Tải bản đầy đủ (.doc) (45 trang)

BÀI THƠ TÂY TIẾN QUANG DŨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.25 KB, 45 trang )

TÂY TIẾN
Quang Dũng
Câu 1: Vài nét về tác giả Quang Dũng ? Giới thiệu về đoàn quân Tây Tiến ? Hoàn
cảnh ra đời bài thơ Tây Tiến ?
a. Tác giả
- Quang Dũng (1921 - 1988), tên khai sinh: Bùi Đình Diệm, (tức Dậu).
- Quê: Đan Phượng, Hà Tây.
- Là nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc
- 2001, được tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ - 1986), Mùa hoa gạo, Tuyển thơ văn Quang Dũng
(1988)
b. Giới thiệu đoàn quân Tây Tiến
- Thành lập đầu năm 1947. Quang Dũng là đại đội trưởng.
- Thành phần: đa số là thanh niên Hà Nội, trong đó có sinh viên và học sinh.
- Nhiệm vụ: phối hợp với bộ đội Lào, đánh tiêu hao lực lượng Pháp ở Thượng Lào, miền
- Tây Bắc bộ Việt Nam, góp phần bảo vệ biên giới Lào - Việt.
- Địa bàn hoạt động: khá rộng, gồm Sơn La, Hòa Bình, Sầm Nứa (Lào) vòng về miền tây
Thanh Hóa.
- Điều kiện chiến đấu gian khổ: núi cao, vực thẳm, rừng dày, thú dữ, sốt rét hoành hành.
c. Hoàn cảnh ra đời bài thơ: 1948, đơn vị Tây Tiến giải thể, thành lập trung đoàn 52.
Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Bài thơ được sáng tác tại Phù Lưu
Chanh sau khi rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu. Lúc đầu có tên Nhớ Tây Tiến, sau khi in lại
trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi tên thành Tây Tiến.

Câu 2: Phân tích bài thơ Tây Tiến.

Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn là niềm lạc quan, yêu đời, đạp bằng tất cả những gian khổ, hi sinh
mất mát, hướng về tương lai hi vọng, trông chờ.
Cảm hứng bi tráng (bi hùng): bi là đau thương, hùng là hào hùng, nghĩa là vừa bi
thương lại vừa hào hùng.


1. Khổ 1 ( Sông Mã nếp xôi)

Bài thơ mở đầu bằng hai câu thơ gợi nhớ gợi thương:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
•- Vần "ơi", kết hợp từ láy "chơi vơi" là vần bằng tạo âm hưởng của tiếng
gọi đồng vọng miên man không dứt, câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người
vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Nỗi nhớ như có hình
dáng của núi non, của hồn cây, vách đá, con sông.
•- Tác giả gọi tên con Sông Mã đầu tiên trong nỗi nhớ của mình. Vì con
sông Mã là người bạn, là nhân chứng đã theo suốt bước chân quân hành, chứng kiến biết
bao buồn vui, bao mất mát, hi sinh, vất vả của người lính TT. Gọi tên TT là gọi tên đồng
đội, gợi nhớ bạn bè.
•- Điệp từ "nhớ" được nhắc lại hai lần góp phần tô đậm cảm xúc nhớ
nhung dâng trào của tác giả.
Dẫn chứng minh họa thêm: Thơ ca VN khi nói về nỗi nhớ có nhiều cách diễn tả:
Ca dao có câu:
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Diễn tả tình cảm cách mạng, Tố Hữu có câu:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhưng đến Quang Dũng thì nỗi nhớ sáng tạo hơn cả - nhớ chơi vơi. Chơi vơi là trạng thái
trơ trọi giữa khoảng không rộng, không thể bấu víu vào đâu cả. Nhớ chơi vơi có thể hiểu
là một mình giữa thế giới hoài niệm mênh mông, bề bộn, không đầu, không cuối, không
thứ tự thời gian, không gian. Đó là nỗi nhớ da diết, miên man, bồi hồi làm cho con người
có cảm giác đứng ngồi không yên. Và nỗi nhớ ấy, tiếng gọi ấy đang đưa nhà thơ về với
những kỉ niệm không quên của một thời gian khổ.
•· Đó là nỗi nhớ về cuộc hành quân giữa núi rừng miền Tây vừa hùng vĩ lại vừa thơ
mộng trữ tình được cảm nhận bằng cảm hứng lãng mạn và tâm hồn lãng mạn hào hoa.

•- Tác giả gợi nhắc nhiều địa danh xa lạ: Sài Khao, Mường lát, Pha Luông, Mường
Hịch, Mai Châu gợi bao cảm xúc mới lạ, tác giả như đưa người đọc lạc vào những địa
hạt heo hút, hoang dại để từ đó dõi theo bước chân quân hành của người lính.
•- 6 câu thơ tiếp theo " Sài khao xa khơi" diễn tả thật đắc địa sự hùng vĩ của núi
rừng miền Tây. 6 câu thơ này là bằng chứng đặc sắc của "thi trung hữu họa" (trong thơ có
họa):
Cụ thể:
Con đường hành quân thật gian nan, vất vả, nguy hiểm với dốc cao, vực thẳm:
Sài Khao sương
Mường Lát
+ Trên đỉnh Sài Khao, sương dày đến độ lấp cả đoàn quân. Đoàn quân hành quân trong
sương lạnh giữa núi rừng trùng điệp mệt mỏi rã rời. Tuy vậy họ vẫn thấy con đường hành
quân thật đẹp và thơ mộng: đi trong sương, trong hoa đêm hơi.
Dốc lên
Heo hút
Ngàn thước
Nhà ai
+ Đường đi toàn dốc cao được diễn tả với nhiều từ láy tạo hình "khúc khuỷu" (quanh co
khó đi), "thăm thẳm" (diễn tả độ cao, độ sâu), "heo hút" (xa cách cuộc sống con người).
Câu thơ sử dụng nhiều thanh trắc đi liền nhau "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm" (bảy
chữ mà đã có tới 5 chữ là thanh trắc) khiến khi đọc lên ta có cảm giác trúc trắc, mệt mỏi
như đang cùng hành quân với đoàn binh vậy.
+ Đỉnh núi mù sương cao vút. Núi cao tận mây, mây nổi thành cồn, mũi súng chạm trời.
Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: "súng ngửi
trời" giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định
chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới "Khó khăn nào
cũng vượt qua - Kẻ thù nào cũng đánh thắng!". Chính vì chất lính trẻ trung ấy mà trước
thiên nhiên dữ dội người lính TT không bị mờ đi mà nổi lên đầy thách thức.
+ Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: "ngàn thước lên cao, ngàn
thước xuống". Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không

dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: "Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống",
làm câu thơ như bẻ đôi, diễn tả con dốc với chiều cao, sâu rợn ngợp: nhìn lên cao chót
vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng
hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ - chiến sĩ.
+ Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi". Câu thơ được dệt
bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát của tâm hồn những người
lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người
chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và
yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ
gìn.
+ Sự dữ dội của núi rừng cũng vắt kiệt sức người: "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/
Gục lên súng mũ bỏ quên đời". Cái chết đậm chất bi hùng: Chết trong tư thế đẹp, ôm
chắc cây súng trong tay sẵn sàng chiến đấu, không quên nhiệm vụ của người lính. Hiện
thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương
máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút
bi luỵ, thảm thương.
+ Ta trở lại đoạn thơ trên, gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là
mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại
ngàn hoang vu:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"
"Chiều chiều " rồi "đêm đêm" nhưng âm thanh ấy, "thác gầm thét", "cọp trêu người",
luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất
hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô
đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong
tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân
vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm
xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn

Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm

tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
"Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi"
"Nhớ ôi!" tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến "đoàn binh không
mọc tóc". Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với "cơm lên khói", với
"mùa em thơm nếp xôi" có bao giờ quên? Hai tiếng "mùa em" là một sáng tạo độc đáo về
ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển,
mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp.
"Nhớ mùi hương", nhớ "cơm lên khói", nhớ "thơm nếp xôi" là nhớ hương vị núi rừng
Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu. Mười bốn
câu thơ trên đây là phần đầu bài "Tây Tiến", một trong những bài thơ hay nhất viết về
người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên
đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với
niềm kiêu hãnh
" Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh ".
Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công là kết hợp hài
hòa giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ " Tây Tiến của Quang Dũng ngày một thêm sáng giá.

2. Khổ 2 ( Doanh trại đong đưa)

Bốn câu đầu: (chép vào) đêm liên hoan văn nghệ đậm tình quân dân.
+ Từ " Bừng lên" gợi cảm giác ấm áp, gợi niềm vui lan tỏa. Đêm rừng núi thành đêm hội,
ngọn đuốc nứa, đuốc lau thành "đuốc hoa" ("Đuốc hoa" là hoa chúc - cây nến đốt lên
trong phòng cưới, đêm tân hôn.)gợi không khí ấm cúng. "Bừng" chỉ ánh sáng của đuốc
hoa, của lửa trại sáng bừng lên; cũng còn có nghĩa là tiếng khèn, tiếng hát, tiếng cười
tưng bừng rộn rã.
+ Từ "kìa em" thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của cô gái vùng cao trong
trang phục "xiêm áo" lộng lẫy cùng dáng vẻ "e ấp" rất thiếu nữ. Những thiếu nữ Mường,
những thiếu nữ Thái, những cô gái Lào xinh đẹp, duyên dáng "e ấp", xuất hiện trong bộ

xiêm áo rực rỡ, cùng với tiếng khèn "man điệu" đã "xây hồn thơ" trong lòng các chàng
lính trẻ.Cũng có thể hiểu người lính đang đóng giả con gái trong những trang phục dân
tộc rất độc đáo, tạo tiếng cười vui cho đêm văn nghệ. Họ càng yêu đời hơn, yêu đất bạn
hơn " Nhạc về "
+ Không chỉ thế người lính còn mải mê, say trong tiếng nhạc, điệu khèn của vùng đất lạ.
4 câu sau: Cảnh sông nước Tây Bắc vừa thực vừa mộng :hoang vắng, tĩnh lặng, buồn thi
vị.
Thời gian: chiều sương ấy, gợi màu sắc bảng lảng, sương khói vừa có nỗi buồn man mác.
Sông nước hoang dại, bên bờ lau lách, hoa rừng đong đưa. Hình ảnh "hoa đong đưa" là
một nét vẽ lãng mạn gợi tả cái "dáng người trên độc mộc" trôi theo thời gian và dòng
hoài niệm. Đoạn thơ gợi lên một vẻ đẹp mơ hồ, thấp thoáng, gần xa, hư ảo trên cái nền
"chiều sương ấy". Cảnh và người được thấy và nhớ mang nhiều man mác bâng khuâng.
Bút pháp, thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn để lại dấu ấn tài hoa qua đoạn thơ này.

+ Dáng người mềm mại của cô gái Thái, Mèo trên chiếc thuyền độc mộc hay dáng người
hùng dũng, hiên ngang của người lính đang đưa con thuyền tiến về phía trước càng làm
cho bức tranh thêm phần thơ mộng.
"Có nhớ", "có thấy" luyến láy, khắc họa thêm nỗi nhớ: lưu luyến, bồi hồi.
Nghệ thuật: ngôn ngữ thơ mộc mạc, giản dị, hồn thơ mang đậm chất lãng mạn, hào hoa.
3. Khổ 3

Hình tượng người lính Tây Tiến bi thương, hào hùng, lãng mạn.

