Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Xuất khẩu mặt hàng gạo. Thực trạng và giải pháp.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.22 KB, 17 trang )

Tiểu luận Ngoại thương
LỜI MỞ ĐẦU
Gạo là một trong những mặt hàng thuộc nhóm hàng lương thực, được sản
xuất và tiêu dùng chủ yếu ở Châu Á. Cũng như các mặt hàng lương thực khác,
Chính phủ các nước luôn có chính sách và khuyến khích tăng cung trong nước
để đảm bảo an ninh lương thực. Do vậy, khối lượng gạo trao đổi chiếm khoảng 6
– 7% so với sản lượng sản xuất của thế giới. Trong thương mại thế giới, khối
lượng và giá trị buôn bán mặt hàng gạo ở mức tương đương với lúa mì và chiếm
tỷ trọng nhỏ so với tổng giá trị thương mại hàng hóa.
Sản xuất lúa gạo ở Việt Nam kể từ khi thực hiện chính sách đổi mới, sản
lượng lúa gạo đã gia tăng nhanh chóng. Trong 10 năm (1991 – 2001), bình quân
diện tích tăng 1,73%/năm, năng suất tăng 3,2%/năm và sản lượng tăng 5%/năm.
Việt Nam từ một nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu
thế giới, chiếm khoảng 17% lượng gạo xuất khẩu toàn cầu. Hiện nay, theo mức
kim ngạch xuất khẩu, gạo được xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam với giá trị xuất khẩu năm 2002 đạt 726 triệu USD, tăng hơn 3
lần so với năm 1991 và chiếm 4,4% tổng giá trị xuất khẩu (kể cả xuất khẩu dầu
thô).
Tuy nhiên, sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ở Việt Nam vẫn chưa hoàn toàn
là một lựa chọn hướng về xuất khẩu. Dư cung gạo không phải bắt nguồn từ yêu
cầu tăng cường xuất khẩu mà chủ yếu từ chính sách an ninh lương thực. Do vậy
trong sản xuất lúa gạo từ trước đến nay, Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng đến
năng suất mà ít quan tâm đến các giống gạo ngon có giá trị xuất khẩu cao
(những giống gạo thường cho năng suất thấp).
Căn cứ vào tình hình và yêu cầu thực tiễn, việc khai thác triệt để
hơn nữa những tiềm năng to lớn của đất nước trong sản xuất cũng như tìm kiếm
cách thức tiếp cận thị trường, giữ vững và phát triển thị phần mặt hàng gạo có
hiệu qủa tối ưu luôn là vấn đề đòi hỏi sự nghiên cứu và giải quyết.
1
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
1


Tiểu luận Ngoại thương
Chính vì vậy, em đã chọn đề tài “Xuất khẩu mặt hàng gạo. Thực trạng
và giải pháp" làm đề tài tiểu luận của mình.
2
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
2
Tiểu luận Ngoại thương
I. TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG GẠO THẾ GIỚI
1. Tổng quan tình hình sản xuất lúa gạo thế giới năm 1998 đến nay
Hiện tượng khí hậu elninô năm 1998 đã làm cho nhiều nước mất mùa và
phải tăng nhập khẩu gạo, điều này làm cho mậu dịch gạo thế giới tăng đến mức
kỷ lục 25,7 triệu tấn. Nhưng qua năm 1999 do nhiều nước được mùa làm cho
mậu dịch gạo thế giới giảm còn 21,8 triệu. Năm 2000 là một năm sóng gió trên
thị trường gạo thế giới với nhu cầu đặc biệt thấp, giá gạo giảm. Nhu cầu nhập
khẩu gạo của các nước lớn như Inđônêxia, Philipin, Bănglađet, Braxin… hạn
chế bởi sản lượng gạo của các nước này đang phục hồi sau 2 năm mất mùa vìe
biến động của thời tiết.
Năm 2000 tuy có thiên tai xảy ra ở các nước sản xuất gạo như lũ lụt tại các
miền nam Ấn Độ, lũ lụt tại đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, hạn hán tại
Trung Quốc, lũ lụt và bão nhiệt đới tại Đông Bắc Thái Lan. Mặc dù thiên tai gây
ảnh hưởng tới sản lượng gạo của một số nước nhưng nhìn chung sản lượng thế
giới vẫn tăng, giá gạo vẫn liên tục giảm. Ngoài Thái Lan và Việt Nam, Trung
Quốc nổi lên là một đối thủ cạnh tranh đáng gờm. Với ưu thế giá gạo ra và chất
lượng ngày được một cải thiện, gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường
châu Phi và Nhật Bản.
Năm 2001 theo dự báo của Bộ nông nghiệp Mỹ USDA sản lượng gọa thế
giới giảm 8,66 triệu tấn (2,12%) so với năm 2000. Trong đó sản lượng giảm
nhiều nhất dự đoán ở Trung Quốc giảm 5,94 triệu tấn vằ ở Ấn Độ giảm 4 triệu
tấn. Nhu cầu tiêu thụ gạo thế giới năm 20021 dự báo sẽ giữ gần như năm trước
cao hơn hẳn sản lượng 3,6 triệu tấn.

