Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam- Thực trạng và giải pháp.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.22 KB, 49 trang )

MỞ ĐẦU
Năm 2007, một năm sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ
150 của WTO đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt
Nam nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Giá trị sản xuất toàn
ngành tăng một cách nhanh chóng, xuất khẩu hàng dệt may vượt qua dầu
thô vươn lên vị trí số 1trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Một năm
dệt may Việt Nam bước ra biển lớn, có điều kiện cạnh tranh một cách công
bằng với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác đã đưa Việt Nam vào top 10
nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Đồng thời, cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam
cũng có nhiều chuyển biến. Thị trường xuất khẩu chủ lực là ba thị trường:
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ngoài ra, dệt may Việt Nam cũng đã mở rộng thị
trường sang khu vực châu Phi, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, châu Đại Dương, Đông
Nam Á, Ukraina,… Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng
dệt may Việt Nam là cần thiết và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
thế giới. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu thị trường
xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam- Thực trạng và
giải pháp”. Mục đích nghiên cứu nhằm xác định cơ cấu thị trường xuất
khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
tổng hợp, phân tích, và đưa ra các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu thị
trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu theo hướng có lợi nhất cho
hàng dệt may xuất khẩu, tận dụng tối đa các lợi thế mà Việt Nam vốn có
như: sản phẩm, uy tín, quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế quốc tế…Từ
đó, giúp dệt may Việt Nam tránh và giảm bớt những tác động do khó khăn
trên thị trường thế giới nói chung và tại các thị trường chủ lực nói riêng
mang lại.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của GS-TS Đặng
Đình Đào đã giúp em nhận thức vấn đề một cách rõ ràng hơn và hoàn
thành Đề án này. Trong bài viết của em còn nhiều thiếu sót do chưa có
kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để em có thể
hoàn thiện Đề án hơn nữa.



1
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU VÀ CƠ CẤU
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM
I. THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1. KHÁI NIỆM
Xuất khẩu là một hoạt động ngoại thương giữa các nước và vùng lãnh
thổ, trong đó hàng hóa và dịch vụ được bán cho nước khác nhằm mục đích
thu ngoại tệ.
Xuất khẩu hàng dệt may là một bộ phận của hoạt động xuất khẩu,
trong đó hàng dệt may được bán cho nước khác nhằm thu ngoại tệ.
Hàng dệt may là một trong những mặt hàng đầu tiên tham gia vào lĩnh
vực thương mại quốc tế, do đặc điểm của ngành cũng như do như do nhu
cầu của người dân trên thế giới về mặt hàng này. Ngành công nghiệp dệt là
ngành đầu tiên được cơ khí hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa trên thế giới.
Việc thực hiện các hoạt động xuát khẩu sẽ giúp cho các doanh nghiệp kinh
doanh hàng may mặc có thể phát huy được các lợi thế và khả năng vượt trội
của họ. Mặt khác, tăng cường xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp giảm được chi
phí trên một đơn vị sản phẩm do khối lượng sản xuất gia tăng, doanh thu từ
hoạt động xuất khẩu cũng cao hơn do đồng ngoại tệ có giá cao hơn đồng nội
tệ, từ đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp .
Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam là các nước và vùng
lãnh thổ có hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với 140 quốc gia , hàng dệt may của Việt Nam đã có mặt
tại 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hàng dệt may Việt Nam đã và đang có
một thị trường xuất khẩu rộng lớn, vấn đề quan trọng của chúng ta hiện nay
là cần có một cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may hợp lý và khoa
học để có thế phát huy hết lợi thế và khả năng vượt trội của Việt Nam. Hoạt

động xuất khẩu dệt may là hoạt động xuất khẩu chủ lực của Việt Nam mang
2
lại những lợi ích rất to lớn, đặc biệt là với một nước đang phát triển như
nước ta.
2. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU DỆT MAY
Dệt may là mặt hàng chủ lực trong chiến lược xuất khẩu của nước ta,
là mặt hàng mà chúng ta có nhiều thế mạnh ( năm 2007, xuất khẩu dệt may
vươn lên vị trí số 1 về xuất khẩu ). Vai trò của việc xuất khẩu hàng dệt may
với một nước đang phát triển như nước ta là rất to lớn và không thể phủ
nhận, cụ thể là:
Xuất khẩu hàng dệt may góp phần tạo nguồn vốn cho công nghiệp hóa-
hiện đại hóa ở nước ta

Công nghiệp hóa-hiện đại hóa là một bước đi tất yếu để phát triển
kinh tế đất nước, đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Sự nghiệp
công nghiệp hóa-hiện đại hóa đòi hỏi một lượng vốn rất lớn để phát triển cơ
sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật và nhập khẩu những máy móc, thiết bị hiện đại.
Nguồn vốn chủ yếu xuất phát từ bản thân nền kinh tế, nhưng cũng có thể lấy
từ các nguồn viện trợ hay đi vay…Tuy nhiên, các nguồn viện trợ hay đi
vay… thường rất khó khăn và đòi hỏi phải hoàn trả sau thời gian nhất định.
Đối với một nền kinh tế bất kỳ, nguồn vốn chủ yếu và quan trọng nhất là
nguồn vốn có được từ xuất khẩu.
Từ nhiều năm nay, hàng dệt may luôn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực
của nước ta và trong những năm gần đây kim ngạch xuất khẩu dệt may luôn
đứng ở vị trí thứ hai trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp
một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế đất nước và tạo ra một vốn
lớn( ngoại tệ) để đầu tư vào trang thiết bị máy móc và xây dựng cơ sở hạ
tầng quốc gia. Đặc biệt, trong năm 2007 hàng dệt may xuất khẩu vươn lên vị
trí số 1 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Có thể thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng

nhanh trong những năm gần đây, đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại
Việt-Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2002 và sự kiện Việt Nam chính thức là thành
viên thứ 150 của WTO vào năm 2007. Điều đó khẳng định vai trò ngày càng
to lớn của xuất khẩu dệt may nước ta.