Giữa nền thiên nhiên khắc nghiệt, hình ảnh người lính hiện lên thật kì dị: Quang Dũng đã
dùng những hình ảnh rất hiện thực để tô đậm cái phi thường của người lính.
Bi thương: Ngoại hình ốm yếu, tiều tụy, đầu trọc, da dẻ xanh như màu lá. Đoàn quân
trông thật kì dị: " TT đoàn binh oai hùm".
Đó là hậu quả của những ngày hành quân vất vả vì đói và khát, của những trận sốt rét ác
tính làm tóc rụng không mọc lại được, da dẻ héo úa như tàu lá.
Dẫn chứng minh họa thêm:

Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má
Anh vệ
Sao mà
(TH)
Tôi với anh
Sốt run
Hào hùng: thủ pháp nghệ thuật đối lập, giữa ngoại hình ốm yếu và tâm hồn mạnh mẽ:
Đoàn binh không mọc tóc", " Quân xanh màu lá", tương phản với " dữ oai hùm". Cả ba
nét vẻ đều sắc, góc cạnh hình ảnh những " Vệ túm", "Vệ trọc" một thời gian khổ đươc nói
đến một cách hồn nhiên. Quân phục xanh màu lá, nước da xanh và đầu không mọc tóc vì
sốt rét rừng, thế mà quắc thước hiên ngang, xung trận đánh giáp lá cà " dữ oai hùm" làm
cho giặc Pháp kinh hồn bạt vía. " "Đoàn binh" gợi lên sự mạnh mẽ lạ thường của " Quân
đi điệp điệp trùng trùng", của "tam quân tì hổ khí thôn ngưu" (sức mạnh ba quân nuốt trôi
trâu) . Ba từ " dữ oai hùm", gợi lên dáng vẻ oai phong lẫm liệt, oai của chúa sơn lâm,
người lính TT vẫn mạnh mẽ làm chủ tình hình, làm chủ núi rừng, chế ngự mọi khắc
nghiệt xung quanh, đạp bằng mọi gian khổ. "mắt trừng" dữ tợn, căm thù, mạnh mẽ, nung
nấu quyết đoán làm kẻ thù khiếp sợ.
Tâm hồn Lãng mạn: Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng
gọi của non sông mà còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn
rung động trong một nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng
Long xưa. Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô.
Người lính dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về
HNội, về quê hương.
4 câu cuối ngời lên vẻ đẹp lí tưởng:
+ Câu " rải rác " toàn từ Hán Việt gợi không khí cổ kính. Miêu tả về cái chết, không né
tránh hiện thực. Những nấm mồ hoang lạnh mọc lên vô danh nhưng không làm chùn
bước chân Tây Tiến. Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng
không hề nhấn chìm người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi
chìm vào cái bi thương lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng

mạn. Chính vì vậy mà hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới
xa xôi đã bị mờ đi trước lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến.
+ Tinh thần chiến đấu " Chiến trường ". Ba từ "chẳng tiếc đời xanh " vang lên vừa gợi
vẻ bất cần đồng thời mang vẻ đẹp thời đại " Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh", cống hiến
trọn đời vì độc lập tự do của đất nước của dân tộc.
Dẫn chứng thêm:
- Ôi tổ quốc
Như mẹ cha
Ôi TQ
Cho mỗi
Hình ảnh ấy làm ta liên tưởng tới vẻ đẹp của những tráng sĩ thời xưa ví như Thái Tử Kinh
Kha sang đất Tần hành thích Tần Thủy Hoàng cũng mang tinh thần:Tráng sĩ một đi
không trở về
Kết luận: Không chỉ mang vẻ đẹp của thời đại mà ở người lính TT còn phảng phất vẻ đẹp
của tinh thần hiệp sĩ.
Coi nhẹ cái chết: " Áo bào độc hành"
Hiện thực: Người lính chết không có manh vải liệm chỉ có manh chiếu bọc thân nhưng
vẫn xem cái chết nhẹ như lông hồng. Câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực
mà đẩy lên thành cảm hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang
nghiêm, cổ kính. QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương bằng hình ảnh chiếc áo
bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất nước, với núi sông. Cụm
từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính, nói về cái bi thương
nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Chết là về với đất mẹ "Người hi sinh đất hồi sinh/ máu
người hóa ngọc lung linh giữa đời".Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu thơ đầy tính chất
tráng ca "Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Sông Mã tiễn đưa bằng bản nhạc của núi rừng đượm chất bi tráng như loạt đại bác đưa
tiễn những anh hùng về với non sông tổ quốc.

Nghệ thuật: sử dụng nhiều từ Hán Việt gợi sắc thái cổ kính, trang nghiêm. Lời thơ
hàm súc vừa đượm chất hiện thực vừa gợi chất hào hùng, bi tráng.

4. Khổ cuối
Lời thề son sắt thể hiện tinh thần " Nhất khứ bất phục hồi" - Một đi không trở về.
"Tây tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi "
Bốn câu thơ khép lại một cảm xúc bâng khuâng làm lòng ta nao nao khó tả. Chàng trai
Tây tiến, khi ra đi đều không ước hẹn ngày về, đều sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn "quyết
tử cho tổ quốc quyết sinh". Vì vậy Cái chết với họ nào có là gì khi Hồn ta hoà vào hồn
thiêng của toàn dân tộc, bay lên, bay lên mãi, "chẳng về xuôi".
"Không hẹn ước" rồi lại "thăm thẳm một chia phôi". Quang Dũng khẳng định cái ý
niệm "nhất khứ bất phục hoàn" trong hình ảnh anh bộ đội Tây Tiến, cũng là cái ý niệm
chung cả một thời kỳ, một thế hệ con người. Đã nói nhiều điều về Tây Tiến, đã nhắc lại
nhiều kỷ niệm về Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu nhất, bền vững nhất về Tây
Tiến là cái tinh thần ấy. Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn, nhưng ý thơ thì vẫn hào hùng.
"Tây Tiến mùa xuân ấy" đã trở thành cái thời điểm một đi không trở lại của lịch sử nước
nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở gian khổ và thiếu thốn đến dường ấy nhưng
cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.
Một số đề bài về Tây tiến - Quang Dũng
ĐỀ 1: Phân tích bốn câu thơ cuối bài thơ “Tây Tiến”.

