Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Phân tích kỹ thuật đầu tư chứng khoán part 6 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (789.83 KB, 14 trang )



71
càng lớn thì xu thế thị trường tăng ngày càng mạnh, phe bò tót ngày càng thắng áp đảo. Nếu trung bình
động ngắn hạn nhỏ hơn trung bình động dài hạn thì xu thế là giảm giá và MACD có giá trị âm. Nếu giá trị
MACD âm và ngày càng nhỏ thì xu thế thị trường giảm ngày càng mạnh, phe gấu ngày càng thắng áp đảo.
Đường trung bình của MCAD là 0 nơi mà trung bình động giá ngắn hạn gặp trung bình động giá dài hạn,
tại đây bắt đầu có sự đổi chiều về xu thế của thị trường.
Ví dụ về MCAD giá cổ phiếu Công ty cổ phần Nhựa Đồng Nai - DNP

Nhấn để xem kích thước thật
(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn )
• Đồ thị trên tại các thời điểm số 1 và 2, đường MACD (Màu xanh) giao cắt đường zero, tại đây các
đường đồ thj trung bình động EMA - 12 và EMA - 26 giao cắt nhau trên đồ thị giá.
• Trên đồ thị MACD, đường EMA - 9 của chính MACD được vẽ trên cùng đồ thị với màu tím và
MACD - Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với các cột màu xanh dương.
3. Sử dụng
Khi sử dụng MACD cần chú ý các tín hiệu sau để phát lênh mua hoặc bán:
• Sự giao cắt giữa MCAD và đường trung bình động EMA của chính MACD: Nếu đường MACD ở
cắt đường trung bình động EMA của chính nó và đi xuống dưới đường này thì đó là tín hiệu bán ra
để cắt lỗ. Nếu đường MACD cắt đường EMA của chính nó và đi lên trên đường này thì đó là tín
hiệu mua vào. Sự giao cắt này được gọi là cò súng khai hỏa các tín hiệu mua và bán khác chính
xác. Tuy nhiên cũng chú ý rằng khi các tín hiệu này xảy ra thì thường sự việc đã xảy ra rồi. Tuy
không thể mua đáy bán đỉnh được nhưng việc bạn sớm mua vào hay bán ra ở đầu một xu thế lên
giá hoặc giảm giá cũng là một món hời.
• Sự giao cắt giữa MCAD và đường zero. Sự giao cắt này chỉ là sự khẳng định lại tăng phần chắc
chắn về xu thế mà các phép phân tích khác chỉ ra. Thông thường sự giao cắt này xảy ra khá muộn
với độ trễ lớn nhất là khi sử dụng MCAD với hai đường trung bình động trong 9 ngày và 26 ngày.
Do đó không thể dùng sự giao cắt này làm tín hiệu để phát lệnh mua/bán.



72

Các tín hiệu trên cần kết hợp với nhiều tín hiệu trên các phân tích khác để có kết quả chính xác hơn.
• Xác định xu thế tăng hoặc giảm hoặc dập dềnh.
• Các dấu hiện về phân kỳ âm, phân kỳ dương.
• Ngưỡng siêu mua/siêu bán
Về các tín hiệu này đã trình bày trong 3 bài
• Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
• Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
Khi phối hợp các tín hiệu trên với nau cần nhớ đến nghịch lý của việc áp dụng phân tích kỹ thuật: Việc áp
dụng và chờ đợi càng nhiều tín hiệu để tăng phần khẳng định chính xác hơn của một quyết định mua bán
có thể làm tăng phần chậm trễ cho quyết định mua bán đó và ngược lại việc áp dụng quá ít tín hiệu để ra
quyết định mua bán cho kịp thời cơ có thể lại kém phần chính xác. Quyết định chính xác nhất là không
quyết định.
Xét ví dụ sau về giá của chứng chỉ quỹ VF1:

Nhấn để xem kích thước thật


(Nguồn ảnh đồ thị www.vietstock.com.vn
)
• Trong giai đoạn cuối tháng 2 năm 2007, RSI đạt trên ngưỡng 50 và tiến dần đến ngưỡng siêu mua,
phân kỳ dương xuất hiện và có sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó tại
thời điểm số (1) là tín hiệu mua vào. Từ lúc đó cho đến thời điểm số (2) (giao đoạn ngay trước và


73
ngay sau tết), thị trường có dạng dập dềnh nhưng MACD luôn ở trên đường trung bình động EMA
của chính nó vì vậy nhà đầu tư vẫn ôm chặt chứng chỉ quỹ của VF1 chờ thời.