Cũng theo USDA sản lượng gạo thế giới vụ 2001/2002 giảm 1,27 triệu tấn
so với dự đoán của tháng 8 còn 394,44 triệu tấn chủ yếu do dự kiến sản lượng
gạo giảm tại Trung Quốc và Ai Cập tuy rằng sản lượng của Mỹ, Ấn Độ và
Ôxtrâylia tăng. Tiêu thụ gạo sẽ ở mức 404,8 triệu tấn (giảm hơn 1 triệu tấn so
với dự báo hồi tháng 8). Tồn kho gạo thế giới vào cuối vụ sẽ còn 127,23 triệu
tấn.
3
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
3
Tiểu luận Ngoại thương
Tiêu thụ gạo thế giới năm 2001 sẽ đạt mức kỷ lục 403,54 triệu tấn, nước
tiêu thụ gạo lớn nhất thế giới là Trung Quốc 136,75 triệu tấn, tiếp đến là Ấn Độ
87 triệu tấn, Inđônêxia 36,6 triệu tấn. Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất
thế giới nhưng sản lượng gạo cũng chỉ ở mức 16,7 triệu tấn và tiêu thụ 10% triệu
tấn.
2. Xuất nhập khẩu gạo thế giới
2.1. Nhập khẩu: Theo dự báo của USD năm 2001 nhu cầu nhập khẩu gạo
của thế giới tăng 1,2% (270.000 tấn) so với năm 2000. Trong đó nhập khẩu gạo
dự đoán sẽ tăng mạnh nhất Ơiran tăng 300.000 tấn, tiếp đến là CHDCND Triều
Tiên tăng 150.000 tấn. Về khu vực dự đoán sẽ tăng chủ yếu ở Trung Đông, Châu
Phi nhưng tiếp tục giảm ở Châu Á, tuy vậy các quốc gia Châu Á vẫn là nước
nhập khẩu gạo nhiều nhất chiếm 49% tổng nhập khẩu hoàn toàn thế giới, năm
2001 nhập khẩu gạo Châu Á giảm do nước nhập khẩu lớn nhất của Châu Á là
Inđônêxia giảm lượng nhập.
Năm 2001 Inđônêxia giảm nhập khẩu gạo bởi những lý do sau: Diện tích
trồng lúa của nước này tăng 2,85% so với năm 2000 lên 11,4 triệu tấn ha. Đây
chính là nguyên nhân chủ yếu làm cho sản lượng thóc gạo của Inđônêxia tăng
cao đạt ở mức 53,8 triệu tấn thóc tương đương với 35,8 triệu tấn gạo tăng 1,3
triệu tấn thóc so với năm 2000 vì thế nên năm 2001 Inđônêxia giảm lượng gạo
nhập khẩu xuống ở mức 0,7 triệu tấn so với 1,8 triệu tấn năm 2000.

Trung Đông tăng lượng nhập khẩu gạo bởi nhu cầu dùng gạo ở những
nước này tăng mà khả năng sản xuất ở những nước này bị hạn chế, như trường
hợp Saudi Arabia do ngày càng sử dụng nhiều lao động từ các nước Châu Á
quen ăn cơm nên nước này có thể tăng nhập khẩu gạo.
Châu Phi cũng sẽ tăng nhập khẩu gạo do các nước này phải dỡ bỏ bớt các
rào cản về thuế quan trong năm nay. Theo dự báo của tổ chức nông lương Liên
Hợp Quốc thì từ năm 1999 - 2005 nhu cầu nhập khẩu gạo của các nước Châu
Phi sẽ tăng 30%
4
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
4
Tiểu luận Ngoại thương
2.2. Xuất khẩu:
Cũng theo dự báo của FAO năm 2001 xuất khẩu gạo thế giới sẽ đạt 22,3
triệu tấn giảm 0,7 triệu tấn so với năm 2000. Thái Lan, Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ,
Trung Quốc, Pakistan, tiếp tục là những nhà cung cấp gạo chính cho thế giới,
ngoài ra còn xuất hiện những nhà cung cấp gạo khác như Myanma, Cămpuchia
và một số nước Châu Mỹ la tinh/
Thái Lan: Sản xuất lúa gạo Thái Lan năm 2001 ước đạt 24,13 triệu tấn
thóc (16,7 triệu tấn gạo) giảm 34000 tấn so với năm 2000 tiêu thụ trong nước 10
triệu tấn gạo. Nhìn lại thành tích xuất khẩu gạo năm 2000 của Thái Lan thì đã
vượt quá mục tiêu do chính phủ đề ra về số lượng và giá trị. Lượng gạo xuất
khẩu của Thái Lan năm 2000 đạt 6,61 triệu tấn trị giá 68 tỷ Baht (1,74 tỷ USD)
vượt 10% so với mục tiêu về số lượng đề ra (6 triệu tấn) và vượt 13% mục tiêu
về giá trị đề ra (1,55 tỷ USD). Đó là nhờ sự tăng trưởng xuất khẩu gạo của nước
này sang thị trường chính như Nigiêria, Iran, Sengegal, Namphi.
Năm 2001 Thái Lan cũng đặt ra mục tiêu xuất khẩu 6 triệu tấn gạo, nhưng
đến ngày 11/9/2001 Thái Lan đã xuất khẩu được 4,64 triệu tấn tăng 15% so với
cùng kỳ năm trước ước tính đến hết
3. Triển vọng thị trường gạo thế giới trong năm 2002