3
Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam những năm
gần đây
Chỉ
tiêu
Đ
v tính 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tổng
KNXU
ấT
KHẩU
Triệu
USD 14482.2 15029.2 16706.1 20149.3 26485.0 32447.1 39826.2 48464.0
Dệt
may
Triệu
USD 1891.9 1975.4 2732.0 3609.0 4429.8 4772.4 5834.4 7832.0
* Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam


Sự phát triển của ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu
sẽ thúc đẩy các ngành liên quan phát triển theo
Ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu nằm trong mối
quan hệ tương hỗ với nhiều ngành khác như: cơ khí, chế tạo máy, vận tải
đường biển, nông nghiệp, in, nhuộm, sản xuất nhựa polyme để bao gói sản

phẩm…Đầu tiên phải nhắc đến việc sản xuất các nguyên phụ liệu như bông,
vải sợi, tơ, …Hiện nay, dù sản xuất nhiều hàng dệt may nhưng nước ta đã và
đang phải nhập khẩu khoảng 70% nhu cầu về nguyên phụ liệu, do vậy, khi
xuất khẩu dệt may càng phát triển chúng ta càng phải cố gắng chủ động về
nguồn nguyên phụ liệu cho sản xuất, từ đó làm tăng giá trị của sản phẩm.
Mặt khác, để phục vụ cho sản xuất ngày càng phát triển thì càng cần
nhiều những máy móc, thiết bị tiên tiến để phục vụ cho việc sản xuất ra
những sản phẩm có chất lượng cao mà chi phí cho phế liệu, phế phẩm ngày
càng thấp. Từ đó, kéo theo sự phát triển của các ngành cơ khí, chế tạo máy.
Hàng dệt may xuất khẩu của nước ta thường xuất khẩu với số lượng lớn, nên
thường chọn vận tải bằng đường biển vì chi phí thấp và có thể vận chuyển
những khối lượng hàng hóa lớn . Vì vậy, mà ngành hàng hải cũng sẽ có
nhiều điều kiện phát triển hơn.
4
Góp phần giải quyết công việc cho người dân và cải thiện đời sống
nhân dân
Ngành dệt may là ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân lực, cần rất nhiều
những lao động khéo léo và cần cù, mà không đòi hỏi nhiều về trình độ.
Điều này rất phù hợp với đặc điểm của lao động Việt Nam, đặc biệt là lao
động nữ. Số lượng lao động nữ làm việc tại các doanh nghiệp dệt may
thương chiếm trên 80%. Sự tăng nhanh chóng của kim ngạch dệt may xuất
khẩu đã tạo ra một khối lượng việc làm khổng lồ cho nước ta, chủ yếu là cho
những lao động giản đơn ở khu vực nông thôn. Nhiều người lao động có
việc làm, có thu nhập ổn định, từ đó góp phần nâng cao đời sống nhân dân
và giảm bớt được các tệ nạn xã hội.
Xuất khẩu hàng may mặc phát triển tạo điều kiện mở rộng và thúc đẩy
các quan hệ kinh tế đối ngoại
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế có tác động qua lại, phụ thuộc vào
nhau, xuất khẩu cũng chính là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Hiện nay,
hàng dệt may của Việt Nam có mặt tại hơn 170 quốc gia và vùng lãnh thổ,

do vậy, việc thúc đẩy xuất khẩu dệt may phát triển cũng đồng thời thúc đẩy
các quan hệ kinh tế đối ngoại phát triển. Để có thể xuất khẩu được thuận lợi
và cạnh tranh với các đối thủ khác, giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ có xu
hướng kí kết các Hiệp định, Nghị định thư…với các ưu đãi giành cho nhau.
Từ đó các quan hệ kinh tế đối ngoại không ngừng được mở rộng và phát
triển.
II. CƠ CẤU HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU VÀ THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1. CƠ CẤU HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU
Nhu cầu về “mặc” là nhu cầu thiết yếu và không thể thay thế được của
con người. Nhu cầu của người tiêu dùng hiện nay là “mặc đẹp” do đó họ có
nhiều yêu cầu khác nhau về loại sản phẩm này. Các yêu cầu phong phú và đa
dạng về chủng loại và chất liệu, tùy thuộc vào đặc điểm về văn hóa, phong
tục tập quán, tôn giáo, khí hậu, tuổi tác, giới tính,…Điều này làm cho cơ cấu
hàng dệt may xuất khẩu rất đa dạng và phong phú về chủng loại phù hợp với
các yêu cầu khác nhau.
5
Trong những năm gần đây, các chủng loại hàng dệt may xuất khẩu chủ yếu
của nước ta là: thứ nhất là áo thun( tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007
là 19.74%), thứ hai là quần dài(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007
là17.37%), thứ ba là áo jacket(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là
14.40%), thứ tư là áo sơ mi(tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu năm 2007 là
5.98%). Ngoài ra, còn rất nhiều các chủng loại khác như: áo khoác(4.73%),
váy(4.13%), vải(3.82%), quần áo trẻ em(3.34%), đồ lót(2.62%), quần áo
vest(1.60%), quần áo thể thao(1.33%)…Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu các
mặt hàng hầu hết đều tăng, số lượng thị trường và doanh nghiệp xuất khẩu
hầu hết các mặt hàng tăng mạnh so với năm 2006.
2. CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM
Năm 2007, đánh dấu bước chuyển mạnh mẽ của cả nền kinh tế nói