• Sang đầu tháng 3 giá của VF1 vẫn tăng tốt, ngưỡg siêu mua đã bị xuyên phá tại thời điểm số (2).
Sang đến giữa tháng 3 tại thời điểm số (3), MACD đã giao cắt đường trung bình động EMA của
chính nó và đi xuống dưới đường này, các tín hiệu trên đồ thị RSI đã phá vỡ và đi xuống dưới
ngưỡng siêu mua cùng với sự xuất hiện của phân kỳ dương khẳng định đã đến lúc cần phải rút lui
khỏi thị truờng.
• Vào giữa tháng 4, tại thời điểm số (4), lúc này RSI đã phá vỡ ngưỡng siêu bán và đi lên trên giá trị
này, phân kỳ dương xuất hiện cho thấy sự khởi sắc của thị trường. sự giao cắt giữa MACD và
EMA của chính nó báo hiệu tín hiệu mua vào. Tuy nhiên sự giao cắt này không đảm bảo một sự
chắc chắn cho những sự kiện bất ngờ xảy ra sau đó đối việc phát hành của chứng chỉ quỹ
VF1 đã
đẩy giá của VF1 tụt dốc.

Hãy chú ý đến các thời điểm RSI xuyên phá các ngưỡng siêu mua, siêu bán và sự giao cắt của MACD và
các đường trung bình động EMA của chính nó xảy ra sau đó trên đồ thị giá của cổ phiếu của công ty Cổ
phần Hàng Hải Hà Nôi (MHC).

Nhấn để xem kích thước thật

6 - MACD-Histogram dự đoán MACD
Thomas Aspray giới thiệu MACD – Histogram vào năm 1968 như một giải pháp làm giảm thiểu độ trễ
của MACD. Như đã biết sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động EMA của chính nó là phát
pháo lệnh cho các hành vi mua và bán của nhà đầu tư. Tuy nhiên nếu ngồi chờ phát pháo lệnh này thì sự
việc có thể đã trễ. Vì vậy MACD – Histogram được ra nhằm mục đích dự đoán sự xuất hiện của phát
pháo lệnh trước khi nó xảy ra, nhờ đó nhà đầu tư có thể ra quyết định mua/bán kịp thời hơn so với việc
chờ đợi sự giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó.
Xem trước:
• Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.


74

• Phân tích kỹ thuật (3): RSI - Chỉ số sức mua/bán tương đối.
• Phân tích kỹ thuật (2): Trung bình động và xu thế.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Giá trị của MACD – Histogram được tính bằng hiệu của MACD và giá trị trung bình động EMA của
chính MACD. Thông thường nếu chọn MACD được tính bằng hiệu hai đường trunhg bình động của giá là
EMA – 12 và EMA – 26 thì giá trị trung bình động EMA của chính MACD được chọn là 9 phiên.
Đồ thị MACD – Histogram được vẽ trên cùng đồ thị với MACD dưới dạng biểu đồ hình cột. Nếu MACD
vượt đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram dương và biểu đồ cột quay lên
trên. Nếu MACD nằm dưới đường trung bình động EMA của chính nó thì MACD – Histogram âm và biểu
đồ cột quay xuống dưới.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về đồ thị
MACD – Histogram dưới dạng các cột màu xanh. Khi MACD – Histogram bằng 0 là lúc có sự giao cắt
giữa MACD và trung bình động của chính nó.

Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
2. Ý nghĩa
MACD phản ánh sự chênh lệch giữa giá trị của MACD và giá trị trung bình động EMA – 9 của chính
MACD.
Nếu giá trị của MACD – histogram dương và càng lớn thể hiện phe bò tót càng thắng thế trên thị trường.
Nếu giá trị MACD – histogram âm và càng nhỏ thì phe gấu càng thắng thế trên thị trường.
Việc giao cắt giữa MACD và đường trung bình động của chính nó là một hiệu lệnh cho hành vi mua vào
hoặc bán ra. Tại điểm giao cắt này MACD – Histogram có giá trị 0. Bằng việc dựa vào sự tăng giảm của
MACD – Histogram để dự đoán việc MACD – Histogram bằng 0 sẽ xảy ra, nhờ đó MACD – Histogram
đưa ra khuyến cáo về một hành vi mua bán của nhà đầu tư nên đến sớm hơn. Kỹ thuật sử dụng để dự đoán
như vậy chính là phân kỳ dương và phân kỳ âm.
Hình dưới là đồ thị MACD – histogram của Công ty Cổ phần Cảng Đoạn Xá (DXP) minh hoạ về sự xuất
hiện của phân kỳ dương và âm trên MACD – Histogram sớm dự báo sự giao cắt cắt của MACD và trung

bình động của chính nó.


75

Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )
3. Sử dụng
Nếu đường MACD đang ở trên đường trung bình, giá cả đang lên nhưng MACD – Histogram có sự xuất
hiện của phân kỳ âm thì dấu hiệu này cảnh báo về sự giao cắt của MACD với trung bình động của chính
nó và sẽ thấp hơn trung bình động. Lúc này nhà đầu tư có thể ra quyết định bán ra sớm hơn việc chờ đợi
sự giao cắt mới ra quyết định bán.
Nếu đường MACD đang ở dưới đường trung bình, giá c
ả đang xuống nhưng MACD – Histogram có sự
xuất hiện của phân kỳ dương thì dấu hiệu này cảnh báo sự giao cắt của MACD và đường trung bình động
EMA của chính nó và cao hơn trung bình động. Lúc này nhà đầu tư có thể ra quyết định mua vào sớm hơn
là việc chờ đợi sự giao cắt mới ra quyết định mua.
Chú ý rằng việc sử dụng MACD – Histogram để phán đoán cũng như sử dụng MACD giao cắt trung bình
động EMA của chính nó được sử dụng dựa trên sự phối hợp bổ trợ với các phép phân tích khác.
Ngoài ra vì MACD – Histogram dự đoán sự giao cắt của MACD nên dù có độ trễ ít hơn so với MACD
nhưng tính chính xác lại kém hơn. Sử dụng một biện pháp phỏng đoán gián tiếp qua một dấu hiện dự đoán
khác thì sẽ kém an toàn hơn là sử dụng phép dự đoán trực tiếp.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của Công ty Cổ phần bao bì Bình Dương – HBD



76

Nhấn để xem kích thước thật


(Nguồn ảnh đồ thị: www.vietstock.com.vn )

• Tại khoảng thời gian số 1, có rất nhiều tín hiệu xuất hiện lần lượt tại các thời điểm khác nhau: sự
giao cắt của giá và đường trung bình động SMA – 5, giá rót rất mạnh sau khi giao cắt đường này,
RSI cắt ngưỡng siêu mua và đi xuống dưới, sự xuất hiện của phân kỳ âm trên MACD – Histogram
và sự giao cắt của MACD với đường trung bình động của nó. Tín hiệu cuối cùng về sự giao cắt của
MACD với đường trung bình động của nó là phát pháo lệnh chắc chắn nhất đòi hỏi nhà đầu tư phải
rút lui gấp nếu không muốn bị thua lỗ thêm mặc dù lúc đó giá có tăng trong ngắn hạn một vài
phiên. Ví dụ này cho thấy việc sớm dự báo giảm giá giúp nhà đầu tư sớm thoát khỏi thị trường hơn
là chờ đợi phát pháo lệnh cuối cùng.
• Tại khoảng thời gian số (2), có nhiều tín hiệu báo hiệu về sự tăng giá mạnh: Giá giao cắt trung
bình động SMA – 5 và vượt lên rất mạnh so với trung bình động, sự xuất hiện của phân kỳ dương
trên MACD - Histogram, RSI vượt lên ngưỡng siêu bán. Tuy nhiên phát pháo lệnh cuối cùng và
chắc chắn nhất là sự giao cắt của MACD và trung bình động của nó đã không xảy ra và giá đã
không thực sự tăng mạnh và nhanh chóng giảm. Ví dụ này điểm hình cho tính chất sớm nắm bắt
thời cơ mang lại nhiều lợi nhuận hơn nhưng khả năng chính xác kém hơn.
• Tại khoảng thời gian số (3), nhiều dấu hiệu về sự tăng giá xuất hiện: phân kỳ dương xuất hiện
đồng thời trên RSI và MACD – histogram, RSI vượt lên trên ngưỡng siêu bán. Những tín hiệu này
xảy ra trước phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt giữa MACD và trung bình động của chính nó.
Tuy nhiên cũng cần cảnh giác với biến động dập dềnh của giá trong giai đoạn này.
• Tại khoảng thời gian số (4): sự xuất hiện của phân kỳ âm, ngưỡng siêu mua trên RSI không còn và
sự giao cắt và rớt mạnh của giá so trung bình động thúc giục sự rút lui của nhà đầu tư. Lúc này
chưa có phát pháo lệnh cuối cùng là sự giao cắt MACD và trung bình động của chính nó, giá đã có
sự tăng trở lại. Giá sắp tới sẽ như thế nào? Cần phải chờ đợi những tín hiệu chắc chắn hơn hay phải
rút lui cho kịp thời?
7 - Vấn đề khối lượng


