Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Y học cổ truyền Việt Nam - Nan Kinh part 3 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.9 KB, 11 trang )

Ngũ tạng bất hòa thì cửu khiếu không thông. Lục phủ bất hòa thì lưu lại và kết lại
thành chứng “ung”.
Tà khí ở tại lục phủ thì Dương mạch bất hòa, Dương mạch bất hòa thì khí bị lưu lại,
khí bị lưu lại thì Dương mạch bị thịnh. Tà khí ở Ngũ tạng thì Âm mạch bất hòa, Âm
mạch bất hòa thì huyết bị lưu lại, huyết bị lưu lại thì Âm mạch bị thịnh. Âm khí quá thịnh
thì dương khí không còn được “doanh” nữa, gọi là Cách. Dương khí quá thịnh thì Âm khí
không còn được “doanh” nữa, gọi là Quan. Âm Dương đều thịnh không còn cùng
“doanh” cho nhau nữa, gọi là Quan Cách. Quan Cách có nghĩa là không còn sống trọn
tuổi của mình nữa, chết”.
“Kinh nói: Khí độc hành ở ngũ tạng mà không còn doanh ở lục phủ, tại sao như vậy ?”
Thực vậy: “Sự vận hành của khí ví như dòng nước chảy không được ngừng lại. Cho
nên Âm mạch thì “doanh” ở ngũ tạng, Dương mạch thì “doanh” ở lục phủ, như chiếc
vòng ngọc không đầu mối, không biết đầu mối sợi tơ ở đâu, dứt rồi bắt đầu trở lại, không
bị tình trạng “phúc dật”. Nhân khí bên trong làm ấm ở tạng phủ, bên ngoài làm trơn
nhuận tấu lý”.
NAN 38
Điều 38 Nan viết: “Tạng duy chỉ có 5, phủ lại độc có đến 6, tại sao vậy ?”.
Thực vậy: “Sở dĩ phủ có đến 6, đó là kể đến Tam tiêu, nó là biệt sứ của nguyên khí, nó
chủ trì các khí có danh mà vô hình. Kinh của nó là Thủ Thiếu dương. Đây là phủ bên
ngoài. Vì thế mới nói phủ có đến 6”.
NAN 39
Điều 39 Nan viết: “Kinh nói: Phủ có 5, tạng có 6, thế nghĩa là thế nào ?”.
Thực vậy “(Nói là) lục phủ, nhưng chính là chỉ có ngũ phủ, trong lúc đó ngũ tạng cũng
thành có lục tạng, cũng là Thân có đến 2 tạng, tạng ở bên trái thuộc Thận, tạng ở bên phải
thuộc Mệnh môn. Mệnh môn là chỗ “ở” của tinh thần. Người con trai dùng nó để tàng
chứa tinh khí, người con gái dùng nó để ràng buộc vấn đề bào thai. Khí của nó thông với
Thận, vì thế mới nói tạng gồm có 6 (tạng)”.
“Phủ có 5 nghĩa là sao ?”.
Thực vậy: “Ngũ tạng, mỗi tạng đều có một phủ, Tam tiêu cũng là một phủ, nhưng lại
không thuộc vào ngũ tạng, vì thế mới nói phủ chỉ có 5 (phủ)”.
NAN 40


Điều 40 Nan viết: “Kinh nói: Can chủ về sắc, Tâm chủ về xú, Tỳ chủ về vị, Phế chủ về
thanh, Thận chủ về dịch. Tỵ (mũi) là nơi biểu hiện của Phế vậy mà nó lại biết được mùi
thơm, thúi (hôi). Nhĩ (tai) là nơi biểu hiện của Thận vậy mà nó lại nghe được âm thanh. Ý
của nó thế nào ?”.
Thực vậy: “Phế thuộc tây phương Kim. Kim được sinh ra ở tỵ, tỵ thuộc nam phương
Hỏa. Hỏa thuộc Tâm, Tâm chủ về xu, vì thế nó khiến cho mũi biết được mùi thơm hay
thúi. Thận thuộc bắc phương Thủy. Thủy được sinh ra ở thân, thân thuộc tây phương
Kim. Kim thuộc Phế, Phế chủ về âm thanh, vì thế nó khiến cho tai nghe được âm thanh”.
