23,3 triệu tấn,
không tăng so với năm 2000, và cũng chưa xuất hiện dấu hiệu nào thuận lợi
cho xuất khẩu mặt hàng này những tháng cuối năm. Đến thời điểm này, giá
chào gạo phẩm cấp thấp và trung bình của tất cả các nước xuất khẩu đều ở mức
rất thấp, tương đương mức giá cùng thời điểm năm 2000. Giá chào gạo xuất
khẩu của ta ở mức thấp là điều không thể khác được. Bởi bối cảnh cạnh tranh
trên thị trường xuất khẩu gạo, nhất là gạo phẩm cấp thấp, trung bình đang diễn
ra ngày càng quyết liệt. Hầu hết nguồn cung lúa gạo tại các nước xuất khẩu như
Việt Nam, Thái Lan, Pakistan, ấn độ…đều tăng cao, trong khi thị trường xuất
khẩu tiếp tục khó khăn như cuối năm 2000.
Để bán được gạo, các nước xuất khẩu đã chủ động đề xuất những điều
kiện hết sức có lợi cho các nước nhập khẩu, như chào giá mức thấp, giao hàng
nhanh, điều kiện thanh toán đa dạng (có thể đổi hàng, trả chậm trong thời gian
dài…); Thái Lan liên tục xúc tiến xuất khẩu gạo trong các cuộc tiếp xúc cấp
Chính phủ. Nước ngày còn chủ trương thả nổi đồng baht để khuyến khích xuất
khẩu gạo. Đây sẽ là áp lực lớn đối với mặt bằng giá của các nước xuất khẩu gạo
khác, nhất là với Việt Nam. Mặc dù đã "độc chiếm" trên thị trường gạo chế
biến, gạo phẩm cấp cao, song Thái Lan vẫn sẵn sàng với Việt Nam và các nước
xuất khẩu gạo khác trượt xuống mức giá thấp, đặc biệt là với gạo 25% tấm để
giành giành thị trường.
Trong khi đó, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, nâng cao kỹ thuật, công
nghệ chế biến gạo của Việt Nam để có được các chủng loại gạo xuất khẩu
10/14/01 7 :20 AM phong phú và chất lượng như Thái Lan vẫn chưa thể làm

được trong ngắn hạn. Ngoài ra, trong những tháng cuối năm 2001, Việt Nam
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
12
còn phải cạnh tranh mạnh với một đối thủ mới là Pakistan, xuất khẩu chủ yếu
các loại gạo 15%, 20%, 25% tấm, có mức giá tương đương Việt Nam. Và cùng
với việc ấn độ tham gia xuất khẩu gạo, giảm giá chào bán xuống mức thấp nhất
khu vực châu á (ấn độ đã thực hiện việc chào bán gạo 25% tấm với giá 136
USD/ tấn, trước đây là trên 200 USD/ tấn) sẽ càng làm tăng thêm áp lực đối với
thị trường gạo phẩm cấp thấp hiện nay.
Bước sang năm 2001, cả hai nước xuất khẩu gạo lớn là Việt Nam và Thái
Lan đều có ảnh hưởng lương thực quy thóc tương đối ổn định (Việt Nam giảm
chút ít). Ngoài lương thực được cân đối cho tiêu dùng trong nước, bổ sung và
đổi hạt cho dự trữ quốc gia, lương thóc hàng hoá quy gạo của ta vẫn còn tương
đối lớn, khoảng 3 triệu tấn cần phải được xuất khẩu, tương đương mức xuất
khẩu của năm 2000.Trong khi đến nay Việt Nam mới xuất được gạo vào thị
trường Châu Phi với số lượng còn rất khiêm tốn. Chưa kể phải cạnh tranh gay
gắt, thì nhu cầu ở các nước nhập khẩu gạo lớn và những khách hàng truyền
thống của Việt Nam vẫn tiếp tục bị thu hẹp. Việc Indônêxia rút khỏi thị trường
nhâp khẩu gạo, đã gây tác động mạnh đến mậu dịch gạo thế giới và xuất khẩu
gạo của Việt Nam.
Chính sách "cơ chế thị trường tự do có kiểm soát" được nước này đặt ra
là: cấm nhập khẩu gạo, trừ khi thời vụ thu hoạch kém (thường kéo dài từ tháng
10 tới tháng giêng hàng năm); trong thời vụ nhập khẩu, thuế nhập khẩu gạo sẽ
tăng dần căn cứ vào giá trên thị trường thế giới, tỉ giá hối đoái và tình hình
cung cấp gạo trong nước. Từ tháng 8/2001 trở đi, xuất khẩu gạo của Việt Nam
vào thị trường truyền thống này chỉ có thể được cải thiện nếu sản xuất lúa gạo
của Inđônexia bị ảnh hưởng bởi hiện tưọng Linana. Cũng như Inđônêxia, triển
vọng nhập gạo Việt Nam của Philipin cũng phụ thuộc lớn vào hiện tượng thời
tiết Elnino tái diễn từ tháng 8/2001 gây ảnh hưởng tới sản xuất lúa gạo của