77

Các bài viết trước đã đề cập đến một số phương pháp phân tích phổ biến dựa trên giá cả của cổ phiếu
qua các phiên. Tuy nhiên sự phỏng đoán và xác nhận về giá cả trong tương lai không chỉ phụ thuộc vào
giá của cổ phiếu tại mỗi phiên mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác trong đó có khối lượng giao dịch
trong ngày. Do đó kỳ này sẽ đề cập đến các vấn đề về khối lượng giao dịch trên thị trường và nguyên
tắc chung của các phương pháp phân tích dựa trên khối lượng giao dịch trước khi đề cập cụ thể đến
một số phương pháp phân tích thuộc loại này trong các bài viết tiếp theo. Xem trước:
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
• Phân tích kỹ thuật (5): MACD - Trung bình động hội tụ/phân kỳ.
• Phân tích kỹ thuật (6): MACD Histogram dự đoán MACD.
1. Giới thiệu chung
Như đã biết, giá cả trên thị trường được quyết định bằng cuộc đấu giữa cung và cầu theo nguyên tắc thuận
mua và bán. Sự thuận mua vừa bán này được phản ánh không chỉ qua mức giá cân đối cung cầu mà qua cả
khối lượng khớp thành công giữa hai bên: nói cách khác bán phải có người mua. Mua mà không có người
bán hoặc bán không có người mua là những trạng thái cần phải chú ý trên thị trường, phản ánh mức cung
cầu mất cân đối nghiêm trọng. Hãy xem xét các tình huống sau đây:
• Không ai mua mà cũng chẳng ai bán: đây là trường hợp thị trường đóng băng, hai phe mua bán
lừng chừng thăm dò, hàng hóa không được giao dịch hoặc giao dịch với số lượng rất ít trên thị
trường.
• Mua mà không ai bán: số lượng mua vào rất lớn nhưng số lượng bán ra nhỏ, khối lượng giao dịch
thành công rất ít hoặc không có giao dịch thành công. Tình huống này xảy ra khi hàng hoá khan
hiếm, rất nhiều người muốn mua, nhưng không có hàng bán trên thị trường, những người có hàng
thì ôm chặt không bán ra để chờ giá lên cao hơn. Lúc này cầu lấn át cung.
• Bán mà không ai mua: số lượng bán ra rất lớn nhưng số lượng mua vào nhỏ. Khối lượng giao dịch
thành công là không có hoặc rất nhỏ. Tình huống này xảy ra khi hàng hóa bị coi rẻ, người có hàng
thì bán tống bán tháo tìm cách rút lui khỏi thị trường, người chưa có hàng thì chẳng muốn mua
vào. Lúc này cung lấn át cầu.
• Mua và bán đều thỏa mãn: khối lượng giao dịch trao đổi trên thị trường lớn, bên mua và bán gặp
nhau và đều thỏa mãn. Cung cầu lúc này ở trạng thái cân bằng.
2. Dòng chảy tiền tệ
Một số phương pháp dựa trên khối lượng thường được đặt tên goi là dòng chảy tiền tệ (money flow) hàm