chung và dệt may Việt Nam nói riêng. Kim ngạch xuất khẩu dệt may đã
vươn lên vị trí số 1 sau nhiều năm đứng sau dầu thô. Kể từ khi Hiệp định
thương mại Việt Hoa Kỳ có hiệu lực năm 2002 đến năm 2007 là năm Việt
Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO, kim ngạch xuất khẩu của
dệt may Việt Nam không ngừng gia tăng một cách nhanh chóng.
Thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam không ngừng được
mở rộng và gia tăng giá trị. Các thị trường xuất khẩu chủ lực của dệt may
Việt Nam là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ngoài ra, còn các thị trường khác như:
Đài Loan, Hàn Quốc, Canada, Nga, Nam Phi, Thổ Nhĩ Kỳ…
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta tăng mạnh
chủ yếu do xuất khẩu sang Hoa Kỳ bứt phá mạnh mẽ. Theo số liệu thống kê,
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm đạt 4,47 tỷ
USD, tăng 46,65% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức tăng 16,97%
của năm 2006. Trong 3 thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt
Nam năm 2007, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt mức tăng
trưởng cao nhất. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Hoa Kỳ
tăng từ 52,18% trong năm 2006 lên 57,39% trong năm 2007. Điều này
khẳng định, thị trường Hoa Kỳ đóng vai trò rất to lớn đến sự phát triển của
ngành công nghiệp dệt may nước ta.
EU là thị trường lớn thứ 2 đối với xuất khẩu hàng dệt may nước ta.
Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt 1,5 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu sang EU đạt 19,74%, thấp hơn so với mức 37,46% của
6
năm 2006 nên tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu sang EU giảm từ 21,32% của
năm 2006 xuống 19,14% trong năm 2007.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Nhật Bản năm
2007 tăng 12,14% so với năm 2006, cao hơn nhiều so với mức 3,93% của
năm 2006. Giá trị hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đạt 700
triệu USD. Hiện tại, Nhật Bản là thị trường lớn thứ 3, chiếm 9,05% tỷ trọng
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta, giảm so với tỷ trọng năm

2006 là 10,76%.
Như vậy, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may nước ta vào
ba thị trường chủ lực là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản chiếm 85% tổng kim ngạch
xuất khẩu của hàng dệt may. Điều đó cho thấy, rất nhiều thị trường khác đã
được phát hiện nhưng phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có như:
Nga, châu Phi, châu Đại Dương…
2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
Có thể coi 2007 là năm kỳ tích đối với ngành dệt may Việt Nam, lần
đầu tiên vượt qua dầu thô trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất, ước đạt 7,8 tỷ USD, tăng 31% so với năm 2006. Thành tích này đã đưa
Việt Nam từ thứ 16 lên top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn
nhất thế giới.
Đáng trân trọng hơn, những kết quả nói trên lại đạt được trong bối
cảnh không thuận lợi, có rất nhiều áp lực, sóng gió từ thị trường nước ngoài
đối với dệt may Việt Nam. Đầu tiên phải kể đến thị trường Hoa Kỳ, chiếm
khoảng 55% kim ngạch xuất khẩu nước ta, vì thế, động thái của thị trường
này ảnh hưởng mạnh mẽ và tức thì đến kế hoạch xuất khẩu dệt may. Ngay
sau Quốc hội Hoa Kỳ thông qua PNTR tháng 11/2006, đồng nghĩa với xoá
bỏ hạn ngạch dệt - may cho Việt Nam thì Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) đã
đặt ra yêu cầu giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam 6 tháng 1 lần.

Qui định này làm cho nhiều nhà nhập khẩu Hoa Kỳ lo ngại, quả bóng
của “chương trình giám sát” có thể nổ bất cứ lúc nào. Cơ chế giám sát này
còn được duy trì đến hết năm 2008. Điều lo ngại nhất của cơ chế giám sát là
giành cho DOC quyền được tự khởi động điều tra chống bán phá giá mà
không cần tham vấn bên phía Việt Nam. Hơn nữa, thời điểm công bố kết quả
giám sát lại kéo quá dài. Thí dụ, chương trình giám sát hàng dệt may nước ta
7
xuất khẩu vào Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2007, đã được phía Hoa Kỳ

