Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán part 7 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.26 KB, 14 trang )



85
Trong đó C là giá đóng cửa
L là giá sàn
H là giá trần

Theo công thức trên thì:
• Nếu giá đóng cửa tăng kịch trần thì CLV = +1
• Nếu giá đóng cửa giảm kịch sàn thì CLV = -1
• Nếu giá đóng cửa bằng giá tham chiếu thì CLV = 0
• Nếu giá đóng cửa trên giá tham chiếu và dưới giá trần thì CLV là số âm nằm trong khoảng 0 +1
• Nếu giá đóng cửa dưới giá tham chiếu và trên giá sàn thì CLV là số âm nằm trong khoảng 0 -1
Nếu như OBV đơn thuần sử dụng tổng tích lũy khối lượng thì A/D Line sử dụng tổng tích lũy khối lượng
nhân với hệ số giá đóng tỷ lệ (Volume x CLV), nghĩa là:
Gọi A/D Linei là giá trị của đường tích lũy tại phiên i. Khi đó:
A/D Line
i
= A/D Line
i – 1
+ Volume x CLV
Cũng giống như OBV, A/D Line chỉ quan tâm đế phương hướng mà không để ý đến giá trị nên A/D Line0
hoặc A/D Line-1 được quy ước có giá trị bằng 0.
2. Ý nghĩa
OBV là giá trị tích lũy khối lượng giao dịch thành công đã có sự điều chỉnh về tỷ lệ tăng giá trải các phiên.
Về ý nghĩa A/D Line cũng giống như OBV nhưng không giống OBV chỉ dựa thuần túy vào khối lượng
giao dịch thành công để xét đoán tâm lý, hành vi nhà đầu tư và trạng thái của thị trường, A/D Line còn thể
hiện các yếu tố trên trong mối quan hệ với giá cả qua các phiên nhờ hệ số điều chỉnh CLV. Do có sự tham
gia của giá và khối lượng, nên A/D Line có thể coi một dạng phân tích phản ánh dòng chảy tiền tệ vào và
ra khỏi thị trường đối với loại cổ phiếu đang xem xét nên A/D Line cho nhiều tín hiệu và sự xác nhận hơn
OBV.


Nếu OBV đánh giá sức tăng hoặc giảm của giá dựa trên khối lượng được giao dịch thành công và sự tăng
giảm của giá. Nếu giá tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ hoặc giá giảm nhẹ nhưng khối lượng
giao dịch lớn thì đồ thị A/D Line tăng chậm. Nếu giá giảm mạnh nhưng khối lượng giao dịch lớn hoặc giá
tăng mạnh nhưng khối lượng giao dịch nhỏ thì đồ thị A/D Line giảm chậm. Chỉ khi khối lượng giao dịch
lớn với giá tăng mạnh thì đồ thị A/D Line mới tăng mạnh và chỉ khi cả
giá và chỉ khi khối lượng giao dịch
lớn với giá giảm mạnh thì đồ thị A/D Line mới giảm mạnh.
Như vậy căn cứ vào sức tăng của A/D Line và việc hình thành phân kỳ âm hoặc dương của A/D Line để
kết luận và khẳng định tính chắc chắn của xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại. Do có hệ số điều chỉnh CLV
nên cách hiểu về ý nghĩa phân kỳ âm và phân k
ỳ dương của OBV sẽ có sự khác biệt cần phải điều chỉnh.
Khi một phân kỳ âm xuất hiện, điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên bán tháo với khối lượng
lớn với giá giảm mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá tăng không mạnh nên không
thiết lập được đỉnh mới cao hơn đỉnh cũ. Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức tăng của giá
nếu giá đang ở xu thế tăng hoặc củng cố cho sức mạnh sụt giảm nếu giá đang trên xu thế giảm.


86
Khi một phân kỳ dương xuất hiện, điều này nghĩa là đã có sự xen kẽ một số phiên thu gom với khối lượng
lớn với giá tăng mạnh, các phiên tăng tiếp theo có khối lượng nhỏ hoặc giá giảm không mạnh nên không
thiết lập được đáy mới thấp hơn đáy cũ. Các hiện tượng này cảnh báo về sự suy giảm sức giảm của giá
nếu giá đang ở xu thế giảm hoặc củng cố cho sức mạnh tăng nếu giá đang trên xu thế tăng.
3. Cách sử dụng
Cũng giống như OBV, A/D Line sử dụng phân kỳ âm và phân kỳ dương làm tín hiệu cảnh báo về sự thay
đổi xu thế của giá cả hoặc xác nhận và củng cố tính chắc chắn của xu thế này.

• Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ âm cảnh báo về khả năng
thay đổi xu thế giá tăng hiện tại.
• Nếu phân kỳ âm xuất hiện trong khi giá đang giảm thì phân kỳ âm khẳng định tính chắc chắn của
sự giảm giá.

• Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế giảm thì phân kỳ dương cảnh báo về khả
năng thay đổi xu thế giá giảm hiện tại.
• Nếu phân kỳ dương xuất hiện trong khi giá đang ở xu thế tăng thì phân kỳ dương khẳng định tính
chắc chắn của sự tăng giá.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần Nhựa Bình Minh – BMP – Nguồn đồ thị
www.vietstock.com.vn

Nhấn để xem kích thước thật


Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn

Trong suốt 2 tháng 11 và 2 năm 2006, giá của cổ phiếu BMP có xu thế tăng, phân kỳ dương trên đồ thị
A/D Line xuất hiện liên tục trong hai tháng này xác nhận tính chắc chắn của xu thế tăng giá. Thực tế xu
thế này đã kéo dài sang hết tháng 01/2007 với sức tăng giá mạnh. Tuy nhiên trong tháng 01/2007 này, đồ


87
thị A/D Line có dạng dập dền không hình thành phân kỳ dương tạo thành cảnh báo về sự suy yếu của xu
thế tăng giá hiện tại. Kết quả là bước sang tha giá cổ phiếu chuyển sang trạng thái dập dềnh, dao động
mạnh và bắt đầu đi xuống trong tháng 03, 04 nắm 2007.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty Cổ phần Đầu tư công nghệ - FPT – Nguồn đồ thị
www.vietstock.com.vn

Nhấn để xem kích thước thật
Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn
Một phân kỳ âm đã xuất hiện trên đồ thị A/D Line vào tháng 01 năm 2007 trong khi giá của cổ phiếu FPT
đang theo xu thế tăng lên. Hiện tượng này cảnh báo về sự thay đổi xu thế tăng giá hiện thời trong giai
đoạn tới. Kết quả thể hiện ở giá cổ phiếu của FPT bắt đầu ngừng xu thế tăng vào tháng 2 và bắt đầu đi
xuống từ tháng 03 năm 2007.

10 - Oscillator - Máy dao động Chaikin
Như đã giới thiệu trong bài viết trước về đường tích lũy phân bổ A/D Line, bài viết này sẽ giới thiệu
về phương pháp bổ trợ cho A/D Line. Phương pháp này được đặt tên là Chaikin oscillator – Máy dao
động Chaikin lấy then tên của tác giả Marc Chaikin.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ
• Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng.
• Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD.
• Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán


88
Giống như MACD tính bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của giá thì phương pháp Chaikin
Oscillator được tính toán bằng hiệu số hai giá trị trung bình hàm mũ của A/D Line . Hiệu số giữa trung
bình hàm mũ trong 3 phiên và trung bình hàm mũ trong 10 phiên thường được sử dụng.
2. Ý nghĩa
Do cùng một cách tính toán, vì vậy xét về ý nghĩa, Chalkin Oscillator áp dụng đối với sự tăng giảm của
A/D Line có ý nghĩa tương tự như MACD áp dụng đối với sự tăng gjảm của giá cả. Theo đó, Chalkin
Oscillator xác nhận xu thế tăng hoặc giảm của A/D Line từ đó xác định xu thế tăng hoặc giảm của giá.
Nếu Chaikin Oscillator dương tức là trung bình động ngắn hạn lớn hơn trung bình động dài hạn, xu thế
của A/D Line là tăng; ngược lại nếu Chaikin Oscillator âm tức là trung bình động ngắn hạn nhỏ hơn trung
bình động dài hạn, xu thế của A/D Line là giảm. Nếu đường trung bình động ngắn hạn giao cắt đường
trung bình động dài hạn Chaikin Oscillator sẽ thay đổi giá trị từ dương sang âm (hoặc ngược lại) xuyên
qua đường trung bình (giá trị 0); tín hiệu này cảnh báo về sự thay đổi xu thế từ tăng sang giảm hoặc từ
giảm sang tăng hoặc ngừng xu thế tăng, giảm chuyển sang biến động dập dềnh.
Về thực chất Chaikin Oscillator phân tích chỉ ra xu thế của A/D Line chứ không trực tiếp chỉ ra xu thế của
giá cả. Tính chất gián tiếp này giúp cho Chaikin Oscillator phán đoán với độ trễ ít hơn A/D Line
; tuy