ý chỉ lượng tiền được rút ra hoặc đưa vào thị trường đối với một loại cổ phiếu. Lượng tiền này thực chất là
kết quả của khối lượng giao dịch thành công trên thị trường và giá cả của cổ phiếu trên thị trường. Nếu giá
cả tăng thì tương ứng với khối lượng là một lượng tiền được đổ vào thị trường: giá càng tăng cao, khối
lượng giao dịch càng lớn thì lượng tiền đổ vào càng lớn. Nếu giá giảm thì tương ứng với khối lượng là
một lượng tiền được rút ra khỏi thị trường: giá càng giảm mạnh, khối lượng giao dịch càng lớn thì tiền rút
ra càng lớn.
3. Ý nghĩa chung
• Khi giá cả đang tăng, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường khan
hiếm. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, khi những người nắm
giữ cổ phiếu cảm thấy được giá thì họ sẽ tìm cách bán ra, sự bán ra của họ gặp đúng nhu cầu hàng
của phe mua khiến cho khối lượng giao dịch thành công tăng cao, tốc độ tăng giá sẽ
hãm lãi hoặc


78
giảm giá. Một trường hợp khác là phe mua vào cảm thấy nếu tiếp tục mua vào với giá cao sẽ nguy
hiểm nên họ chấm dứt việc mua vào, lượng cầu giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không
có sự biến đổi tăng đột biến.
• Khi giá cả đang giảm, khối lượng giao dịch ít phản ánh tình trạng hàng hóa trên thị trường bị coi
rẻ. Khi đến một mức giá nào đó hoặc đến một giai đoạn mùa vụ nào đó, một số nhà đầu tư cảm
thấy được giá hời và muốn mua vào. Nhu cầu của họ gặp lượng cung bán ra lớn trên thị trường
khiến cho khối lượng khớp thành công tăng cao, tốc độ giảm giá chậm lại hoặc tăng giá. Một
trường hợp khác là phe bán ra cảm thấy nếu tiếp tục bán ra sẽ bị hớ nên họ chấm dứt bán ra, lượng
cung giảm khiến cho khối lượng khớp thành công không có sự biến đổi tăng đột biến.
• Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch nhỏ, thị trường ở trạng thái đóng băng. Lúc này
không dễ đoán trước được điều gì.
• Khi giá cả “dập dềnh” với khối lượng giao dịch lớn tiềm ẩn một khả năng về sự thay đổi xu thế
trong tương lai gần nhưng khó dự đoán. Trong trạng thái này cần theo dõi liên tục và thường xuyên
các biến động trạng thái của thị trường dựa trên sự kết hợp với các phương pháp phân tích khác.
Dưới đây là hai ví dụ minh họa vềý nghĩa của khối lượng. Chú ý rằng ví dụ này chỉ minh họa về ý nghĩa

chứ không minh họa về cách sử dụng.
Xét ví dụ về Công ty Cổ phần Dịch vụ Ô tô Hàng Xanh(HAX)

Nhấn để xem kích thước thật
(Nguồn ảnh đồ thị )

• Suốt giai đoạn số 1, giá cả biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch quá nhỏ, nhà đầu tư không
hào hứng nhiều với cổ phiếu này, đường MACD luông sát với đường trung bình động EMA của
chính nó, giai đoạn này khó có thể dự đoán trước được điều gì.
• Trong suốt giai đoạn từ thời điểm số (2) đến thời điểm số (5) là thời điểm giá CP tăng vọt. Xuất
phát từ thời điểm số (2) với sự không hào hứng của nhà đầu tư nên khối lượng giao dịch nhỏ. Tiếp
theo đó với sự tăng giá liên tiếp, nhiều nhà đầu tư găm hàng lại không bán ra nên khối lượng giao
dịch vẫ
n thấp. Đến thời điểm số (3) một số nhà đầu tư cảm thấy được giá liền bán ra gặp đúng cơn
khát của các nhà đầu tư khác nên khối lượng giao dịch lớn, giá vẫn tiếp tục tăng vì cầu vẫn lấn át.