nước này. Thực tế cho thấy, giải phóng hết "đầu ra" của lúa gạo đang là một áp
lực hết sức năng nề đối với nước ta, và nếu không có những đột biến về thời
tiết thì tình hình tiêu thụ rất khó có khả năng được cải thiện trong những tháng
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
13
cuối năm. Và rõ ràng sự phân bổ nhu cầu gạo trên toàn cầu đã thay đổi nhiều so
với trước. Điều này đòi hỏi Việt Nam phải chủ động, linh hoạt, có nhiều điều
kiện ưu đãi khách hàng hơn thì mới bảo đảm được mục tiêu xuất khẩu 4 triệu
tấn gạo năm 2001.
Mặc dù hiệu quả kinh tế từ xuất khẩu gạo sẽ bị giảm sút, nhưng đây là
năm bản lề để Việt Nam chuyển dịch cơ cấu giống cây trồng, nâng cao chất
lượng hạt gạo, tạo hiệu quả cao hơn trong các năm tiếp theo.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP.
1. Giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu
1.1. Chuyển đổi loại giống lúa chất lượng cao: Hiện nay gạo xuất khẩu của
nước ta ở giữa loại 2 và 3. Nếu thị trường khan hiếm thì người mua có thể đẩy
lên loại 2. Ngược lại khi gạo bão hoà thì gạo loại 2 dễ bị đẩy xuống loại 3, vì
vậy muốn có được gạo xuất khẩu có chất lượng cao thì khâu đầu tiên là phải
chọn được giống lúa cho gạo có độ ghẻo cao, thơm…
1.2. Quy hoạch từng vùng trồng lúa khác nhau để tránh sự lai tạp giữa các
loại giống lúa khi trồng xen lẫn trong cùng một vùng, cũng có thể quy hoạch
từng vùng lúa dùng để xuất đi từng thị trường khác nhau.
1.3. Hoàn thiện công nghệ sau thu hoạch, cần quan tâm đầu tư nâng cấp
công nghệ thu hoach, bảo quản sau thu hoạch (dùng máy sấy thay cho phơi
thóc bằng ánh sáng mặt trời hiện nay nông dân thường dùng), xay xát có công
suất từ 180 tấn/ ca trở lên). Hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho việc cung cấp
cây giống, khuyến nông, mua, bảo quản (kho bảo quản phải có nhiệt độ độ ẩm
thích hợp), tồn trữ, vận chuyển, bốc xếp,…tất cả cần phải thực hiện quản lý
theo tiêu chuẩn ISO.

Hiện nay nông dân có thói quen để lúa chín quá khi thu hoạch thì gặt đập
chưa khép kín và phơi ngay bằng ánh sáng mặt trời nên hạt gạo bị rạn gẫy
nhiều, sinh ra nhiều tấm. Muốn gạo ít vỡ phải gặt khi lúa vừa chín tới và đưa
ngay vào máy sây khô sau đó được bảo quản trong kho có tiêu chuẩnnhiẹt độ
và độ ẩm thích hợp, để hạt gạo không bị hút ẩm ngả màu vàng. Khâu xay xát
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
14
cũng không nên dùng máy có công suất nhỏ gạo bị hư hao nhiều và chất lượng
không đảm bảo, mà phải dùng máy có công suất từ 180 tấn/ trở lên, loại máy
này hiện đại có bộ phận sấy nếu thóc còn độ ẩm rồi mới qua bộ phận bóc vở do
đó gạo sẽ ít vỡ, cuối cùng là khâu đánh bóng để tách hết cám ra khỏi gạo, sau
dó gạo được bảo quản trong xilô có nhiệt độ ổn định, không khí thông thoáng
gạo sẽ không bị mờ, bị vón.
Từng bước áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến của thế giới ISO
vào sản xuất chế biến gạo xuất khẩu.
2. Giải pháp về thị trường xuất khẩu: Chủ động về chiến lược thị
trường tìm đầu ra ổn định cho từng loại gạo hoặc từng thị trường sau đó ký hợp
đồng với nông dẫn giống lúa đạt tiêu chuẩn mà nước nhập khẩu đề ra, tìm biện
pháp để ổn định thị trường giữ vững thị trường cũ tích cực tìm kiếm thị trường
mới.
Giữ vững và mở rộng thị trường bao gồm:
- Cần từng bước nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu sang các nước Châu á
như Xingapore, Indonexia, Philipin, Malaixia…nhằm củng cố và giữ vững các
thị trường này.
- Tăng cường xuất khẩu trực tiếp vào các nước Châu Phi, đặc biệt là các
nước Nam Phi, Nigiênia, Tôgô…vì các thị trường này có nhu cầu tiêu thụ gạo
khá lớn. Nếu khả năng thanh toán của bạn gây khó khăn thì nên thăm dò và áp
dụng phương thức hàng đổi hàng (đổi gạo lấy điều khô) để cân bằng lượng
ngoại tệ xuất nhập khẩu.