nhiên, bù lại Chaikin Oscillator sẽ phản ánh kém chính xác hơn A/D Line
. Do đó việc sử dụng Chaikin
Oscillator cần phải chú ý kết hợp với các phương pháp khác nhằm tăng tính chính xác phân tích.
Chi tiết hơn về ý nghĩa của MACD và A/D Line, xin đọc các bài viết:
• Phân tích kỹ thuật (9): A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ
• Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
3. Sử dụng
Giống như MACD, Chalkin Oscillator sử dụng hai dấu hiệu là phân kỳ âm (hoặc dương) và sự giao cắt
giữa đường Chalkin Oscillator và giá trị trung bình 0. Khi sử dụng Chalkin Oscillator cần phải có sự phối
hợp với các tín hiệu khác để đảm bảo sự chính xác hơn trong dự đoán và xác nhận.
Chi tiết hơn về sử dụng, Chalkin Oscillator, có thể tham tham khảo về cách dùng tương tự của phương
pháp MACD
nêu trong bài viết: Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
Ví dụ về công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - DNP


89

Nhấn để xem kích thước thật
Nguồn đồ thị - www.vietstock.com.vn
Trên đồ thị Chaikin Oscillator xuất hiện phân kỳ dương trong thời gian đủ dài vào tháng 2 và tháng 3 năm
2007. Sự phân kỳ dương kéo dài đến khi đường Chaikin Oscillator giao cắt đường trung bình giá trị 0, sự
giao cắt này xảy ra trước khi đồ thị A/D Line thiết lập các đỉnh cao mới để tạo thành phân kỳ dương.
Đồng thời trên đồ thị giá, ngưỡng kháng cự (Resistance) bọ phá bỏ. Các tín hiệu liên tiếp trên củng cố và
khẳng định sự tăng giá của DNP.
Vào tháng 6/2007, phân kỳ âm xuất hiện trên Chaikin Oscillator với độ dốc rất lớn, trước đó phân kỳ
dương trên đồ thị A/D Line đã chấm dứt đồng thời với dấu hiện đồ thị Chaikin Oscillator giao cắt giá trị 0
cảnh báo về xu thế giảm giá. Tiếp đó, phân kỳ âm xuất hiện trên cả hai đồ thị A/D Line
và Chaikin
Oscillator liên tục trong thời gian dài xác nhận xu thế giảm giá đang xảy ra của DNP.

11 - Độ lệch chuẩn
Độ lệch chuẩn là khái niệm sử dụng bổ biến trong toán học thống kê. Bài viết này sẽ bàn luận về ý
nghĩa độ lệch chuẩn khi sử dụng làm công cụ phân tích kỹ thuật, các bài viết sau sẽ trình bày cụ thể
từng phương pháp thuộc nhóm này.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Nếu gọi X là giá trị của cổ phiếu, E(X) là trung bình động của X, S là phương sai, d là độ lệch chuẩn. Độ
lệch chuẩn sẽ được tính toán như sau:


90
S = E[(X – EX)
2
] = E(X
2
) – [E(X)]
2

d = Căn bậc hai của S
Về trung bình động E(X) xem bài - Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
2. Ý nghĩa độ lệch chuẩn
Trong thống kê độ lệch chuẩn xác định mức độ ổn định của số liệu thống kê xoay quanh giá trị trung bình
. Giá trị của độ lệch chuẩn càng thấp thì mức độ ổn định của số liệu càng lớn, dao động quanh giá trị trung
bình càng nhỏ. Giá trị độ lệch chuẩn càng cao thì mức độ ổn định của số liệu càng nhỏ, dao động quanh
giá trị trung bình càng lớn. Như vậy nếu giá của cổ phiếu có độ lệch chuẩn nhỏ, mức độ biến thiên giá của
cổ phiếu này quanh trung bình động thấp, nếu độ lệch chuẩn lớn, mức độ biến thiên giá của cổ phiếu
quanh trung bình động cao.
Hãy hình dung trong ví dụ sau: vào cuối học kỳ người ta lấy hai học sinh cùng có điểm trung bình 5,0 để