1. Mở bài:
- Giới thiệu ngắn gọn hoàn cảnh ra đời.
- Qua nỗi nhớ da diết của nhà thơ về đồn quân Tây Tiến, ta thấy hiện lên hình ảnh người
chiến sĩ: gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng trước những khó khăn gian khổ; chiến đấu
kiên cường, bất khuất, sẵn sàng hi sinh vì lí tưởng và lúc nào cũng phơi phới lạc quan.
- Đây là bốn câu kết bài thơ (ghi bốn câu thơ) được viết theo những dòng chữ ghi vào mộ
chí. Đó cũng là lời thề quyết tâm của các chiến sĩ Tây Tiến “Quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”.
2. Thân bài:

a. Hai câu đầu: “Tây Tiến người đi… chia phôi”
- Người chiến sĩ ra đi với quyết tâm sắc đá, có chí lớn, quyết lập được chiến công như
người chiến sĩ trong bài thơ “Tống biệt hành” của Thâm Tâm:
“Li khách! Li Khách con đường nhỏ
Chí nhớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giớ nói trở lại
Ba năm mẹ già cũng đừng mong”
- “Không hẹn ước”, rồi lại “thăm thẳm một chia phôi”, Quang Dũng khẳng định cái ý
niệm “Nhất khứ bất phục hòan” trong hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến cũng là cái ý
niệm của chung cả một thời kì, một thế hệ con người. Đã nói nhiều đến Tây Tiến, đã nhắc
lại nhiều kỉ niệm Tây Tiến, nhưng cuối cùng cái đọng lại sâu sắc nhất bền vững nhất về
Tây Tiến vẫn là cái tinh thần ấy, Giọng thơ trầm, chậm, hơi buồn nhưng ý thơ thì vẫn hào
hùng.
b. Câu 3 “ Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”.
Mùa xuân:
+ Thời điểm thành lập đòan quân Tây Tiến
+ Mùa xuân của đất nước
+ Mùa xuân (của tuổi trẻ) đời của các chiến sĩ đã trở thành cái thời điểm một đi
không trở lại của lịch sử nước nhà. Sẽ không bao giờ còn có lại cái thuở và thiếu thốn đến
dường ấy nhưng cũng lãng mạn và hào hùng đến dường ấy.
c. Câu 4 : “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”:
- “Chẳng về xuôi” nghĩa là bỏ mình trên đường hành quân.
- “Hồn về Sầm Nứa” chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến
với quân dân Lào chống Pháp, họ quyết tâm thực hiện lí tưởng ấy đến cùng. Cho nên, dù
ngã xuống trên đường hành quân, nhưng hương hồn (anh linh) vẫn đi cùng đồng đội,
sống trong lòng đồng đội. Tứ thơ này nâng chất sử thi của bài thơ.
3. Kết bài: Đó là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ, dũng cảm, không sờn lòng….
Đến lúc chết vẫn giữ lời thề, họ là những người đau thương mà không bi lụy, mất mát mà
vẫn tràn đầy niềm tin.
Đề 2: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến bài thơ:

1. Mở bài:
2. Thân bài:
- Vẻ đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến:
+ Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, có bóng dáng của các tráng sĩ
thời xưa nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ . Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh
liệt với quê hương đất nước, tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến
đấu gian khổ.
+ Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh
gian khổ của người lính được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi
luỵ
- Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa, lãng mạn:
+ Không chỉ ở dáng vẻ “oai hùm” phóng túng mà luôn thăng hoa trong tâm hồn,
trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh.
+ Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời mà hoà nhập vào nhau tạo nên
một vẻ đẹp vừa lí tưởng vừa hiện thực của hình tượng thơ.
- Vẻ đẹp hình tượng người lính
+ Yêu cầu về kiến thức: học sinh có thể cảm nhận trình bày theo nhiều cách nhưng phải
đảm bảo những nội dung sau:
sáng vẻ đẹp cuộc đời chiến đấu gian khổ.
- Vẻ đẹp người lính không tách rời với nỗi đau chiến tranh ác liệt. Sự hi sinh đã được
biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương nhưng không bi lụy.
- Vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, hào hoa
+ Lí giải nguyên nhân tạo nên sự nét khác biệt giữa hình tượng người lính trong “Tây
Tiến” so với người lính trong “Đồng chí” của Chính Hữu.
+ Vẻ đẹp lãng mạn được bộc lộ không phải chỉ có dáng vẻ “oai hùm”, phóng túng mà
luôn thăng hoa trong tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa cảnh tàn
khốc của chiến tranh.
- Chất lãng mạn và chất anh hùng không tách rời, không mâu thuẫn với nhau mà thẩm
thấu, hòa nhập làm một để tạo nên vẻ đẹp vừa lí tưởng, vừa hiện thực của hình tượng thơ.
Đây là đóng góp lớn của Quang Dũng trong cách biể hiện hình tượng người lính trong

thơ ca kháng chiến.
3. Kết bài
*Tham khảo thêm
Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng
Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ
ông viết ít nhưng lưu được ấn tượng sâu trong lòng người đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài
hoa. Viết về đề tài người lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến”
“Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một
thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã
từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng
chiến. Tất cả những điều ấy được thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính.
Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như những thước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu
của người lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những người lính Tây Tiến cùng
những kỷ niệm ấm tình quân dân.
Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong
bài thơ nh một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và
mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua, những
kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng
thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi
vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được nó lửng
lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con người, khiến con người như sống trong cõi mộng. Chữ
“chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng.
Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa
xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai
Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít người từ
Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy
nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên.
Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những người lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một
mái trường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn tượng sâu đậm nhất về Tây
Tiến trong họ lẽ đương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa

hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”.
Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với
tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đường hành quân hiểm trở, gập
ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như cũng khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi
khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đường mà người
lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng người in trên những cồn mây, đến mức
“súng ngửi trời”
Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm
trời thì ta mới chỉ thấy được cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa
một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian
khổ của người lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến được
nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng
mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta
cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn
thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau
điệp lại ý của câu trước nhưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho người đọc khó phát
hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp
vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những người lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vượt
qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những người lính.
Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có được một phần chính về bức tranh của
thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần
lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng
nhọc, mệt mỏi của người lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc
ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông
mưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến.
Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ
giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên
Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nhưng đầy thơ mộng. Chất tài
hoa của Quang Dũng được thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mưa rừng mà
tạo cảm giác đứng trước biển lại người lên vẻ đẹp của người lính chân đứng trên dốc cao

đầu gội trong mưa lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ
tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa.
Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con
người. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can trường trong
dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt quá sức chịu đựng khiến cho người lính đã gục
ngã, nhưng gục ngã trên tư thế hành quân.
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục trên súng mũ bỏ quên đời”
Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như không. Dường như người lính Tây Tiến chỉ bỏ
quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và bước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy.
Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày
chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó
nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa tr-
ương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nh-
ưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi.
Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình Với những từ “oai linh”,
“gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và
những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm
cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ.
Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp
tình quân dân.
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh
những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng
cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất
hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ

ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm
xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của
đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh.
Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn
thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông.
Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang
Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến.
Đoạn 2. Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa
Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và
con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền
thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức
cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của
Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng:
Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
“Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng
lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu.
Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của
Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa
có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh.
“Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng,
người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát
ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của
Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho ngư-
ời đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung
điểm của mọi điểm nhìn.
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
“Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang
tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô
gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục.
Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng

tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên tr-
ước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ
thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc.
Khèn lên man điệu nàng e ấp.
Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến
vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái
lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man
điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc như được chứng kiến
những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên
dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi
sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm
và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không
khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực
sự ngất ngây trước người và cảnh.
Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới
thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo:
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.
Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của
khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền
cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa.
Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái
hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút.
Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang
dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn.
Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau
đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện:
Có nhớ dáng ngời trên độc mộc

Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc
thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm
say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm duyên với người.
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa
Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với
người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn
của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi
nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây
Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ
Tây Bắc ngấm vào hồn.
Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà
thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và
yêu Tây Bắc.
Đoạn 3: Người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa
Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba
của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn
thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung ng-
ười lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tư-
ởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy
màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường.
Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng
mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng
để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào
hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh,
đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn:
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn
quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng
“Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm

yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn
đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như
là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính
tráng.
Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của
cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét
rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy
là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương
phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến.
Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
“Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù
qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây
người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ
“không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính
sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính
vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của
người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về
phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là h-
ướng về phía trớc, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc
mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của
những chàng trai Tây Tiến.
Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những
người chiến binh:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gần lên khúc độc hành.
“Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác

trên đường hành quân, nhng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ
sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết:
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông
hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc
ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu
“áo bào thay chiếu anh về đất”
Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ
đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh
“áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo
bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại thiếu thốn
gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết
giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của
người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi
hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chởche của đất
mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái
chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa.
Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn
quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng
kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người
tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu
thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát
đau thương mà vẫn hùng tráng.
Bốn câu kết:
Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy
cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân.
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy”
“Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa

xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ.
Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành
quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác
chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi
vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với
đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình
Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”.
ĐỀ 3: Cảm nhận của anh chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong
đoạn: " Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Sông Mã gầm lên khúc độc
hành" (Quang Dũng, Tây Tiến)
1. Mở bài
- Tây Tiến là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Quang Dũng. Bài thơ được Quang Dũng
viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
- Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào đầu năm 1947. Những người lính Tây Tiến
phần đông là thanh niên Hà Nội thuộc nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả học sinh,
sinh viên.
- Đoạn thơ cần phân tích là đoạn thứ ba của bài thơ, trong đó Quang Dũng đã khắc họa
hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn, thấm đẫm tinh
thần bi tráng.
2. Thân bài
a. Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến :Hình tượng tập thể những người lính Tây
Tiến được xây dựng bằng bút pháp lãng mạn với khuynh hướng tô đậm những cái phi
thường, sử dụng rộng rãi thủ pháp đối lập để tác động mạnh vào cảm quan người đọc,
kích thích trí tưởng tượng phong phú của người đọc.
- Trong bài thơ, Quang Dũng đã tạo được một không khí, chuẩn bị cho sự xuất hiện trực
tiếp của những người lính Tây Tiến ở đoạn thơ thứ ba này. Trên cái nền hoang vu hiểm
trở vừa hùng vĩ vừa dữ dội khác thường của núi rừng (ở đoạn một), và duyên dáng, mĩ lệ,
thơ mộng của Tây Bắc (ở đoạn hai), đến đoạn thơ thứ ba, hình ảnh những người lính Tây
Tiến trực tiếp xuất hiện với một vẻ đẹp độc đáo và kì lạ :
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
- Quang Dũng đã chọn lọc những nét tiêu biểu nhất của những người lính Tây Tiến để tạc
nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát những gương mặt chung của cả đoàn quân. Qua
ngòi bút của ông, những người lính Tây Tiến hiện ra đầy oai phong và dữ dội khác
thường. Thực tế gian khổ thiếu thốn đã làm cho người lính da dẻ xanh xao, sốt rét làm họ
trụi cả tóc. Quang Dũng không hề che giấu những sự thực tàn khốc đó. Song, cái nhìn
lãng mạn của ông đã thấy họ ốm mà không yếu, đã nhìn thấy bên trong cái hình hài tiều
tụy của họ chứa đựng một sức mạnh phi thường. Và ngòi bút lãng mạn của ông đã biến
họ thành những bức chân dung lẫm liệt, oai hùng. Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét
của những người lính, qua cái nhìn của ông, vẫn toát lên cái oai phong của những con hổ
nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện quan ánh mắt giận dữ
(mắt trừng gửi mộng) của họ
- cái nhìn nhiều chiều của Quang Dũng đã giúp ông nhìn thấy xuyên qua cái vẻ oai hùng,
dữ dằn bề ngoài của những người lính Tây Tiến là những tâm hồn còn rất trẻ, những trái
tim rạo rực, khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm). Như vậy, trong bốn
câu thơ trên, Quang Dũng đã tạc lên bức tượng đài tập thể những người lính Tây Tiến
không chỉ bằng những đường nét khắc họa dáng vẻ bề ngoài mà con thể hiện được cả thế
giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ của họ.
b. Chất bi tráng của hình tượng người lính Tây Tiến :
- Khi viết về những người lính Tây Tiến, Quang Dũng đã nói tới cái chết, sự hi sinh
nhưng không gây cảm giác bi lụy, tang thương. Cảm hứng lãng mạn đã khiến ngòi bút
ông nói nhiều tới cái buồn, cái chết như là những chất liệu thẩm mỉ tạo nên cái đẹp mang
chất bi hùng:
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
- Khi miêu tả những người lính Tây Tiến, ngòi bút của Quang Dũng không hề nhấn chìm
người đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng của ông mỗi khi chìm vào cái bi thương
lại được nâng đỡ bằng đôi cánh của lí tưởng, của tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà
hình ảnh những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên giới xa xôi đã bị mờ đi trước
lí tưởng quên mình vì Tổ quốc của người lính Tây Tiến. Cái sự thật bi thảm những người