NAN 41
Điều 41 Nan viết: “Chỉ riêng có Can là có đến 2 lá, nó được ứng với gì ?”.
Thực vậy: “Can thuộc đông phương Mộc. Mộc thuộc mùa xuân, (đó là lúc) vạn vật bắt
đầu sinh ra. Ý (của mùa xuân, của Can) không cần phải là người thân (mới thi ân). Nó
(Can) cách Thái âm vẫn rất gần, rời Thái dương không xa, ví như có “lưỡng Tâm”. Cho
nên, nó có 2 lá nhằm ứng với lá của Mộc vậy”.
NAN 42
Điều 42 Nan viết: “Trường Vị của con người dài hay ngắn, nhận được thủy cốc nhiều
hay ít ?”.
Thực vậy: “Vị to 1 xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, dài 2 xích 6 thốn, căng ngang để
chứa thủy cốc được 3 đấu 5 thăng. Bên trong thường phải giữ lại (thủy cốc); (gồm) cốc 2
đấu, thủy 1 đấu 5 thăng.
Tiểu trường to 2 thốn rưỡi, đường kính 8 phân 1/3, dài 3 trượng 2 xích, nhận được cốc
2 đấu 4 thăng, thủy được 6 thăng 3 hợp 2/3.
Hồi trường lớn 4 thốn, đường kính 1 thốn rưỡi, dài 2 trượng 1 xích, nhận được cốc 1
đấu, thủy 7 thăng rưỡi.
Quảng trường to 8 thốn, đường kính 2 thốn rưỡi, dài 2 xích 8 thốn, nhận được cốc 9
thăng 3 hợp 1/8. Vì thế tính chung Trường và Vị dài 5 trượng 8 xích, 4 thốn, nhập chung
thủy cốc 8 đấu 7 thăng 6 hợp 6/8. Đây là con số mà Trường Vị đo được độ dài ngắn và
sức chứa nhận về thủy cốc.
Can cân nặng 4 cân 4 lượng, bên trái có 3 lá, bên phải có 4 lá, tất cả gồm 7 lá.Nó chủ
về tàng hồn.

Tâm cân nặng 12 lượng, bên trong có 7 lỗ lớn, 3 lỗ nhỏ (?), chứa đựng tinh trấp 3 hợp,
chủ về tàng thần.
Tỳ cân nặng 2 cân 3 lượng, hình dẹp rộng 3 thốn, dài 5 thốn, có khối mỡ “tán cao”
nặng nửa cân, nó chủ về bọc huyết làm ấm ngũ tạng, chủ về tàng ý.
Phế cân nặng 3 cân 3 lượng, 6 lá 2 lỗ nhĩ, gồm 8 lá, chủ về tàng phách.
Thận có 2 quả, cân nặng 1 cân 1 lượng, chủ về tàng chí.
Đởm nằm trong khoảng dưới là gan ngắn, cân nặng 3 lượng 3 thù, chứa đựng tinh trấp
3 hợp.
Vị cân nặng 2 cân 2 lượng, quanh co khúc khuỷu, co lại duỗi ra, dài 2 xích 6 thốn, to 1
xích 5 thốn, đường kính 5 thốn, chứa đựng cốc 2 đấu, thủy 1 đấu 5 thăng.
Tiểu trường cân nặng 2 cân 14 lượng, dài 3 trượng 2 xích, rộng 2 thốn rưỡi, đường
kính 8 phân 1/3, cuộn khúc từ phía tả, phần tích chứa cuộn lại thành 16 khúc, chứa đựng
cốc 2 đấu 4 thăng, thủy 6 thăng 3 hợp 2/3.
Đại trường cân nặng 2 cân nặng 2 cân 12 lượng, dài 2 trượng 1 xích, rộng 4 thốn,
đường kính 1 thốn rưỡi. Nó cuộn khúc lại từ phía hữu của rún thành 16 khúc, chứa đựng
cốc 1 đấu thủy 7 thăng rưỡi.
Bàng quang cân nặng 9 lượng 2 thù rộng bề ngang đến 9 thốn, chứa nước tiểu đến 9
thăng 9 hợp.