xét cho đi thi học sinh giỏi. Học sinh thứ nhất có độ lệch chuẩn là 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này
toàn điểm 5; học sinh thứ 2 có độ lệch chuẩn lớn hơn 0 vì điểm trong học kỳ của học sinh này có cả hai
loại điểm 10 và điểm 0. Người ta nói học sinh thứ nhất học đều và ổn định hơn học sinh thứ hai. Nếu cử
học sinh thứ nhất đi thi thì sẽ an toàn hơn vì không sợ bị điểm liệt và mang tiếng xấu về cho trường,
nhưng cử học sinh thứ hai sẽ có khả năng sinh lợi lớn hơn vì có thể đoạt giải nhất mặc dù rủi ro bị liệt là
tương đương. Điều này cũng có ý nghĩa tương tự về mức độ sinh lời và rùi ro trong chứng khoán, càng
chấp nhận rủi ro cao thì sinh lời càng lớn.
Trong xác xuất thống kê, nếu gọi X là giá cổ phiếu với trung bình là a, theo mô hình phân phối chuẩn có
các xác suất sau:
• P(a – d < X < a + d) = 68,26%
• P(a – 2d < X < a + 2d) = 95,44%
• P(a – 3d < X < a + 3d) = 99,74%
Điều này có nghĩa xác suất để giá cổ phiếu nằm trong khoảng từ trung bình giá trừ đi độ lệch chuẩn (a – d)
cho đến trung bình giá cộng với độ lệch chuẩn (a + d) là 68.26% tức là gần 70%. Chú ý rằng 70% là
ngưỡng mà nhiều nhà kinh doanh và quân sự mong đợi: “nếu khả năng chắc thắng 70% thì cứ việc tiến
hành”. Vì vậy nếu giá cổ phiếu không nằm trong khoảng 70% (vượt trên ngưỡng a + d hoặc xuống dưới
ngưỡng a - d) thì đó sẽ là các tín hiệu cảnh báo cần phải chú ý.
12 - Bollinger Band - Dải băng Bollinger
Tiếp theo bài trước bàn về độ lệch chuẩn, bài này sẽ giới thiệu một phương pháp sử dụng độ lệch
chuẩn là dải băng Bollinger (Bollinger Bands) của tác giả John Bollinger.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn
• Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán


91
Về tính toán và vẽ đồ thị, dải băng Bollinger sử dụng độ lệch chuẩn và được vẽ bởi hai đường đồ thị trên
cùng đồ thị giá của cổ phiếu: một đường goi là băng trên (upper band) và một đường gọi là băng dưới

(lower band):
• Băng trên được vẽ bởi giá cổ phiếu cộng với độ lệch chuẩn.
• Băng dưới được vẽ bởi giá cổ phiếu trừ đi độ lệch chuẩn.
Về cách tính độ lệch chuẩn, xem bài Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn
2. Ý nghĩa
Trong bài viết về độ lệch chuẩn đã chỉ ra xác suất giá cổ phiếu nằm trong dải băng Bollinger là xấp xỉ
70%. Nếu giá cổ phiếu không nằm trong dải băng Bollinger, tức là thuộc về phần xác suất 30% còn lại thì
các tín hiệu này cần phải chú ý.
• Khi sức tăng của giá quá mạnh, cầu lớn hơn cung nhiều, giá cổ phiếu sẽ vượt quá băng trên (upper
band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm trên dải băng trên thì điều này có nghĩa là sức tăng giá của cổ
phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
• Khi sức giảm của giá quá mạnh, cung lớn hơn cầu nhiều, giá cổ phiếu sẽ đi thấp hơn băng dưới
(lower band). Nếu giá cổ phiếu liên tục nằm dưới dải băng dưới thì điều này có nghĩa là sức giảm
giá của cổ phiếu vẫn rất mạnh và được khẳng định chắc chắn.
Nếu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở lại vào trong dải băng ngay sau đó thì đây là tín
hiệu cảnh báo về sự suy giảm sức mạnh của tăng hoặc giảm giá khi sự tăng hoặc giảm giá đã đạt đến sự
căng thẳng quá mức. Điều này giống như sự bùng phát cuối cùng rồi lịm dần của sự sống vào thời điểm
hấp hối.
3. Cách sử dụng:
Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger: khi giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải Bollinger và tiếp tục nằm ở
ngoài dải thì xu thê tăng hoặc giảm giá hiện tại sẽ tiếp tục:
• Nếu giá nằm quá dải trên (upper band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế tăng
sẽ tiếp tục tăng mạnh.
• Nếu giá nằm dưới dải dưới (lower band) và kéo dài liên tục thì tín hiệu này khẳng định xu thế giảm
sẽ tiếp tục giảm mạnh.
Dựa vào giá vượt ra ngoài dải bollinger rồi quay trở lại nằm trong dải:
• Nếu giá cổ phiếu vượt quá dải trên (upper band) rồi sau đó thiết lập một đỉnh giá khác nằm trong
dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế tăng giá hiện tại và chuyển sang xu thế
giảm hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang giảm và được khẳng định chắc
chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu rớt xuống dưới đường trung bình động tươ