lính Tây Tiến gục ngã bên đường không có đến cả mảnh chiếu che thân, qua cái nhìn của
nhà thơ, lại được bọc trong những tấm ào bào sang trọng. Và rồi, cái bi thương ấy bị át
hẳn đi trong tiếng gầm thét dữ dội của dòng sông Mã :
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
Cái chết, sự hi sinh của những người lính Tây Tiến được nhà thơ miêu tả thật trang trọng.
Cái chết ấy đã tạo được sự cảm thương sâu sắc ở thiên nhiên. Và dòng sông Mã đã trân
trọng đưa tiễn linh hồn người lính bằng cách tấu lên khúc nhạc trầm hùng
- Tóm lại, hình ảnh những người lính Tây Tiến trong đoạn thơ này thấm đẫm tính chất bi
tráng, chói ngời vẻ đẹp lí tưởng, mang dáng vẻ của những anh hùng kiểu chinh phu thuở
xưa một đi không trở lại.
3. Kết bài- Tây Tiến là sự kết tinh những sắc thái vừa độc đáo vừa đa dạng của
ngòi bút Quang Dũng. Nhà thơ đã sáng tạo được hình tượng tập thể những người lính Tây
Tiến, miêu tả được vẻ đẹp tinh thần của những con người tiêu biểu cho một thời kì lịch sử
một đi không trở lại.
- Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã miêu tả thành công hình ảnh người lính. Và Quang
Dũng, qua bài thơ Tây Tiến nổi tiếng của mình, đã góp vào viện bảo tàng hình ảnh những
người lính đó bức chân dung người lính Tây Tiến rất độc đáo của mình.
ĐỀ 4: Phân tích tâm trạng của tác giả khi nhớ về miền
tây Bắc Bộ và những người đồng đội trong đoạn "Sông Mã xa rồi Tây Tiến
ơi ! Mai Châu mùa em thơm nếp xôi." (Tây Tiến, Quang Dũng)
Giữa cái bộn bề của thị trường thơ hôm nay, lật trang sách cũ, gặp Tây Tiến của Quang
Dũng, chợt xôn xao cõi lòng theo những vần thơ đượm màu kiêu bạc hào hoa: Sông Mã
xa rồi Tây Tiến ơi
Thơ hay có sức rung động mãnh liệt là vậy. Không cần tỉ mẩn bóc từng câu từng chữ mà
thấm vào lòng người sự rung cảm chân thật đến run rẩy từng làn da thớ thịt. Tây Tiến đã
thực sự chinh phục người đọc bằng tâm trạng của người trai ra đi cứu nước trong buổi
đầu kháng chiến – với tâm tư in bóng trong dáng hình sông núi:
”Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi ”
Cảnh ấy cũng là tình. Cũng là sương, là hoa, là mây, là mưa những chi tiết thường gặp
trong thơ cổ – nhưng còn đượm thêm không khí trầm hùng của thời đại được diễn tả bằng
những từ ngữ, thanh điệu khi đọc lên ta cảm thấy ngang tàng. Hình ảnh của một đoàn
quân mỏi đi trong cái khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, giữa cái bồng bềnh sương khói
chơi vơi được tác giả phác hoạ bằng những nét chấm phá tài tình. Con mắt thơ không
dừng lại ở trong không gian rừng núi mà còn mở ra một không gian – tâm trạng của một
hồn thơ chiến sĩ. Phảng phất một chút Lý Bạch trước Hoàng Hà – ngút ngát chí tang bồng
của người trai thời loạn. Trong gian nan của người chiến sĩ Tây Tiến, ta vẫn gặp chút
hóm hỉnh ở hình ảnh súng ngửi trời. Chạm mặt với thực tế khắc nghiệt – song chất hào
hoa lãng tử không mất đi mà lại càng được tô đậm thêm, chân thật sống động trong
những câu thơ đượm tình quê, tình đồng đội, tình quân dân. Một hiện thực về người lính
Tây Tiến – anh Bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu chiến đấu gian khổ. Đó là cơn mưa
gợi nỗi nhớ nhà sâu thẳm, là sợi khói cơm thơm quyện chặt tình người, một bóng hình
đong đưa làm xao xuyến những trái tim trai trẻ Bài thơ có nói đến hy sinh, mất mát,
gian khổ nhưng cảm xúc hào hùng của lớp người “ra đi bảo tồn sông núi” đã lấn át cái bi
luỵ buồn thương. Đoàn binh Tây Tiến trong thơ Quang Dũng như một sự kết tụ của tráng
khí muôn đời, pha chút lãng mạn kiểu Kinh Kha “một đi không trở lại”. Phải chăng với
tinh thần “coi cái chết nhẹ tựa lông hồng” mà toàn bài thơ mặc dù có nói đến chết chóc
nhưng giọng điệu rất bình thản: anh về đất? Phải chăng khi xác định chiến trường đi
chẳng tiếc đời xanh, người chiến sĩ đã nhận ra mục đích của cuộc chiến đấu còn lớn hơn
gấp vạn lần những gian khổ , hy sinh? Bài thơ không cường điệu hoá cảm xúc dẫu trong
âm điệu gân guốc, khoẻ khoắn của toàn bài có những từ ngữ mang hơi hướng cổ điển như
xiêm áo, dữ oai hùm, mồ viễn xứ, áo bào, khúc độc hành và cách diễn đạt tưởng chừng lạ
lẫm tràn ngập không khí lãng mạn. Nếu chỉ chăm chăm đi tìm chất thép trong bài thơ
theo quan điểm xã hội học thiển cận thì chẳng khác nào cầm dao đâm vào cái đẹp. Cái