- Quan tâm hơn nữa đến việc bán gạo sang Trung Quốc vì đây là thị
trường rất gầnvà thuận tiện cho việc chuyên chở, một yếu tố làm giảm giá xuất
khẩu gạo của Việt Nam nào thị trường này.
- Đối với các thị trường có sức tiêu thụ lớn, nên tìm kiếm các thoả thuận ở
cấp Chính phủ để giải quyết vấn đề cấp tín dụng hoặc chấp nhận mua lại một
lượng hàng hoá nào đó nhằm thúc đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
15
Công tác tổ chức điều hành xuất khẩu gạo hàng năm phải hếc sức linh
hoạt, nghiên cứu lập quỹ dự trữ lương thực từ chính nguồn vốn của doanh
nghiệp xuất khẩu gạo.
Đầu tư thực hiện một hệ thống thông tin có khả năng giám sát an ninh và
phân tích thị trường lương thực, gắn thông tin với điều hành xuất khẩu gạo,
tránh gây bị động cho doanh nghiệp.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý đối với các doanh nghiệp
xuất khẩu gạo để doanh nghiệp gắn chặt với nông dân, nông nghiệp và nông
thôn nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mình.
3. Các giải pháp khác.
Cần đầu tư nhiều hơn nữa vào khâu dự trữ gạo xuất khẩu, các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo luôn sẵn có lượng gạo dự trữ nhất định tránh tình trạng
như hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam khi ký được hợp đồng xuất khẩu mới
tổ chức thu mua gạo để xuất khẩu không chủ động được nguồn hàng, nhiều khi
đẩy giá gạo trong nước lên.
Chọn thời điểm ký hợp đồng, tránh ký vào thời điểm giá rẻ giao hàng vào
thời kỳ giáp hạt.
Tuyệt đối giữ uy tín với khách hàng (tránh tình trạng như thời gian vừa
qua có doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất khẩu với nước ngoài nhưng khi họ
cho tầu vào ăn hàng thì không có).
Tiểu luận Ngoại thương

Nguyễn Thị Vân Dung - 738
16
KẾT LUẬN
Thị trường thế giới năm 2001 là thị trường của người mua, nên đã xảy
racạnh tranh khốc liệt giữa các nhà xuất khẩu cho giá gạo giảm, những nước
xuất khẩu được nhiều gạo là những nước đã chuẩn bị tốt các khâu: chất lượng,
chủng loại, giá cả, xúc tiến thương mại và một số khâu khác…
Trên thế giới hiện nay xét cả về nhu cầu gạo của các nước nhập khẩu có
thẻ phân ra hai loại sau: loại thứ nhất nhu cầu gạo chất lượng công nghiệp phát
triển Nhật, Hàn Quốc và các nước Trung Đông có nhiều dầu lửa.
Loại thứ hai: nhu cầu gạo chất lượng không cần cao (5% 25% tấm) đó là
các nước Châu Phi và các nước Châu Á khác.
Đối với Việt Nam:
Nông nghiệp Việt Nam sẽ phải phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá
những nông sản có lợi thế so sánh, đã đến lúc việc quy hoạch sản xuất nông
nghiệp dài hạn phải cân nhắc kỹ đến nhu cầu tiêu thụ trên thế giới cụ thể trong
sản xuất gạo cần phải có quy hoạch chi tiết, hình thành vùng sản xuất lúa
chuyên canh để trồng các loại lúa xuất khẩu đến từng khu vực có tính đặc thù
như loại xuất khẩu đi châu Á, châu Phi…Đầu tư bao tiêu để nông dân trồng lúa
đặc sản xuất khẩu thay giống lúa cũ bằng các giống lúa thơm có nhiệt độ hồ
hoá thấp, độ giẻo cao, tám thơm, nàng Hương….



Tiểu luận Ngoại thương
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
17
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG GẠO THẾ GIỚI 2
1. Tổng quan tình hình sản xuất lúa gạo thế giới năm 1998 đến nay 2
2. Xuất nhập khẩu gạo thế giới 3
2.1. Nhập khẩu 3
2.2. Xuất khẩu 4
3. Triển vọng thị trường gạo thế giới trong năm 2002 5
3.1. Các nước xuất khẩu gạo.
3.2. Các nước nhập khẩu.
3.3. Mậu dịch
3.4 Giá cả
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM TỪ NĂM 2000 ĐẾN NAY 5
1. Tình hình chung 5
1.1. Giá cả 6
1.2. Cơ cấu xuất khẩu gạo năm 2000. 7
1.3. Xuất khẩu gạo Việt Nam năm 2001. 8
1.4. Thị trường xuất khẩu 8
2. Khó khăn của Việt Nam trong xuất khẩu gạo và nguyên nhân. 9
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP. 11
1. Giải pháp nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu 11
2. Giải pháp về thị trường xuất khẩu 12
3. Các giải pháp khác. 13
KẾT LUẬN 14



×