ng ứng của dải băng
Bollinger Band.
• Nếu giá cổ phiếu xuống dưới dải dưới (lower band) rồi sau đó thiết lập một đáy giá khác nằm trong
dài bollinger thì tín hiệu này cảnh báo sự chấm dứt xu thế giảm giá hiện tại và chuyển sang xu thế
tăng hoặc dập dềnh. Tín hiệu này sẽ là cảnh báo đảo chiều sang tăng và được khẳng định chắc
chắn hơn nếu sau đó giá cổ phiếu vượt lên trên dưới đường trung bình động tương ứng của dải
băng Bollinger Band.


92
Tuy nhiên để có kết luận chính xác hơn về các dấu hiệu đảo chiều này, cần phải có sự kết hợp với các
phương pháp phân tích khác.
Xét ví dụ về công ty Cổ phần Vận Tải Hà Tiên – HTV sử dụng Dải băng bollinger tính trong 20 phiên.

Nhấn để xem kích thước thật

Nguồn đồ thị
• Tại các thời điểm xác định bằng các đường kẻ màu đỏ và xanh, giá cổ phiếu đã vượt quá băng trên
(upper band) hoặc xuống thấp hơn băng dưới (lower band), nếu so sánh lên đồ thị RSI sẽ thấy các
thời điểm này tương ứng với các ngưỡng siêu mua và siêu bán. Điều này khẳng định sức tăng
(hoặc giảm giá) hiện tại là rất mạnh. Đặc biệt trong giai đoạn tháng 2, các đỉ
nh của giá liên tục
được thiết lập cao hơn băng trên (upper band) khẳng định sức tăng giá rất mạnh và còn tiếp diễn
dài trong giai đoạn này.
• Tại các vùng được khoanh tròn là các tín hiệu giá cổ phiếu vượt ra ngoài dải băng bollinger rồi trở
lại vào trong dải băng này.
• Vòng tròn số 1 và số 4 là khoảng thời gian mà một đỉnh của giá cổ phiếu được thiết lập nằm trên
băng trên và một đỉnh tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu này
cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang giảm và càng được khẳng định chắc chắn hơn khi
giá cổ phiếu đi xuống dưới đường trung bình động SMA-20.

• Vòng tròn số 2 và số 3 là khoảng thời gian mà một đáy của giá cổ phiếu được thiết lập nằm thấp
hơn băng dưới và một đdáy tiếp theo sau đó được thiết lập nằm trong dải băng bollinger. Tín hiệu
này cảnh báo về sự đảo chiều của giá cổ phiếu sang tăng. Tuy nhiên vòng tròn số 3 được khẳng
định chắc chắn và có sức tăng mạnh mẽ hơn vì giá cổ phi
ếu sau đó đã xuyên phá và vượt lên trên
đường trunh bình động SMA – 20.
13 - Độ rộng băng Bollinger - Bollinger Band Width – BBW


93
Tiếp theo bài viết trước về dải băng Bollinger, bài viết này giới thiệu về một phương pháp khác sử
dụng độ lệch chuẩn: Phương pháp này dựa vào độ rộng của dải băng bollinger.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan
• Phân tích kỹ thuật (11): Độ lệch chuẩn
• Phân tích kỹ thuật (12): Dải băng Bollinger - Bollinger Band
1. Tính toán
Phương pháp này lấy giá trị dải trên trừ cho giá trị của dải dưới của dải băng Bollinger – (Bollinger Band)
để lấy khoảng cách giữa hai dải vì vậy phương pháp này được gọi là độ rộng của dải băng Bollinger Band.
Giá trị này bằng hai lần độ lệch chuẩn
.
BBW = Giá trị dải trên - Giá trị dải dưới = 2 x Độ lệch chuẩn
2. Ý nghĩa
Độ lệch chuẩn phản ánh mức độ biến đổi đồng đều của giá. Nếu giá trị của BBW lớn thể hiện giá cả có sự
biến động đột biến. Nếu giá trị của BBW nhỏ thể hiện giá cả có sự biến động đồng đều và ổn định.
Thông thường trong một thị trường có xu thế tăng giá hoặc thị trường suy thoái với xu thế giảm giá, BBW
sẽ có giá trị lớn, giá trị này càng lớn thể hiện tốc độ tăng hoặc giảm giá càng mạnh. Còn trong một thị
trường biến động dập dềnh không xu thế, giá cả ổn định, BBW sẽ có giá trị nhỏ, giá trị này càng nhỏ thể
hiện mức độ biến động giá càng nhỏ.
Trong thị trường tăng trưởng, khi BBW đạt đến mức cực đại tạo thành 1 đỉnh, giá cả trên thị trường sẽ có