đánh giá sơ bộ vào 1/7/2007. Thế nhưng, mãi đến 26/10/2007, DOC mới
công bố quyết định “không tiến hành tự khởi động điều tra chống bán phá
giá đối với 5 nhóm hàng: quần, áo sơ mi, đồ chơi, đồ lót, áo len”. Do đó,
trong khoảng thời gian từ 1/1/2007 đến 26/10/2007, cả nhà nhập khẩu Hoa
Kỳ và nhà xuất khẩu Việt Nam đều vừa làm, vừa ngóng.
Thực tế, đã có những phần đơn hàng được nhà nhập khẩu tách ra, dịch
chuyển sang thị trường lân cận để phân tán rủi ro. Cho đến nay, DOC vẫn
chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tiêu cực của cơ
chế giám sát này, như: không giảm bớt số mặt hàng giám sát, không nêu các
tiêu chí, điều kiện làm cơ sở tự khởi kiện điều tra v.v...
Thị trường lớn thứ 2 là EU, chiếm 18% kim ngạch xuất khẩu dệt may
nước ta, cũng sẵn sàng sử dụng biện pháp tự vệ để hạn chế nhập khẩu. Một
yếu tố khác là ngày càng có nhiều sản phẩm dệt may của Trung Quốc bị từ
chối hoặc đòi bồi thường vì không đảm bảo các tiêu chí về an toàn sức khoẻ
và môi trường. Do đó, hàng dệt may những nước đang phát triển như Việt
Nam, cũng nằm trong “tầm ngắm” của EU.
Thị trường lớn thứ 3 là Nhật Bản, chiếm tỷ trọng 10%. Hiện Việt Nam
là nhà xuất khẩu dệt may vào Nhật Bản lớn nhất khối ASEAN, chiếm 34%.
Nhưng, khó khăn nhất là đến nay, Nhật Bản đã giảm thuế suất xuống 0%
cho Xin-ga-po, Ma-lai-xia, In-đô-nê-xia, Bru-nây, Thái-lan vì các bên đã đạt
được thoả thuận tiêu chí xuất xứ (xuất xứ cộng gộp từ Nhật và ASEAN đạt
40%), trong khi đó, hàng dệt may Việt Nam vẫn bị đánh thuế do 80% nguồn
nguyên phụ liệu nhập khẩu ngoài ASEAN và Nhật Bản.
Ngoài những khó khăn về thị trường nước ngoài, ngành dệt may nước
ta còn chịu nhiều áp lực khác. Cụ thể là các mặt hàng nông sản và dầu thô
nước ta có xu hướng giảm sản lượng xuất khẩu do khan hiếm nguồn cung.
Vì thế, gánh nặng xuất khẩu nói chung, dồn sang vai những mặt hàng công
nghiệp chủ lực, trong đó có dệt may. Do đó, bên cạnh việc thực hiện các
biện pháp ứng phó với những khó khăn tại các thị trường chủ lực, ngành dệt
may cần có các giải pháp để hướng thị trường của hàng dệt may xuất khẩu

Việt Nam sang các quốc gia có nhiều tiềm năng nhập khẩu hàng dệt may
khác, tránh tình trạng quá phụ thuộc và khi một trong các thị trường chủ lực
gặp vấn đề sẽ có ảnh hưởng xấu tới toàn ngành.
8
II. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ
TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1.MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ
2.1 Nhân tố chính trị, pháp luật
Các nhân tố thuộc về môi trường chính trị, pháp luật là những điều
kiện tiền đề ngoài kinh tế có tác động mạnh mẽ đến mở rộng hay kìm hãm
sự phát triển cũng như khai thác các cơ hội kinh doanh xuất khẩu của các
doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.
Để hòa nhập với nền kinh tế thế giới và khẳng định nền kinh tế thị
trường của Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương và chính
sách nhằm cải thiện môi trường pháp lý và tăng cường các mối quan hệ quốc
tế. Chủ trương hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi trong các quan hệ kinh tế
quốc tế và tôn trọng quyền tự chủ của mỗi quốc gia đã giúp Việt Nam có
quan hệ ngoại giao với hơn 140 nước thuộc các châu lục khác nhau trên thế
giới. Các mối quan hệ ngoại giao này tạo điều kiện thuận lợi cho việc hợp
tác, liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh và xuất khẩu giữa Việt Nam với
các nước, tạo ra cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu dệt may nước
ta nhiều cơ hội đầy triển vọng.
Hệ thống pháp luật của nước ta hiện nay chưa hoàn thiện và những
quy định, chính sách trong quan hệ kinh tế đối ngoại lại liên tục thay đổi;
thêm vào đó là những thủ tục hành chính rườm rà trong việc thực hiện các
hoạt động xuất khẩu đã gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp trong
việc tận dụng và phát triển các cơ hội kinh doanh trên trường quốc tế.
Hiện nay, Nhà nước ta đã có những thay đổi trong chính sách nhằm
khuyến khích xuất khẩu cũng như các chính sách trong việc định hướng hoạt
động xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu hàng dệt may. Một điểm đáng lưu ý về

thị trường xuất khẩu hàng dệt may là các quốc gia có xu hướng bảo hộ trị
trường trong nước bằng các biện pháp phòng vệ theo quy định của WTO và
xây dựng các hàng rào mang tính kỹ thuật, môi trường ngày càng cao. Nhằm
giúp đỡ các doanh nghiệp xuất khẩu, Chính phủ đã có nhiều biện pháp để
các doanh nghiệp không mắc vào các vụ kiện bán phá giá và bị nước sở tại
kiểm soát hàng dệt may xuất khẩu của nước ta. Chính phủ tăng các hoạt
9
động ngoại giao, xúc tiến thương mại, hướng dẫn các doanh nghiệp hiểu và
thực hiện đúng các quy định của nước sở tại, mặt khác tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp đầu tư mở rộng sản xuất… Nhờ vậy, kim ngạch
xuất khẩu những năm gần đây đã đạt những thành tích đáng khích lệ, đặc
biệt là trong năm 2007.
2.2 Tình hình ngoại thương và các chế định có liên quan
Trong những năm vừa qua, tình hình xuất nhập khẩu của nước ta diễn
ra khá nhộn nhịp và thu hút nhiều sự quan tâm của người dân cũng như các
chuyên gia và cả Chính phủ. Cán cân thương mại tiếp tục âm, nhập siêu gia
tăng, đòi hỏi nước ta phải tiếp tục gia tăng xuất khẩu và giảm nhập khẩu. Dệt
may sẽ là mặt hàng xuất khẩu chủ lực đứng ở vị trí số 1 và tiếp tục được
thúc đẩy để phát triển, trong khi đó thì xuất khẩu dầu thô và than đá( nhóm
ngành nguyên nhiên liệu) sẽ tiếp tục giảm kim ngạch xuất khẩu. Theo đó,
dệt may Việt Nam cần tiếp tục tăng xuất khẩu và gia tăng giá trị của sản
phẩm, tiếp tục mở rộng các thị trường mới và nâng cao thị phần tại các thị
trường quen thuộc.
Các chế định có liên quan như chính sách thuế, các hàng rào phi thuế
quan, chính sách tỉ giá hối đoái, cán cân thương mại quốc tế… Những vấn
đề này đặc biệt quan trọng với các mặt hàng xuất khẩu, đặc biệt là với mặt
hàng nhạy cảm như hàng dệt may xuất khẩu. Chẳng hạn, chính sách duy trì
đồng nội tệ ở mức quá cao có thể sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp
sản xuất hàng dệt may xuất khẩu, hạn chế khả năng cạnh tranh của hàng dệt
may nước ta.