Miệng rộng được 2 thốn rưỡi. Từ môi đến răng dài 9 phân, từ xỉ (răng) đến phía sau
của hội yếm sâu 3 thốn rưỡi, rộng có thể chứa được đến 5 hợp. Lưỡi nặng 10 lượng, dài 7
thốn rộng 2 thốn rưỡi.
Cửa “yết môn” cân nặng 10 lượng, rộng 2 thốn rưỡi, dài xuống đến Vị 1 xích 6 thốn.
Cửa “hầu lung” cân nặng 12 lượng, rộng 2 thốn, dài 1 xích 2 thốn, 9 tiết (đốt).
Cửa “giang môn” cân nặng 12 lượng, to 8 thốn, đường kính 2 thốn 2/3, dài 2 xích 8
thốn, chứa đựng cốc 9 thăng 2 hợp 1/8”.
NAN 43
Điều 43 Nan viết: “Con người không ăn uống trong 7 ngày thì phải chết, tại sao thế ?”
Thực vậy: “Trong Vị của con người thường phải giữ đủ 2 đấu cốc, và 1 đấu 5 thăng
thủy. Cho nên một người bình nhân mỗi ngày 2 lần đến cầu tiêu, mỗi lần như vậy bỏ đi 2
thăng rưỡi, trong ngày là 5 thăng. Trong 7 ngày thì 5 lần 7 là 3 đấu 5 thăng, thế là thủy

cốc đều bị ra hết. Vì thế một người bình nhân, nếu trong 7 ngày mà không ăn uống thì
phải chết, đó là vì thủy cốc và tân dịch đều bị tận (hết), tức là phải chết”.
NAN 44
Điều 44 Nan viết: “Thất xung môn nằm ở đâu ?”.
Thực vậy: “Môi gọi là Phi môn; Răng gọi là Hộ môn; Hội yếm gọi là Hấp môn; Vị gọi
là Bôn môn; miệng dưới của thái dương gọi là U môn; Đại trường, Tiểu trường gọi chung
là Lam môn; hạ cực gọi là Phách môn. Cho nên gọi tất cả là “thất xung môn”.
NAN 45
Điều 45 Nan viết: “Kinh nói rằng: Có bát hội, ở đâu ?”.
Thực vậy: “Phủ hội ở Thái thương, tạng hội ở nơi sườn cụt, cân hội ở huyệt Dương
Lăng tuyền, tủy hội ở tuyệt cốt, huyệt cốt ở cách du, cốt hội ở huyệt Đại trữ, mạch hội ở
huyệt Thái uyên, khí hội ở Tam tiểu nơi ngoài đường cân thẳng ngay giữa 2 vú. Khi nhiệt
bệnh bên trong, nên thủ các khí huyệt hội nhau ấy”.
NAN 46
Điều 46 Nan viết: “Người già nằm mà không ngủ được, còn những người thuộc lớp
tuổi thiếu tráng thì nằm ngủ mà không bị thức, tại sao ?”.
Thực vậy: “Những người thuộc lớp tuổi thiếu tráng thì huyết khí thịnh, cơ nhục còn
trơn nhuận, khí đạo còn thông, sự vận hành của vinh và vệ không mất đi lẽ thường của
nó, cho nên ban ngày họ được “tinh: sáng suốt, hợp với Dương”, ban đêm họ không bị
thức (không mất ngủ). Người già thì huyết khí suy, cơ nhục không còn trơn nhuận, đường
vận hành của vinh vệ bị chậm lại, cho nên ban ngày họ không thể “nhanh nhẹn, sáng
suốt”, ban đêm không ngủ được. Đó là lý do cho biết tại sao người già thì không ngủ
được”.
NAN 47
Điều 47 Nan viết: “Chỉ có gương mặt người là có thể chịu được lạnh, tại sao thế ?”.
Thực vậy: “Đầu của con người là nơi hội của các kinh Dương. Các mạch của Âm đều
lên đến cổ, ngực rồi quay trở xuống, chỉ có mạch Dương lên đến trên đầu mà thôi. Do đó,
nó làm cho gương mặt chịu được lạnh vậy”.