chiều hướng đi vào ổn định trong ngắn hạn, những ngày này được gọi là những ngày phân phối, một chu
kỳ tăng trưởng sẽ có một số ngày phân phối – thông thường từ 3 đến 5 ngày phân phối. Khi BBW đạt đến
mức rất lớn, thể hiện thị trường đang ở trạng thái phấn khích với giá cả tăng vọt rất nhanh, lúc này khả
năng thị trường đi vào suy thoái rất cao và khi BBW đạt
đến cực đại với giá trị rất lớn và bắt đầu đi xuống
chính là lúc báo hiệu về một thị trường suy thoái đang bắt đầu.
Khi thị trường suy thoái và bắt đầu đi vào ổn định trong trung hạn, BBW sẽ có giá trị nhỏ và kéo dài, khi
BBW tăng trở lại sẽ là tín hiệu cảnh báo về khả năng thị trường sẽ có một xu thế mới hình thành – tăng
hoặc giảm giá.
3. Cách sử dụng
BBW chỉ được sử dụng như một công cụ thẩm tra lại tính chính xác về sự tăng trường và suy thoái của thị
trường, không nên dùng BBW như một công cụ độc lập để dự đoán. Sử dụng BBW cần chú ý đến đỉnh có
giá trị lớn và đáy có giá trị nhỏ của BBW.
Khi BBW đạt đến đỉnh với giá trị lớn và bắt đầu đi vào suy giảm, tín hiệu này là dấu hiệu cho thấ
y xu thế
hiện tại đã kết thúc. Khi BBW đạt đến đáy với giá trị nhỏ và bắt đầu tăng trở lại, tín hiệu này là dấu hiệu
cho thấy xu thế dập dềnh kết thúc và khả năng thị trường sẽ hình thành xu thế tăng hoặc giảm giá.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT)


94


Nhấn để xem kích thước thật
Nguồn đồ thị
Tại những thời điểm được kẻ bằng đường thẳng màu đỏ, BBW đã đạt đến đỉnh với giá trị lớn, đây cũng là
lúc kết thúc xu thế tăng giá của BBT. Tại thời điểm được kẻ bằng đường thẳng màu xanh, BBW đã đạt
đến đáy với giá trị nhỏ và bắt đầu tăng trở lại, đây là lúc xu thế dập dềnh kết thúc, thị trường bắt đầu tăng
trưởng trở lại.
14 - Thống kê - Ngày tích lũy.phân phối

Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử dụng là tổng
hợp số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện cho các tình huống trên thị
trường, thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để
tăng cường kh
ả năng tổng hợp thống kê số liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề khối lượng.
• Phân tích kỹ thuật (8): Chỉ số cân bằng khối lượng - On Balance Volume - OBV
1. Thống kê
Một số nhà phân tích sử dụng thống kê để xác nhận và dự đoán xu thế. Biện pháp họ sử dụng là tổng hợp
số liệu trong quá khứ để nhận biết ra các hình mẫu đặc trưng đại diện cho các tình huống trên thị trường,
thậm chí ngày nay một số nhà phân tích đầu tư sử dụng những hệ thống máy tính tốc độ cao để tăng cường
khả năng tổng hợp thống kê số liệu với mong muốn rút ra quy luât của thị trường. Quay ngược lại, khi
nhìn ra các hình mẫu đặc trưng này, họ suy đoán với giả định rằng lịch sử có thể tái lập lại với một xác
suất nào đó. Việc này xem chừng có sự nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả: sử dụng kết quả là các