2.MÔI TRƯỜNG VI MÔ
2.1 Năng lực về vốn, công nghệ và nguồn nhân lực
Muốn tiến hành bất cứ công việc gì thì yếu tố đầu tiên có vai trò quan
trọng nhất là con người hay nguồn nhân lực, sau đó đến vốn và những thiết
bị, công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh. Đặc biệt, trong kinh doanh hàng
dệt may xuất khẩu, những yếu tố này là vũ khí sắc bén thể hiện khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp trên trường quốc tế và là một trong những yếu
tố quan trọng ảnh hưởng đến chiến lược và thời cơ xuất khẩu.
10
Nền kinh tế mở khiến các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất
khẩu phải tạo ra được những sản phẩm có chất lượng cao nhưng giá thành
lại thấp mới có khả năng cạnh tranh. Do vậy, các doanh nghiệp kinh doanh
xuất khẩu dệt may phải luôn nhạy bén, linh hoạt và cần chú trọng đầu tư vào
vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực lành nghề, có trình độ để phục vụ
sản xuất và xuất khẩu.
Có vốn, hoạt động sản xuất và kinh doanh được mở rộng, các nguồn
hàng cho xuất khẩu phong phú, đa dạng hơn, chất lượng cao hơn đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của khách hàng. Ứng dụng các thành tựu của khoa học công
nghệ sẽ làm tăng năng suất và chất lượng của hàng dệt may xuất khẩu. Công
tác đàm phán, giao dịch với khách hàng cũng nhanh chóng, thuận lợi hơn
khi công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Từ đó, thị trường xuất khẩu sẽ
được mở rộng sang các nước và khối nước có nhu cầu cao về hàng dệt may
của chúng ta mà trước kia chúng ta không vào được.
Nguồn nhân lực là yếu tố trọng tâm thực hiện hoạt động sản xuất và
xuất khẩu hàng dệt may xuất khẩu. Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, giá
nhân công rẻ, người lao động có tính khéo léo, cần cù, chịu khó và có khả
năng nắm bắt nhanh những tiến bộ khoa học công nghệ.
2.2 Đối thủ cạnh tranh
Nền kinh tế tăng trưởng cao, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may
không ngừng gia tăng qua từng năm, điều đó cho thấy sự phát triển thuận lợi

của ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Hiện nay, nước ta
ngày càng xuất hiện nhiều hơn các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
sản xuất hàng dệt may xuất khẩu. Điều này tạo ra một môi trường kinh
doanh bên trong khá mạnh mẽ, cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn để giành
đơn hàng, phát hiện và mở rộng các thị trường mới, thị phần tại các thị
trường quen thuộc cũng phải chia sẻ. Các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực sản xuất hàng dệt may xuất khẩu phải không ngừng hoàn thiện hơn
nữa các sản phẩm của mình và tích cực trong việc tìm kiếm, mở rộng thị
trường. Do đó, cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu Việt
Nam sẽ có những thay đổi trong thời gian tới.
11
3.MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ
3.1 Nhân tố về xu hướng phát triển thị trường hàng dệt may thế giới
Trên thế giới, việc sản xuất hàng dệt may đang có xu hướng tiếp tục
chuyển dịch sang các nước có lợi thế hơn về giá nhân công và chi phí sản
xuất. Trước đây, việc sản xuất hàng dệt may được chuyển từ các nước phát
triển sang các nước NICs và hiện nay có xu hướng chuyển dịch sang các
nước đang phát triển.
Theo các chuyên gia đầu ngành thế giới về hàng dệt may, sau nhiều
cuộc thảo luận tại các hội thảo chuyên đề, đã thống nhất xu hướng phát triển
chính trên
thị trường hàng dệt may thế giới: Một là, hàng may mặc theo phong cách
phương tây sẽ tăng lên; hai là, kiểu trang phục công sở sẽ ngày càng phổ
biến; ba là, thẩm mĩ của lứa tuổi trung niên và cao niên được cải thiện; bốn
là, hàng dệt may cho trẻ em làm thay đổi khái niệm về tiêu dùng và thiết kế;
năm là,vải, sợi, phụ liệu, thiết kế, kiểu dáng, kỹ thuật sẽ có những bước đột
phá; sáu là, đồ thể thao vẫn được ưu chuộng; bẩy là, hàng may đo vẫn sẽ
thông dụng. Cùng với các nhận định đó, các chuyên gia cũng đưa ra những
nhận định về xu hướng cạnh tranh trên thị trường hàng dệt may thế giới.
Theo đó, sản phẩm dệt may của các nước đang phát triển ở châu Á gồm

Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam… sẽ cạnh tranh gay gắt với các nước châu
Hoa Kỳ La tinh ở các thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới là
Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada… Trong đó, Trung Quốc là nước xuất khẩu
dệt may lớn nhất thế giới và cũng đang có nhiều lợi thế cạnh tranh.
Mặt khác, hàng dệt may của các nước phát triển vẫn có xu hướng
được bảo hộ dưới nhiều hình thức như luật về xuất xứ hàng hóa (Nhật Bản
đang áp dụng), các quy định về chống bán phá giá (Hoa Kỳ, EU…), các quy
định về môi trường, về luật lao động, mức thuế cao… tạo ra những rào cản
đáng kể với hàng dệt may xuất khẩu của các nước đang phát triển nói chung
và Việt Nam nói riêng.
3.2 Nhân tố về xu hướng tự do hóa mậu dịch
Cùng với những nỗ lực tham gia vào AFTA, thực hiện tiến trình
CEPT,thực hiện các thỏa thuận đã đạt được khi gia nhập WTO, hàng dệt
may Việt Nam sẽ có rất nhiều điều kiện thuận lợi khi xuất khẩu. Tuy nhiên,
điều này khiến các biện pháp bảo hộ hàng dệt may trong nước phải thay đổi
12
cho phù hợp với điều kiện hội nhập, đó là từ năm 2006 hàng dệt may trong
nước chỉ được bảo hộ ở mức 5%.
Mặt khác, theo Hiệp địnhATC/WTO, bắt đầu thực hiện từ năm 2005,
các nước phát triển sẽ dỡ bỏ rào cản hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may cho
các nước là thành viên WTO. Việc gia nhập WTO đã và đang giúp hàng dệt
may Việt Nam được hưởng những ưu đãi trong việc xuất khẩu hàng dệt may
vào ba thị trường trọng điểm là Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, tăng khả năng cạnh
tranh của hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam với các nước trong khu vực
có tiềm năng xuất khẩu hàng dệt may.

3.3 Nhân tố các đối thủ cạnh tranh
Những đối thủ cạnh tranh với hàng dệt mayxuất khẩu của Việt Nam
chủ yếu là các nước ở khu vực châu Á, tiêu biểu như: Trung Quốc, Ấn Độ,
Bangladesh, và các nước thành viên khác của ASEAN như Xin-ga-po, Ma-

lai-xia, In-đô-nê-xia, Bru-nây, Thái-lan, Cam-pu-chia. Các quốc gia này có
nhiều điều kiện thuận lợi hơn Việt Nam trong việc sản xuất và xuất khẩu
hàng dệt may như: họ sẵn có thị trường tiêu thị, chi phí sản xuất và giá nhân
công không cao, những điều kiện khác phục vụ sản xuất cũng có ưu thế hơn
nước ta. Mặt khác, các nước này hầu hết đã tự túc được những nguyên phụ
liệu có chất lượng cao phục vụ sản xuất hàng dệt mayxuất khẩu nên sản
phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Trong khi đó, theo tính toán thì khoảng 10
năm nữa Việt Nam mới có thể tự túc hoàn toàn các nguyên phụ liệu phục vụ
sản xuất hàng dệt mayxuất khẩu
Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn nhất thế giới đối với hàng dệt
mayxuất khẩu của Việt Nam, nơi được coi là công xưởng của thế giới trong
thế kỷ 21. So với Việt Nam, giá cả lao động trong ngành dệt may Trung
Quốc thấp hơn, mẫu mã sản phẩm cũng phong phú hơn, công nghệ sản xuất
tiên tiến, chủ động về nguồn nguyên phụ liệu… nên hàng dệt may Trung
Quốc đang tràn ngập trên thế giới và ngay cả tại thị trường Việt Nam, làm
cho hàng dệt may Việt Nam khó có thể cạnh tranh ngay cả trên sân nhà.
3.4 Nhân tố quan hệ kinh tế-thương mại giữa Việt Nam với các nước
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ, xu hướng toàn cầu hóa , khu vực hóa ngày càng sâu rộng thì
quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế -thương mại giữa các quốc gia ngày càng
mạnh mẽ và chặt chẽ hơn. Sự hợp tác trên là điều kiện thúc đẩy nền kinh tế
13
của từng quốc gia phát triển và nền kinh tế thế giới cũng có những biến
chuyển tích cực.
Có vị trí địa lí thuận tiện, Việt Nam được coi là cửa ngõ để các quốc
gia tiến vào thị trường ASEAN và châu Á. Việt Nam là bạn hàng quan trọng
với nhiều quốc gia trong kinh tế-thương mại quốc tế. Do đó, hàng dệt
mayxuất khẩu của Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển và
phát triển thị trường. Việt Nam liên tục mở rộng quan hệ với tất cả các nước
và vùng lãnh thổ: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, châu Phi,

châu Đại Dương… với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong đó có hàng dệt
may.