NAN 48
Điều 48 Nan viết: “Con người có tam hư, tam thực, thế nghĩa là thế nào ?”.

Thực vậy: “Có sự hư thực của mạch, có sự hư thực của bệnh, có sự hư thực của chẩn.
Khi nói “hư thực của mạch”, có nghĩa là nếu nhu thì thuộc hư, nếu khẩn và lao (cứng)
thì thuộc thực.
Khi nói “hư thực của bệnh”, có nghĩa là nếu bệnh từ trong phát ra thì thuộc hư, nếu
bệnh từ ngoài nhập vào thì thuộc thực. Bệnh còn nói chuyện được thuộc hư, bệnh không
còn nói chuyện được thuộc thực. (Bệnh thể) hòa hoãn thuộc hư, bệnh thể cấp khẩn thuộc
thực.
Khi nói “hư thực của phép chẩn”, có nghĩa là nếu vùng bì phu còn nhu hoãn thuộc hư,
nếu vùng bì phu bị căng cứng thuộc thực. Nếu vùng bì phu còn biết ngứa thì thuộc hư,
nếu còn biết thống thì thuộc thực. Nếu (ấn nhẹ) bên ngoài mà bị thống, nếu (ấn mạnh)
vào đến bên trong mà thấy khoan khoái, đó là ngoài bị thực, trong bị hư. Nếu ấn mạnh
mà thấy thống, nếu ấn nhẹ mà thấy khoan khoái, đó là trong bị thực mà ngoài bị hư. Ta
gọi đó là tình trạng “hư thực” vậy”.
NAN 49
Điều 49 Nan viết: “Có “chính kinh tự bệnh” lại có “ngũ tà làm thương (thành bệnh)”.
làm thế nào để phân biệt được ?”.
Thực vậy: “Kinh nói: Ưu sầu tư lự thì làm thương Tâm. Thân mình bị lạnh, uống thức
lạnh thì làm thương Phế. Sự tức giận làm cho khí nghịch lên trên mà không xuống được
làm thương Can. Ăn uống và lao nhọc thì làm thương Tỳ. Ngồi lâu ở nơi ẩm thấp, ráng
sức ở dưới nước thì làm thương Thận. Đây là trường hợp tự bệnh của chính kinh”.
“Thế nào là ngũ tà (gây bệnh) ?”.
Thực vậy: “Có “trúng Phong”, có “Thương thử”, có “ăn uống và lao nhọc”, có “thương
hàn”, có “trúng thấp”, ta gọi đây là ngũ tà (gây bệnh)”.
“Giả sử Tâm bệnh. Dựa vào đâu để biết rằng đó là do trúng Phong gây nên ?”.
Thực vậy: “Sắc phải xích”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Can chủ về sắc, Can tự nhập vào mình thì sắc thanh, nhập vào Tâm thì sắc xích, nhập
vào Tỳ thì sắc hoàng, nhập vào Phế thì sắc bạch, nhập vào Thận thì sắc Hắc. Can là tà
của Tâm, cho nên ta biết sắc diện phải xích. Khi phát bệnh thì thân mình nhiệt, dưới sườn
bị mãn, thống, mạch phù đại mà huyền”.

“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do thương thử gây nên ?”.
Thực vậy: “Phải ghét mùi xú”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tâm chủ về xú. (Tâm) tự nhập vào mình thì gây thành “tiêu” xú, nhập vào Tỳ thì gây
thành “hương” xú, nhập vào Can thì gây thành “táo” xú, nhập vào Thận thì gây thành
“hủ” xú, nhập vào Phế thì gây thành “tinh” xú. Cho nên, ta biết rằng đó là Tâm bệnh do
thương thử mà gây nên thì (bệnh nhân) phải ghét mùi xú. Khi phát bệnh thì thân mình
nhiệt mà bứt rứt, Tâm bị thống, mạch phù đại mà tán”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do ăn uống và lao nhọc gây nên ?”.