3.1. Các nước xuất khẩu gạo.
Mỹ: xuất khẩu gạo của Mỹ năm 2002 dự kiến đạt 2,6 triệu tấn, giảm 50.000
tấn so với năm 2001, sản lượng đạt 8,8 triệu tấn tăng 140.000 tấn. Mặc dù sản
xuất gạo tăng nhưng vì giá gạo Mỹ không có sức cạnh tranh nên tổng lượng gạo
xuất khẩu dự kiến giảm.
Thái Lan: xuất khẩu gạo của Thái Lan theo dự báo mới nhất là 7 triệu tấn
vào năm 2002.
Việt Nam: xuất khẩu gạo của Việt Nam dự báo có thể đạt 4,3 triệu tấn vào
năm 2002 do dự báo sản lượng thóc của Việt Nam tăng 300.000 tấn so với 31,8
triệu tấn của năm 2001.
5
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
5
Tiểu luận Ngoại thương
Trung Quốc có thể xuất khẩu 2 triệu tấn gạo vào năm 2002, cao hơn
200.000 tấn so với năn 2001, sản lượng gạo của Trung Quốc giảm nên lượng tồn
kho có thể chỉ còn 7,6 triệu tấn.
Ấn Độ: xuất khẩu gạo của ấn độ sẽ tăng nhẹ so với mức 1 triệu tấn của năm
nay, do sản lượng thóc năm 2002 của ấn độ có thể vẫn vượt tiêu thụ kết quả là
năm thứ tư liên tiếp tồn kho gạo của ấn độ tăng, hơn nữa nhờ sức cạnh tranh về
giá cả của gạo ấn độ tăng lên và nhu cầu tăng lên từ Băngladet thị trường lớn
nhất của ấn độ.
Pakistan xuất khẩu gạo dự kiến giảm so với mức 2,25 triệu tấn năm nay, vì
sản lượng thóc có khả năng giảm 300.000 tấn, nên lượng gạo xuất khẩu dự kiến
chỉ đạt 2 triệu tấn.
Achentina và Urugoay dự kiến sẽ giảm xuất khẩu lần lượt còn 250.000 và
650.000 tấn, do sản lượng ở trong nước giảm và nhu cầu nhập khẩu ở Châu Mỹ
la tinh giảm nhẹ.
Ai Cập: mặc dù sản lượng dự kiến bình ổn, song xuất khẩu từ Ai Cập có
thể tăng 25.000 tấn đạt 525.000 tấn, vì giá gạo của Ai Cập rất có sức cạnh tranh

đặc biệt là ở Thỗ Nhĩ Kỳ.
Mianma: xuất khẩu của Mianma có thể giảm vì các chính sách xuất khẩu
và định giá của chính phủ chậm hơn những thay đổi trên thị trường toàn cầu.
3.2. Các nước nhập khẩu.
Bắc Mỹ: dự kiến nhập khẩu 315000 tấn gạo vào năm 2002 tăng 5000 tấn so
với năm 2001 vì tiêu thụ gạo thơm và các loại gạo đặc biệt tiếp tục tăng, tổng
nhập khẩu vào Mêhico vẫn ổn định ở mức 425.000 tấn vì nhập khẩu gạo thô vẫn
cao để cung cấp cho ngành xay xát của nước này.
Mỹ la tinh: nhập khẩu vào toàn khu vực dự kiến giảm hơn 100.000 tấn mặc
dù sản lượng thóc ổn định. Riêng nhập khẩu vào Braxin vẫn bình ổn ở mức
500.000 tấn.
6
Nguyễn Thị Vân Dung - 738
6

×