14

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
I. ĐẶC ĐIỂM HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM
Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam phong phú, đa dạng về chủng
loại và chất lượng.
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhu cầu về hàng dệt may ngày càng
phong phú và đa dạng, tùy thuộc vào đặc điểm về văn hóa, phong tục tập
quán, tôn giáo, khí hậu, tuổi tác, giới tính,… Điều này đòi hỏi các doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực xuất khẩu hàng dệt may cần phải không
ngừng nghiên cứu thị trường để nắm vững nhu cầu của từng nhóm đối tượng
khách hàng để thỏa mãn ngày càng tốt hơn các nhu cầu của khách hàng. Có
vậy, doanh nghiệp mới có thể tồn tại được trong thời kỳ cạnh tranh gay gắt
như hiện nay.
Các sản phẩm dệt may của Việt Nam chưa mang tính thời trang cao
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu làm đẹp của con người càng
được chú trọng và quan tâm nhiều hơn. Các sản phẩm dệt may hiện nay
không chỉ đơn thuần là một công cụ để che thân mà công dụng chủ yếu của
nó hiện nay là thể hiện cái đẹp, cá tính của mỗi người. Vì vậy, việc nắm bắt
được xu hướng thời trang quốc tế là công cụ hữu hiệu để phát triển xuất
khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên, công việc này ở Việt Nam hiện nay chưa
thực sự có hiệu quả. Chúng ta thiếu nhiều các nhà tạo mẫu chuyên nghiệp,

bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam mới chỉ
chú ý làm hàng gia công cho đối tác nước ngoài mà chưa làm theo chu trình
khép kín: thời trang-thiết kế-thương hiệu. Do đó chúng ta cần phát triển đội
15
ngũ thiết kế thời trang cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động sản xuất
thương mại sản phẩm thời trang và xây dựng hình ảnh ngành thời trang Việt
Nam, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm.
Lợi thế cạnh tranh hiện nay của các sản phẩm dệt may của nước ta chủ
yếu là từ lợi thế về nhân công giá rẻ
Lao động trong ngành dệt may không đòi hỏi cao về trình độ kỹ thuật,
mà chủ yếu đòi hỏi sự cần cù, khéo léo. Ngành công nghiệp dệt may cũng sử
dụng rất nhiều lao động, đa số là lao động nữ. Lợi thế về lao động ( nhân
công dồi dào, giá rẻ) có ở hầu hết các nước đang phát triển. Ngành dệt may
nước ta tận dụng khá tốt lợi thế này, nhưng trong tương lai cạnh tranh về giá
cả không được đặt lên hàng đầu thì ngành dệt may Việt Nam sẽ gặp rất
nhiều khó khăn. Do đó, ngay từ bây giờ chúng ta phải tận dụng và tạo ra các
lợi thế khác để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm như: nguyên
liệu, thiết kế, thời trang, thương hiệu… Có vậy, chúng ta mới có thể cạnh
tranh với sản phẩm dệt may của Trung Quốc .
II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY TRONG HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ VÀ CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
1.THỜI KỲ TRƯỚC BTA CÓ HIỆU LỰC ( trước 2002)
Năm 1992 là thời điểm vàng, mở ra cơ hội xuất khẩu các sản phẩm
dệt may Việt Nam với việc ký kết Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU.
Từ năm 1993, hàng dệt may Việt Nam bắt đầu tim đường ra thế giới, và đến
năm 1996, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (đạt
1,15 tỷ USD). Sản phẩm dệt may từ vị trí khiêm tốn trong các sản phẩm xuất
khẩu chủ lực vào thời điểm trước năm 1990 (chủ yếu xuất khẩu sang Liên
Xô và Đông Âu) đã vươ lên vị trí số 1 trong những năm 1996, 1997 và ổn
định ở vị trí thứ 2 từ năm 1998 đến năm 2006 đạt mức tăng trưởng hàng năm

23,8%. Năm 2001, xuất khẩu dệt may đạt 1,96 tỷ USD gấp 16 lần so với
năm 1990. Đến năm 2001, sản phẩm dệt may Việt Nam đã có mặt ở trên 100
nước và vùng lãnh thổ tại hầu khắp các châu lục so với ganad 30 nước ở thời
điểm năm 1990.
16
Bảng 2:Các thị trường nhập khẩu chủ yếu hàng dệt may Việt Nam từ
1996 đến 2001
Đơn vị: triệu USD

1996 1997 1998 1999 2000 2001
KN XK 1150 1349 1351 1747 1892 1962
EU 225 410 521 555 609 599
Nhật Bản 248 325 321 417 620 588
USA 9,1 12 26 34 49,5 44,6
Các TT # 668 602 483 387,3 613 730,4
* Nguồn: Hiệp hội Dệt May Việt Nam
Sản phẩm dệt may Việt Nam được xuất khẩu sang hai khu vực thị
trường chính: thị trường có hạn ngạch do nước nhập khẩu ấn định số lượng
từng loại sản phẩm như EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ và thị trường không hạn
ngạch như châu Á, châu Hoa Kỳ, Nhật Bản
EU là thị trường xuất khẩu hàng dệt may theo hạn ngạch lớn nhất,
chiếm 80% tổng kim ngạch xuất khẩu có hạn ngạch của Việt Nam, chiếm
khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam, có tốc độ
tăng trưởng cao, bình quân 23%/năm. Tuy nhiên, nếu nhìn từ phía EU thì
giai đoạn trước 2001, Việt Nam chỉ là nhà xuất khẩu lớn thứ 16 và chiếm
0,5% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của EU. Trong đó, Đức là nước
nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm 41% tổng giá trị xuất
khẩu sang EU, tiếp theo là Pháp 14%, Hà Lan 12%, Italia 9%.
Bảng 3:Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU
Đơn vị: triệu USD