Thực vậy: “Phải thích vị khổ. Nếu hư thì không thích ăn, nếu thực thì thèm ăn”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tỳ chủ về vị. (Tỳ) nhập vào Can thành vị toan, nhập vào Tâm thành vị khổ, nhập vào
Phế thành vị tân, nhập vào Thận thành vị hàm, (Tỳ) tự nhập thành vị ca. Cho nên ta biết
rằng tà khí của Tỳ nhập vào Tâm thì gây thành chứng thích vị khổ. Khi phát bệnh thì thân
mình nhiệt mà tay chân nặng, thích nằm, tứ chi không co duỗi thoải mái, mạch phù đại
mà hoãn”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do thương hàn gây nên ?”
Thực vậy: “(Bệnh nhân) phải nói sàm ngôn vọng ngữ”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Phế chủ về thanh (âm). (Phế) nhập vào Can thành hô (kêu, la), nhập vào Tâm thành
ngôn (hay nói), nhập vào Tỳ thành ca (hát), nhập vào Thận thành thân(rên), (Phế) tự nhập
vào mình thành khóc. Cho nên ta biết rằng tà khí của Phế nhập vào Tâm sẽ gây thành
chứng sàm ngôn, vọng ngữ. Khi phát bệnh thì thân mình nhiệt ớn ớn sợ lạnh, nếu nặng sẽ
bị ho suyễn, mạch phù đại mà sắc”.
“Dựa vào đâu để biết rằng (Tâm bệnh) là do trúng Thấp gây nên?”.
Thực vậy: “(Bệnh nhân) phải ra mồ hôi không ngừng”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Thân chủ về Thấp. (Thận) nhập vào Can thành nước mắt, nhập vào Tâm thành mồ
hôi, nhập vào Tỳ thành nước bọt (hoặc chất dịch nhờn), nhập vào Phế thành nước mũi,
(Thận) tự nhập vào mình thành nước bọt (thóa). Cho nên ta biết rằng khi tà khí của Thận

nhập vào Tâm sẽ làm cho bệnh nhân mồ hôi ra không dứt. Khi phát bệnh thì thân mình
nhiệt mà vùng thiếu phúc thống, cẳng chân bị lạnh mà nghịch, mạch trầm nhu mà đại.
Trên đây là những phép để biết ngũ tà (gây bệnh)”.
NAN 50
Điều 50 Nan viết: “Bệnh có Hư tà, có Thực tà, có Tặc tà, có Vi tà, có Chính tà. Lấy gì
để phân biệt ?”.
Thực vậy: “Đi từ phía sau đến gọi là hư tà; đi từ phía trước đến gọi là Thực tà; đi từ “sở
bất thắng” đến gọi là Tặc tà; đi từ “sở thắng” đến gọi là Vi tà; tự bệnh gọi là chính tà”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Giả sử Tâm bệnh: do trúng phong mà bị bệnh gọi là Hư tà; do thương thử mà bị bệnh
gọi là Chính tà; do ăn uống lao nhọc mà bị bệnh gọi là Thực tà; do thương hàn mà bị
bệnh gọi là Vi tà; do trúng Thấp mà bị bệnh gọi là Tặc tà”.
NAN 51
Điều 51 Nan viết: “Có những bệnh (mà người bệnh) muốn được ấm, (cũng có những
bệnh mà người bệnh) muốn được lạnh, muốn được thấy người khác, không muốn thấy
người khác, (các trường hợp trên) đều không giống nhau. Như vậy, bệnh ở tại tạng phủ
nào ?”.
Thực vậy: “Những bệnh (mà người bệnh) muốn được lạnh và cũng muốn thấy người
khác, đó là bệnh tại phủ. Những bệnh (mà người bệnh) muốn được ấm và không muốn
thấy người khác, đó là bệnh ở tạng”.
“Dựa vào đâu để nói được như vậy ?”.
“Phủ thuộc Dương, bệnh thuộc Dương thì người bệnh muốn được lạnh và cũng muốn
nhìn thấy người khác. Tạng thuộc Âm, bệnh thuộc Âm thì người bệnh muốn được ấm và
chỉ muốn đóng kín cửa lại để ở một mình, ghét nghe thấy tiếng người khác. Đó là (những
biểu hiện) để ta biết được bệnh của tạng hay của phủ vậy”.
NAN 52
Điều 52 Nan viết: “Cái căn bản của sự phát bệnh của tạng và phủ có đồng nhau không
?”.