đẹp của bài thơ viết ra từ lửa máu đã làm rung lên những cảm xúc đồng điệu của bao thế
hệ. Nhà thơ Trần Lê Vân, người bạn thân, đã từng sống nhiều năm, từng in thơ chung với
Quang Dũng viết về hòan cảnh Quang Dũng sáng tác bài thơ Tây Tiến như sau: “Đòan
quân Tây Tiến, sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về thành lập trung đòan 52. Đại đội
trưởng Quang Dũng ở đó đến cuối năm 1948 rồi được chuyển sang đơn vị khác. Rời xa
đơn vị cũ chưa bao lâu, ngồi ở Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), anh
viết bài tho Tây Tiến.”
Muốn hiểu được bài thơ Tây Tiến, truớc hết cần phải có những hiểu biết về đoàn quân
Tây Tiến cùng với địa bàn hoạt động của nó. Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang
Dũng gia nhập đoàn quân Tây Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có
nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào-Việt, đánh tiêu hao địch ở
Thượng Lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Địa bàn
hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam
và Thuợng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa rồi vòng về qua miền tây
Thanh Hóa. Những nơi này, lúc đó còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng
dày, có nhiều thú dữ. Những người lính Tây Tiến phần đong là thanh niên Hà Nội, thuộc
nhiều tầng lớp khác nhau, trong đó có cả những học sinh, sinh viên. Sinh hoạt của những
người lính Tây Tiến hết sức gian khổ, ốm đau không có thuốc men, tử vong vì sốt rét
nhiều hơn vì đánh trận, tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.
Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt của chiến tranh và hòan cảnh sống cực kì gian
khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ Tây Tiến có hai đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng. Cảm
hứng lãng mạn thể hiện ở cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc của nhà thơ. Nó phát huy cao độ
trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu và phóng đại, những thủ pháp
đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt
mĩ. Thiên nhiên Tây Bắc, qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ
đẹp vừa đa dạng vừa độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh
những cô gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của
núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẳn
sàng xả thân, hy sinh tất cả cho lý tưởng chung của cộng đồng, của tòan dân tộc. Tây

Tiến không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không lụy. Cái bi được thể hiện bằng một
giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hòa hợp với chất bi
tráng tạo nên vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là một nỗi
nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian: Sông Mã xa rồi Tay Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhó chơi vơi
Sài Khao sương lấp đòan quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
Nỗi nhớ đơn vị cũ trào dâng, không kìm nén nỗi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai
chữ “chơi vơi” như vẽ ra trạng thái cụ thể của nỗi nhớ, hình tượng hóa nỗi nhớ, khơi
nguồn cho cảnh núi cao, dốc sâu, vực thẳm, rừng dày,…liên tiếp xuất hiện ở những câu
thơ sau:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Khổ thơ này là một bằng chứng “thi trung hữu họa”. Chỉ bằng bốn câu thơ, Quang Dũng
đã vẽ ra một bức tranh hòanh tráng diễn tả sự hiểm trở và dữ dội, hoang vu và heo hút
của núi rừng Tây Bắc, địa bàn họat dộng của đòan quân Tây Tiến. Hai câu thơ đầu,
những từ đẩy giá trị tạo hình khúc khủyu, thăm thẳm. cồn mây, súng ngửi trời đã diễn tả
thật chính xác sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời của núi đồi Tây Bắc. Hai chữ
“ngửi trời” được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo, vừa ngộ nghĩnh, vừa có chất tinh
nghịch của người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây , mây nổi thành cồn “heo hút”.
Người lính trèo lên những ngọn núi cao tưởng chừng như đang đi trên mây, mũi súng
chạm tới đỉnh trời. Câu thứ ba như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, dổ xuống gần như
thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm. Nếu như câu thứ ba là
nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình dung cảnh nhữngngười
lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa qua một không gian mịt
mùng sương rừng mây núi thấy thấp thóang những ngôi nhà như đang bồng bềnh trôi
giữa biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau tạo nên một âm hưởng đặc biệt. Sau
ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một nét rất mềm