Năm Xuất khẩu vào EU Tăng (%) So với tổng kn (%)
1994 298 19,2 54,2
1995 355 19,1 47,3
1996 428 20,6 37,2
1997 460 7,5 34,1
1998 546 18,7 40,4
1999 605 10,8 35,96
2000 650 7,4 35,7
* Nguồn: Bộ Thương Mại và Tổng cục Hải Quan
Kim ngạch xuất khẩu sang EU bắt đầu tăng mạnh kể từ khi Hiệp định
buôn bán hàng dệt may được ký tắt vào tháng 12-1992 và liên tục được điều
chỉnh, bổ sung cho từng giai đoạn. Các sản phẩm xuất khẩu chủ lực thời
gian nay là những hàng quen làm, dễ thu lợi nhuận chiếm tới 70% giá trị kim
17
ngạch như: áo Jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%), áo len và áo
dệt kim (3,9%), T-shirt và Polo-shirt (3,4%). Các sản phẩm có yêu cầu phức
tạp, chất lượng cao thì Việt Nam vẫn chưa sản xuất được, hoặc sx với tỉ lệ
rất nhỏ.
Nhật Bản là thị trường nhập khẩu không hạn ngạch về hàng dệt may
lớn nhất thế giới. Với Việt Nam, Nhật Bản là thị trường có kim ngạch nhập
khẩu hàng dệt may lớn thứ hai. Năm 1994,1995, Việt Nam có mặt trong số
10 nước dẫn đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này,đến năm
1996 vươn lên vị trí thứ 8, năm 1997 xếp vị trí thứ 7, và từ đó đến năm 2001
giữ vị trí thứ 5.
Bảng 4: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Nhật Bản 1996-1999
Đơn vị: Tấn, Triệu Yên
1996 1997 1998 1999
SL GT SL GT SL GT SL GT
Dệt kim 299.344 782.147 275.135 770.204 296.950 783.120 349.540 719.312
Dệt thoi 334.608 1.062.748 292.937 995.128 272.126 906.234 331.989 902.649

Tổng 633.952 1.844.895 568.072 1.765.33
2
569.075 1.683.35
3
681.529 1.621.960
* Nguồn: Thống kê nhập khẩu Nhật Bản
Hoa Kỳ là thị trường đầy tiềm năng và triển vọng với các doanh
nghiệp kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam nhưng trong giai
đoạn này, thị trường Hoa Kỳ là thị trường phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng vốn có. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường này
chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt
Nam. Trước khi Hiệp định Thương mại Việt - Hoa Kỳ có hiệu lực, hàng dệt
may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ chiếm một tỷ trọng rất nhỏ, chiếm
chưa đến 1% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng năm hàng dệt may của Hoa
Kỳ.
Bảng 5: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ 1998-2001
Đơn vị: Triệu USD
Năm Xuất khẩu vào Hoa Kỳ Tăng (%) So với tổng kn(%)
1998 26.343.025 116.67 1.92
1999 34.707.574 30.77 1.95
2000 49.569.346 44.12 2.6
2001 47.461.297 -4 2.4
* Nguồn: Tổng cục Hải Quan
18
2.THỜI KỲ SAU BTA VÀ TRƯỚC KHI GIA NHẬP WTO(2002-2006)
Trong giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đứng
thứ hai sau dầu thô. Kim ngạch xuất khẩu tính chung 5 năm đạt khoảng 22 tỷ
USD, bình quân 4,4 tỷ USD/ năm ( riêng năm 2006 đạt 5,834 tỷ USD),
chiếm khoảng 15% tổng kim ngạch xuất khẩu với tốc độ tăng bình quân
hàng năm 20%.

Hàng dệt may được xuất khẩu tới 170 nước và vùng lãnh thổ, và có sự
biến động lớn về cơ cấu thị trường những năm gần đây theo hướng gia tăng
ở thị trường Hoa Kỳ, giảm ở thị trường EU, Nhật Bản, Đài Loan, Han Quốc.
Thị trường Hoa Kỳ chiếm khoảng 54-56% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt
may, EU là 19% ( trước là 30-35%), Nhật Bản 13%, Đài Loan 4%. Trong
nhóm hàng dệt may xuất khẩu thì hàng gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn,
khoảng 90-95%, hàng mua đứt bán đoạn vẫn còn thấp nên lượng ngoại tệ
thực thu không nhiều, hiệu quả thấp. Xuất khẩu hàng dệt may của nước ta đã
và đang phải cạnh tranh với một số nước và vùng lãnh thổ như Trung Quốc(
kim ngạch xuất khẩu 40 tỷ USD, chiếm 20% thị phần thế giới) và Hồng
Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ, Băng la det, Mê hi cô, Căm pu chia.
Nhìn lại quá trình phát triển xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang
thị trường Hoa Kỳ có thể nhận thấy hai mốc dáng nhớ, đó là thời điểm BTA
có hiệu lực ngày 10/12/2001 và thời điểm Việt Nam chính thức trở thành
thành viên của WTO vào đầu năm 2007.
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ
(Đơn vị tính: 1.000 USD,)
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Giá
trị
47400 975700 1973600 2474382 2602902 3044579
(Nguồn: Tổng cục Hải quan và Bộ Công Thương Việt Nam)
Bảng thống kê trên cho thấy, xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam
sang thị trường Hoa Kỳ tăng vọt hơn 20 lần ngay năm đầu tiên khi BTA có
hiệu lực (từ 47,4 triệu USD lên 975,7 triệu USD), tiếp đó đều duy trì mức
tăng trưởng đều đặn đến năm 2006. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt
5,834 tỷ USD, chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng 20,5% so
với 2005. Trong đó, thị trường Mỹ đạt khoảng 3,044 tỷ (chiếm 55%), EU:
1,243 tỷ (20%); Nhật: 628 triệu USD (11%); ASEAN: 107 triệu USD (2%)...
19

×