95
hình mẫu để khẳng định nguyên nhân là sự vận động của thị trường. Tuy nhiên thống kê là một phương
pháp nghiên cứu khoa học lâu đời và có tính bền vững của nó. Tâm lý hành vi của nhà đầu tư tác động đến
thị trường cũng là một lĩnh vực khoa học cần được nghiên cứu, bản chất của việc dùng thống kê để phân
tích chính là nghiên cứu ứng xử của nhà đầu tư theo phương pháp thống kê. Vì vậy khi nhận ra một hình
mẫu dựa vào thống kê, để khẳng định rằng hình mẫu này không chỉ là hình ảnh của lịch sử mà còn là kim
chỉ nam trong tương lai của các nhà đầu tư, cần phải xác định nguyên nhân tâm lý của các nhà đầu tư trên
thị trường gắn liền với hình mẫu đó.
Bài viết này sẽ đề cập đến một số phương pháp được phát hiện ra nhờ các chuyên gia thống kê thường
xuyên quan sát thị trường và phát hiện ra quy luận biến động của thị trường.
2. Ngày tích lũy và ngày phân phối
Giá tăng, giá giảm là chuyện bình thường trên thị trường chứng khoán. Vấn đề là bản chất các ngày tăng
và ngày giảm là gì. Ai cũng biết giá cả trên thị trường được xác định bằng cung và cầu của các nhà đầu tư.

Điều gì ẩn giấu sau cung và cầu. Qua thống kê người ta chỉ ra rằng trong một thị trường tăng (hoặc giảm)
sẽ có các ngày tích lũy và ngày phân phối được thể hiện qua giá cả và khối lượng.
Khi xu thế của thị trường là tăng giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ tăng mạnh hoặc khối lượng giao dịch
sẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày tích phân phối sẽ tăng yếu thậm chí đứng giá hoặc giảm giá hoặc
khối lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả hai.
Khi xu thế của thị trường là giảm giá: trong các ngày tích lũy giá sẽ giảm mạnh hoặc khối lượng giao dịch
s
ẽ nhỏ hoặc là cả hai; trong các ngày phân phối giá sẽ giảm yếu thậm chí đứng giá hoặc tăng giá hoặc khối
lượng giao dịch lớn (có thể xảy ra trước) hoặc là cả hai.
Đó là quy luật thống kê mà các nhà đầu tư đã chỉ ra khi nghiên cứu các số liệu của thị trường. Quy luật
này cần được giải thích bằng hành vi tâm lý của các nhà đầu tư để có được tính chính xác cao.
Khi thị trường đi lên, đối với các nhà đầu tư lẻ, họ tìm cách “tích lũy”: người có cổ phiếu thì tìm cách giữ
chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn, người không có thì tìm cách mua vào gây nên tình trạng khan
hiếm hàng trong khi nhu cầu lớn; kết quả là giá cổ phiếu tăng mạnh trong các ngày tích lũy nhưng khối
lượng giao dịch nhỏ. Trong quá trình tích lũy đó, một số nhà đầu tư cảm thấy được giá và không muốn
tiếp tục mạo hiểm thêm sẽ bán cổ phiếu ra thị trường: hành động bán ra gặp đà mua vào khi giá tăng của
các nhà đầu tư khác nên khối lượng giao dịch thành công sẽ tăng vọt, đi kèm đó là sự tăng giá sẽ yếu hơn,
thậm chí là đứng giá hoặc giảm giá do có sự pha loãng cầu bằng lượng cung được bán ra; những ngày này
được gọi là ngày “phân phối”. Tương tự khi thị trường đi xuống, các nhà đầu tư nhỏ có xu thế bán tống
bán tháo cổ phiếu và hạn chế mua vào trong các ngày tích lũy khiến hàng hóa trở nên thừa thãi vượt quá
lượng cầu nhỏ đẩy giá giảm mạnh. Khi tích lũy xảy ra vài ngày, một số nhà đầu tư cảm thấy giá cả đã đạt
đến mức hấp dẫn để mua vào họ sẽ tìm cách thu gom khiến giá giảm chậm lại thậm chí đứng giá hoặc tăng
giá đi cùng với khối lượng giao dịch lớn.
Tuy nhiên con cá mập của thị trường lại là các quỹ
đầu tư chứ không phải là các nhà đầu tư lẻ, những quỹ
đầu tư này cũng tham gia vào sự hình thành của các ngày tích lũy và phân phối nhưng cách tiếp cận của
họ khác với các nhà đầu tư lẻ. Hãy hình dung thế này nếu một quỹ đầu tư muốn thâu tóm 10 triệu cổ phiếu
A nào đó, giả sử khối lượng giao dịch trung bình của cổ phiếu A là 1 triệu cổ phiếu/ngày, họ sẽ ph
ải mất
10 ngày để mua vào. Nếu ngày nào họ cũng mua vào 1 triệu cổ phiếu sẽ tạo ra hiện tượng khan hiếm đẩy