Thực vậy: “Không đồng nhau”.
“Không đồng nhau như thế nào ?”.

Thực vậy: “Tạng bệnh thì dừng lại 1 nơi không di chuyển, chỗ bệnh không thay đổi
chỗ. Phủ bệnh thì dường như là chạy đi nhiều hướng, khi lên, khi xuống, khi chạy đi nơi
này khác, chỗ ở vô thường. Cho nên, dựa vào đó để ta biết cái căn bản của tạng của phủ
bất đồng”.
NAN 53
Điều 53 Nan viết: “Kinh nói: Bệnh do “Thất truyền” thì chết, bệnh do “gián tạng” thì
sống. Đó là nói gì ?”.
Thực vậy: “”thất truyền” có nghĩa là truyền cho cái “sở thắng”. “Gián tạng” có nghĩa là
truyền cho con mình”.
“Nói thế nghĩa là thế nào ?”.
“Giả sử Tâm bệnh truyền lại cho Phế; Phế truyền lại cho Can; Can truyền lại cho Tỳ;
Tỳ truyền lại cho Thận; Thận truyền lại cho Tâm. Đến đây thì một tạng không thể chịu
truyền bệnh đến 2 lần, cho nên gọi là “thất truyền”, (truyền đến lần thứ 7) thì chết.
Giả sử Tâm truyền bệnh cho Tỳ; Tỳ truyền cho Phế; Phế truyền cho Thận; Thận truyền
cho Can; Can truyền cho Tâm. Đó là lối “mẹ con truyền nhau”, truyền đến cuối rồi lại bắt
đầu trở lại, như chiếc vòng ngọc tròn không đầu mối. Cho nên gọi nó là “sinh: sống”.
NAN 54
Điều 54 Nan viết: “Tạng bệnh thì khó trị, phủ bệnh lại dễ trị, tại sao thế ?”.
Thực vậy: “Tạng bệnh sở dĩ khó trị là vì nó truyền cho cái “sở thắng”, phủ bệnh sở dĩ
dễ trị là vì nó truyền cho con nó, giống với phép “thất truyền” và “gián tạng”.
NAN 55
Điều 55 Nan viết: “Bệnh có tích, có tụ, làm thế nào để phân biệt được ?”.
Thực vậy: “Tích thuộc về Âm khí. Tụ thuộc về Dương khí, Do đó mà Âm khí thì trầm
mà phục, Dương khí thì phủ mà động. Khí tích lại gọi tên là Tích, khí tụ lại gọi tên là Tụ.
Cho nên, Tích do ngũ tạng sinh ra, Tụ do lục phủ thành ra. Tích thuộc Âm khí, khi nó
mới bắt đầu phát đều có nơi chỗ rõ ràng, sự đau nhức không rời chỗ bệnh, nó lên hay
xuống đều có chỗ chấm dứt và bắt đầu, 2 bên tả hữu đều có chỗ tận cùng của nó. Tụ
thuộc Dương khí, khi nó bắt đầu phát đều không có nơi gốc rễ, nó lên xuống đều không
có nơi dừng lại, chỗ đau nhức không nơi nhất định. Ta gọi đó là Tụ. Vì thế ta dùng những
mô tả trên để phân biệt bệnh về Tích và Tụ vậy”.

NAN 56
Điều 56 Nan viết: “Tích của ngũ tạng đều có tên không riêng mình không ? Nó đắc
(bệnh) vào tháng nào, ngày nào ?”.
Thực vậy: “Tích của Can tên gọi là Phì khí, nằm ở dưới hông sườn bên trái, hình như
cái ly úp xuống, có đầu có chân, bệnh lâu không lành sẽ làm cho người bệnh phát ra
chứng ho nghịch, sốt rét năm này qua năm khác không khỏi. Nó đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ
nhật của mùa qúy hạ”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Phế bệnh truyền cho Can, Can phải truyền cho Tỳ, gặp lúc mùa qúy hạ Tỳ đang
Vượng, mà vượng thì Tỳ sẽ không thọ tà. Thế là Can muốn trả trở lại cho Phế, Phế không
chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Phì khí
đắc (bệnh) vào Mậu Kỷ nhật của mùa qúy hạ.