79
Những người có hàng lại tiếp tục găm hàng cho đến thời điểm số (4) thì cảm thấy được giá và lại
bán ra nhưng vẫn bị cầu lấn át. Lúc này khả năng về một sự thay đổi xu thế đã gần kề khi đã hai
lần xảy ra hiện tượng những người có hàng cảm thấy được giá trong đợt tăng giá liên tục này.
• Từ thời điểm số (5) đến số (6) có thể coi là biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn nguy cơ
về sự thay đổi giá khó đoán trước. Trong giai đoạn này nếu quan sát trên MACD sẽ thấy sự tiến sát
đến EMA – 9 của chính MACD và khi hai đường này giao nhau đã khẳng định sự xuống giá.

Xét ví dụ khác về công ty CP Hàng Hải Hà Nội - MHC


Nhấn để xem kích thước thật


(Nguồn ảnh đồ thị )

• Giai đoạn số 1 có thể coi là một giai đoạn biến động dập dềnh với khối lượng lớn tiềm ẩn nguy cơ
khó đoán trước, trong ngắn hạn giai đoạn này được chia thành các kỳ giảm và tăng giá với khối
lượng lớn.
• Giai đoạn số 2 là giai đoạn giảm giá, khối lượng giao dịch nhỏ được kết thúc bằng những cú xốc
lại về khối lượng giao dịch lớn hơn trong những phiên giảm giá cuối cùng. Ở cuối giai đoạn này có
một phiên giá lên với khối lượng lớn hơn các phiên trước, đây là lúc mà một số nhà đầu tư vội
vàng bán ra để giảm lỗ khi thấy có dấu hiệu phụ
c hồi lại.
• Các giai đoạn số (3) và (4) là lúc giá biến động dập dềnh, khối lượng giao dịch nhỏ bởi sự giằng co
giữa phe mua và bán. Giai đoạn này rất khó dự đoán tuy nhiên cần chú ý xu hướng đi xuống.

4. Cách sử dụng chung
Khối lượng giao dịch thành công, khối lượng đặt mua hoặc đặt bán được coi là nhiều hay ít còn tùy thuộc
vào số lượng của cổ phiếu được phát hành trên thị trường và phụ thuộc vào tương quan với khối lượng
giao dịch trong các phiên giao dịch của cổ phiếu đó. Một khối lượng có thể được coi là nhiều đối với cổ


80
phiếu này những cũng có thể ít với khối lượng khác. Hơn nữa sự biến đổi của khối lượng giao dịch mới
tạo thành ý nghĩa nếu dựa vào khối lượng để phân tích, Vì vậy, thông thường, các phương pháp phân tích
dựa trên khối lượng đều dựa vào sự biến đổi khối lượng giao dịch trên thị trường chứ không phụ thuộc vào
một giá trị cụ thể của phân tích. Điều đó có nghĩa là các phương pháp này nhìn nhận vào chiều, hướng của
đồ thị mà không chú ý đến giá trị hiện tại trên đồ thị hoặc nếu có thì giá trị này phải được quy chuẩn.
Dựa theo xu thế của đồ thị, các phương pháp phân tích theo khối lượng sử dụng hai yếu tố trên đồ thị là sự
xuất hiện của các phân kỳ dương/phân kỳ âm và tốc thay đổi đột biến về khối lượng giao dịch trên thị
trường:
• Theo đó một phân kỳ dương xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế tăng giá trên thị
trường, một phân kỳ âm xuất hiện thì phỏng đoán và xác nhận về một xu thế giảm giá trên thị