giá cổ phiếu tăng vọt và họ sẽ mất một khoản tiền lớn. Vì vậy xen kẽ các ngày thu gom mang tính chất
tích lũy, họ sẽ bán ra tại một số ngày, “phân phối” lại cổ phiếu để điều chỉnh làm chững lại sự tăng giá,


96
qua đó thâu tóm 10 triệu cổ phiếu với khoản tiền phải bỏ ra thấp hơn so với việc mua vào liên tục. Tương
tự nếu muốn bán cổ phiếu, các quỹ đầu tư cũng thực hiện bán dần và xen kẽ các ngày phân phối bên cạnh
các ngày tích lũy khiến cho tốc độ giảm giá chậm lại nhờ đó họ sẽ bán được giá hơn.
Như vậy thị trường đang trong xu thế tăng hoặc giảm giá bao gồm các ngày tích lũy được xen kẽ bởi các
ngày phân phối điều chỉnh. Thông thường sau 3 đến 5 ngày phân phối, xu thế tăng hoặc giảm sẽ kết thúc.
Nguyên nhân là tính chất mạo hiểm ngày càng tăng khi giá đã tăng cao, các ngày phân phối xen kẽ gây ra
trạng thái căng thẳng cho các nhà đầu tư lẻ và loại bỏ dần các nhà đầu tư yếu bóng vía; đối với các quỹ
đầu tư khoảng thời gian sau 3 đến 5 ngày phân phối cũng là lúc họ hoàn thành kế hoạch thu gom hoặc bán
tháo. Các phép thống kê cũng chỉ ra thông thường sau khoảng 3 đến 5 phân phối là chấm dứt xu thế tăng
hoặc giảm.
Hai hình dưới là các đợt có ngày phân phối trong 1 chu kỳ tăng giá của công ty cổ phần Bê Tông Châu
Thới (BT6) và công ty Cổ phần Hóa An (DHA). Những ngày này có giá giảm, chững lại hoặc có khối
lượng giao dịch tăng đột biết (có thê xảy ra trước khi giá cả đang ở mức đỉnh).


Nhấn để xem kích thước thật
Nguồn đồ thị



97

Nhấn để xem kích thước thật

Nguồn đồ thị

Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết (BBT) đã nêu trong bài Độ rộng dải băng
Bollinger - Bollinger Band Width

Nhấn để xem kích thước thật


Nguồn đồ thị
Để ý rằng trong đợt tích lũy tăng giá của BBT có xen lẫn các ngày phân phối lân cận các ngày mà BBW
lập một đỉnh và đáy tương ứng.


98
15 - Thống kê - Sóng Elliot
Những người yêu thích phân tích kỹ thuật không lạ gì với lý thuyết sóng Elliot – lấy theo tên tác giả là
Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Bản chất lý thuyết này được Elliot phát hiện dựa vào thống kê
tổng hợp các số liệu trong quá khứ: lý thuyết này khẳng định rằng một chu kỳ tăng giá tuân theo 5 sóng
chủ và 3 sóng điều chỉnh.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (14): Thống kê, tích lũy và phân phối.
1. Giới thiệu
Những người yêu thích phân tích kỹ thuật không lạ gì với lý thuyết sóng Elliot – lấy theo tên tác giả là
Ông Ralph Nelson Elliott (1871-1948). Bản chất lý thuyết này được Elliot phát hiện dựa vào thống kê
tổng hợp các số liệu trong quá khứ: lý thuyết này khẳng định rằng một chu kỳ tăng giá tuân theo 5 sóng
chủ và 3 sóng điều chỉnh.


Nhấn để xem kích thước thật

Nguồn ảnh Lâm Minh Chánh, MBA - />
• Sóng chủ 1. Tích lũy xuất phát từ thị trường suy thoái và còn yếu, rất khó nhận ra sóng số 1 này.

Do vừa mới thoát ra thị trường suy thoái nên đầu tư và lúc này mang tính chất mạo hiểm, không
hấp dẫn với các nhà đầu tư do không có nhiều kỳ vọng vào sự hồi phục của thị trường.

×