Tích của Tâm tên gọi là Phục lương, khỏi lên từ ở phía trên rún to như cánh tay, lên
trên đến dưới Tâm, bệnh lâu ngày không khỏi, khiến cho người bệnh bị phiền Tâm. Nó
đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của mùa Thu.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Thận bệnh truyền cho Tâm, Tâm phải truyền cho Phế, gặp lúc mùa thu Phế đang
vượng, mà vượng thì phế sẽ không thọ tà. Thế là Tâm muốn trả trở lại cho Thận. Thận
không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng
phục lương đắc (bệnh) vào Canh Tân nhật của mùa thu.
Tích của Tỳ tên gọi là Bĩ khí, nằm ở vùng vị hoãn, to như cái mân, bệnh lâu không dứt
sẽ khiến cho bệnh nhân tứ chi không co duỗi được, phát chứng hoàng đản, ăn uống không
bồi bổ được cho cơ nhục và bì phu. Nó đắc (bệnh) vào Nhâm Qúy nhật của mùa đông”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Can bệnh truyền cho Tỳ, Tỳ phải truyền cho Thận, gặp lúc mùa đông Thận đang
vượng, mà vượng thì Thận sẽ không thọ tà. Thế là Tỳ muốn trả trở lại cho Can. Can
không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Bĩ
khí đắc (bệnh) vào Nhâm Qúy nhật của mùa đông”.
Tích của Phế tên gọi là Tức bôn, nằm ở dưới hông sườn phía hữu, nằm úp lại to như cái
ly, bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân hay bị ớn ớn hàn nhiệt, ho suyễn

phát ra phế ủng. Nó đắc (bệnh) vào Giáp Ất nhật mùa xuân”.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tâm bệnh truyền cho phế, phế phải truyền cho Can, gặp lúc mùa xuân Can đang
vượng, mà vượng thì Can sẽ không thọ tà. Thế là phế muốn trả trở lại cho Tâm. Tâm
không chịu nhận, vì thế mà lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng
Tức bôn đắc bệnh vào Giáp Ất nhật của mùa xuân”.
Tích của Thận tên gọi là Bôn độn, nó phát ra ở vùng thiếu phúc, lên trên đến dưới Tâm,
giống như hình trạng của con “đôn : heo con” hoặc lên hoặc xuống không biết lúc nào,
bệnh lâu ngày không dứt sẽ khiến cho bệnh nhân bị suyễn nghịch, cốt nuy, bị thiếu khíq.
Nó đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của mùa hạ’.
“Dựa vào đâu để nói như thế ?”.
“Tỳ bệnh truyền cho Thận, Thận phải truyền cho Tâm, gặp lúc mùa hạ Tâm đang
vượng, mà vượng thì Tâm sẽ không thọ tà. Thế là Thận muốn trả trở lại cho Tỳ, Tỳ
không chịu nhận vì thế lưu kết thành chứng Tích. Do đó chúng ta biết được chứng Bôn
độn đắc bệnh vào Bính Đinh nhật của mùa hạ.
Đây là những phép chẩn quan trọng của ngũ tích”.
NAN 57
Điều 57 Nan viết: “Tiết gồm có bao nhiêu loại ? Có tên gọi hay không ?”.
Thực vậy: “Tiết gồm có 5 loại, tên gọi đều khác nhau, có Vị tiết, có Tỳ tiết, có Đại
trường tiết, có Tiểu trường tiết, có Đại hà tiết, còn gọi là Hậu trọng.
Vị tiết là chứng mà ăn uống không hóa, phân vàng.
Tỳ tiết là chứng mà bụng bị trướng, mãn, khi đi tiêu thì chảy ra, ăn vào xong tức thì ói
nghịch trở ra.
Đại trường tiết là chứng mà ăn vừa xong thì bụng như bị quẫn bách như bắt buộc phải
tiêu ra ngay, đại tiện ra phân sắc trắng, sôi ruột, đau như cắt.
Tiểu trường tiết là chứng mà tiểu tiện thông, đại tiện ra máu mủ, đau vùng thiếu phúc.

×