trường.
• Một sự biến động đột biến về khối lượng giao dịch sẽ phỏng đoán và xác nhận về sự thay đổi xu
thế trên thị trường.
Các phương pháp phân tích về khối lượng cần kết hợp với các phương pháp phân tích khác nhằm tăng
cường tính chính xác, giảm độ trễ trong phỏng đoán và xác nhận về sự xu thế giá cả trên thị trường.
Về cách sử dụng chi tiết sẽ được nêu cụ thể theo từng phương pháp phân tích trong các bài viết tiếp theo.
8 - OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng
Tiếp theo bài viết số 7 đã giới thiệu một số vấn đề cơ bản về khối lượng và các phương pháp phân
tích dựa trên khối lượng; bài viết này sẽ giới thiệu về một phương pháp phân tích đơn giản dựa trên
khối lượng giao dịch trong ngày - chỉ số cân bằng khối lượng (OBV – On balance volume). Phương
pháp này đã được Joe Granville trình bày trong cuốn sách của ông Granville's New Key to Stock Market
Profits xuất bản năm 1963.
Xem trước:
• Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
OBV được định nghĩa tính toán như sau:
Gọi i là giao dịch ngày hôm nay, i – 1 là giao dịch của ngày hôm trước.
• Nếu giá đóng cửa phiên ngày hôm nay cao hơn phiên trước:
OBV
i
= OBV
i – 1
+ khối lượng giao dịch ngày i
• Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay thấp hơn ngày hôm trước:
OBV
i
= OBV
i – 1
- khối lượng giao dịch ngày i

• Nếu giá đóng cửa ngày hôm nay bằng với hôm trước:
OBV
i
= OBV
i – 1



81
Phương pháp phân tích bằng OBV sử dụng phương hướng của OBV trên đồ thị chứ không dựa vào giá trị
cụ thể của OBV, nghĩa là giá trị của OBV không quan trọng. Vì vậy có thể quy ước OBV của thời điểm i
= 0 hoặc i = -1 sử dụng làm gốc đồ thị có giá trị OBV = 0
2. Ý nghĩa
OBV là giá trị tích lũy khối lượng giao dịch thành công trải các phiên: cộng thêm khối lượng giao dịch
nếu tăng giá và trừ đi khối lượng giao dịch nếu giảm giá.
Ý nghĩa của OBV đánh giá sức tăng hoặc giảm của giá dựa trên khối lượng được giao dịch thành công.
Nếu giá tăng nhưng khối lượng giao dịch nhỏ, đồ thị OBV tăng chậm, giá giảm nhưng khối lượng giao
dịch nhỏ, đồ thị OBV giảm chậm. Nếu giá tăng với khối lượng giao dịch lớn OBV tăng mạnh, nếu giá
giảm với khối lượng giao dịch lớn thì OBV giảm mạnh.
Như vậy căn cứ vào sức tăng của OBV và việc hình thành phân kỳ âm hoặc dương của OBV để kết luận
và khẳng định tính chắc chắn của xu thế tăng hoặc giảm giá hiện tại.
Ví dụ về OBV của Chứng chỉ quỹ VF1 – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn:

Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn )
• Tại thời điểm số (1), tuy giá cả đang lên nhưng có sự chững lại về khối lượng giao dịch, OBV tăng
nhẹ không đáng kể, dự đoán thời kỳ thay đổi xu thế sắp bắt đầu.
• Tại thời điểm số (2), giá giảm, khối lượng giao dịch giảm, OBV giảm nhẹ không đáng kể. Đây là
thời điểm ngày 03 và 04/05/2007 khi VF1 thay đổi giá trị phát hành và được cho là “lừa” nhà đầu

tư. Diễn biến thị trường lúc đó số lượng đặt bán tăng rất mạnh nhưng số lượng mua vào ít, giá của
VF1 giảm mạnh nhưng khối lượng giao dịch thành công không lớn.


82

Xét ví dụ khác về OBV của công ty Cổ phần cáp treo núi Bà Tây Ninh TCT – Nguồn đồ thị
www.vietstock.com.vn

Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn )
• Trong giai đoạn từ cuối tháng tư cho đến đầu tháng 6, giá cổ phiếu của TCT liên tục tăng, đồ thị
RSI cho thấy giao dịch của cổ phiếu này ở trạng thái siêu mua. Tuy nhiên OBV tăng rất nhẹ thể
hiện khối lượng giao dịch trên thị trường rất nhỏ. Đây là thời điểm TCT bị nghi đang làm giá:
những người nắm phần lớn cổ phiếu này đặt lệnh mua rấ
t lớn và đặt lệnh bán rất nhỏ giọt nên giá
tăng nhưng khối lượng giao dịch mỗi phiên không lớn, dư mua sau mỗi phiên còn rất nhiều.
3. Sử dụng
Như đã biết sử dụng OBV cần phải dựa vào tính chất lên xuống tăng giảm của OBV chứ không phải dựa
vào giá trị: cụ thể là tính chất phân kỳ âm và phân kỳ dương để xác nhận tăng phần chắc chắn của khẳng
định về xu thế tăng hoặc giảm của giá.
Nếu đồ thị OBV thể hiện một phân kỳ âm trong khi giá đang có xu thế lên, điều này c
ảnh báo về khả năng
thay đổi xu thế của giá sang giảm. Nguyên nhân là các phiên giá giảm có khối lượng giao dịch xen lẫn các
phiên giá tăng có khối lượng giao dịch nhỏ. Điều này có nghĩa là giữa các phiên tăng giá do cầu lớn và
khan hiếm hàng dẫn đến khối lượng giao dịch nhỏ, đã xuất hiện xen kẽ những phiên giảm giá do một số
nhà đầu tư bán ra vì cảm thấy được giá dẫn đến khối lượ
ng khớp lớn. Vậy xu thế tăng giá đã bắt đầu suy
yếu.



83
Nếu đồ thị OBV thể hiện một phân kỳ dương trong khi giá đang có xu thế giảm, điều này cảnh báo về khả
năng thay đổi xu thế của giá sang tăng. Nguyên nhân là các phiên giá tăng có khối lượng giao dịch lớn xen
kẽ các phiên giảm giá có khối lượng giao dịch nhỏ. Điều này có nghĩa là giữa các phiên giảm giá do cung
lớn và bán tháo hàng thừa dẫn đến khối lượng giao dịch nhỏ, đã xuất hiện xen kẽ những phiên tăng giá do
một số nhà đầu tư gom hàng vì cảm thấy giá hời dẫn khối lượng khớp lớn. Vậy xe thế giảm giá đã bắt đầu
suy yếu.
Về vấn đề bán tháo và thu gom khi giá đang lên hoặc giảm, xem lại bài Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề
khối lượng.
Xét ví dụ về giá cổ phiếu của công ty CP Nhựa Bình Minh - BMP – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn:


Nhấn để xem kích thước thật

(Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn)
• Trên đồ thị OBV có sự xuất hiện của phân kỳ dương trong khi trên đồ thị gia thể hiện một xu thế
giá giảm. Điều này cảnh báo về sự xuất hiện trở lại của xu thế giá tăng.
Xét ví dụ về công ty Cổ phần nhựa Đã Nẵng – DNP – Nguồn đồ thị www.vietstock.com.vn:



84

Nhấn để xem kích thước thật
(Nguồn đồ thị: www.vietstock.com.vn )
• Trong giai đoạn giữa tháng 3, phân kỳ âm xuất hiện trên đồ thị giá và đồ thị OBV khẳng định xu
thế giảm của giá.
• Trong giai đoạn cuỗi tháng 3 đầu tháng 4, thể hiện sự biến động dập dềnh của giá.

• Trong giai đoạn giữa tháng 5, phân kỳ dương xuất hiện trên đồ thị giá và đồ thị OBV khẳng định
xu thế tăng của giá.
9 - A/D Line - Đường tích lũy/phân bổ
Sau khi chỉ số cân bằng khối lượng OBV ra đời , Marc Chaikin đã công bố đường tích lũy/phân bổ -
Accumlation/Distribution Line A/D Line như một trong những phương pháp phân tích dựa vào tổng
khối lượng tích lũy qua các phiên. Tuy nhiên khác với OBV chỉ thuần túy dựa khối lượng
, A/D Line
đưa thêm vào một hệ số điều chỉnh căn cứ theo giá đóng cửa qua mỗi phiên nhằm phản ánh chính xác
hơn trạng thái của thị trường bằng sự kết hợp tính toán giữa giá và khối lượng.
Xem trước
• Phân tích kỹ thuật (8): OBV - Chỉ số cân bằng khối lượng
• Phân tích kỹ thuật (7): Vấn đề về khối lượng.
• Phân tích kỹ thuật (1): Tổng quan.
1. Tính toán
Marc Chaikin sử dụng hệ số giá đóng tỷ lệ - Close Location Value CLV làm hệ số điều chỉnh căn cứ theo
giá đóng cửa của cổ phiếu trong mỗi phiên:
CLV = ((C - L) - (H - C)) / (H - L) )

×