mại. Quy luật này cũng giống như cách sử dụng những gam màu trong hội họa: giữa
những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ
thơ. Cái vẻ hoang dại dữ dội, chứa đầy bí mật ghê gớm của núi rừng Tây Bắc được nhà
thơ tiếp tục khai thác. Không chỉ được mở ra theo chiều không gian mà còn được khám
phá ở cái chiều thời gian, luôn luôn là mối đe dọa khủng khiếp đối với con người:
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.
Vậy là, cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên
với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ,….Những
tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh giàu trí tạo
hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả nhọc nhằn được xoa dịu bằng
những câu có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn ý, làm
hiện hình lên thế giới khác thường vừa đa dạng, vừa độc đáo của núi rừng Tây Bắc.
Đọan thơ được kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Cảnh tượng thật đầm ấm. Sau bao nhiêu gian khổ băng rừng, vượt núi, lội suối, trèo đèo,
những người lính tạm dừng chân, được nghỉ ngơi ở một bản làng nào đó, quây quần bên
những nồi cơm đang bốc khói. Khói cơm nghi ngút và hương thơm lúa nếp ngày mùa xua
tan vẻ mệt mỏi trên khuôn mặt những người lính , khiến họ tươi tỉnh hẳn lai. Hai câu thơ
này tạo nên một cảm giác êm dịu, ấm áp, chuan bị tư thế cho người đọc bước sang đọan
thơ thứ hai.
Mọi cuộc chiến tranh rồi sẽ qua đi, bụi thời gian có thể phủ dày lên hình ảnh của những
anh hùng vô danh nhưng văn học với sứ mệnh thiêng liêng của nó đã khắc tạc một cách
vĩnh viễn vào tâm hồn người đọc hình ảnh những người con anh hùng của đất nước đã
ngã xuống vì nền độc lập của Tổ quốc trong suốt trường kỳ lịch sử. ở trong thơ Quang
Dũng cũng đã dựng lên một bức tượng đài bất tử như vậy về người lính cách mạng trong
cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược nước ta. Đó là bức tượng đài
đã làm cho những người chiến sĩ yêu nước từng ngã xuống trong những tháng năm gian
khổ ấy bất tử cùng thời gian

"Tây Tiến đoàn quân không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hnội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
"Tây Tiến" của Quang Dũng là dòng hồi ức vô cùng thương nhớ về những đồng đội của
nhà thơ, những người đã từng sống, từng chiến đấu nhưng cũng có người đã hy sinh,
những người đã trở về với đất mẹ yêu thương, nhưng dẫu sao đó cũng là những người
mãi mãi nằm lại nơi biên cương hay miền viễn xứ. Chính vì thế QDũng không chỉ dựng
lại cả một hình ảnh của đoàn binh Tây Tiến trên những chặng đường hành quân gian khổ
hy sinh mà "đời vẫn cứ tươi" như ở 14 dòng thơ đầu tiên. Và QDũng cũng không chỉ
khắc tạc hình ảnh của những người lính với một đời sống tình cảm hết sức phong phú,
những tình cảm lớn lao là tình quân dân. QDũng đã đặc biệt quan tâm tới ý tưởng dựng
tượng đài người lính Tây Tiến trong tác phẩm của mình. Nhà thơ đã sử dụng hệ thống
ngôn ngữ giàu hình ảnh, hàng loạt những thủ pháp như tương phản, nhân hoá, tăng cấp ý
nghĩa để tạo ấn tượng mạnh để khắc tạc một cách sâu sắc vào tâm trí người đọc hình ảnh
những người con anh hùng của đất nước, của dtộc. Đó là bức tượng đài sừng sững giữa
núi cao sông sâu, giữa một không gian hùng vĩ như chúng ta đã thấy trong các câu thơ
"Tây Tiến đoàn quân khúc độc hành"
Bức tượng đài người lính Tây Tiến trước hết được khắc hoạ lên từ những đường nét
nhằm tô đậm cuộc sống gian khổ của họ. Nếu như ở những đoạn thơ trước đó người lính
mới chỉ hiện ra trong đoàn quân mỏi trong câu: " Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi "
hay trong khung cảnh hết sức lãng mạn trong đêm liên hoan, đêm lửa trại thắm tình cá
nước thì ở đây là hình ảnh đoàn binh không mọc tóc da xanh như lá rừng. Cảm hứng chân
thực của QDũng đã không né tránh việc mô tả cuộc sống gian khổ mà người lính phải
chịu đựng. Những cơn sốt rét rừng làm tóc họ không thể mọc được (chứ không phải họ
cố tình cạo trọc để đánh giáp lá cà cho dễ như nhiều người từng nói). Cũng vì sốt rét rừng

mà da họ xanh như lá cây (chứ không phải họ xanh màu lá nguỵ trang), vẻ ngoài dường
như rất tiều tuỵ. Nhưng thế giới tinh thần của người lính lại cho thấy họ chính là những
người chiến binh anh hùng, họ còn chứa đựng cả một sức mạnh áp đảo quân thù, họ dũng
mãnh như hổ báo, hùm beo. Cái giỏi của QDũng là mô tả người lính với những nét khắc
khổ tiều tuỵ nhưng vẫn gợi ra âm hưởng rất hào hùng của cuộc sống. Bởi vì câu thơ
"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc" với những thanh trắc rơi vào trọng âm đầu của câu
thơ như "tiến", "mọc tóc". Nhờ những thanh trắc ấy mà âm hưởng của câu thơ vút lên.
Chẳng những thế, họ còn là cả một đoàn binh. 2 chữ "đoàn binh" âm Hán Việt đã gợi ra
một khí thế hết sức nghiêm trang, hùng dũng. Và đặc biệt hai chữ "Tây Tiến" mở đầu câu
thơ không chỉ còn là tên gọi của đoàn binh nữa, nó gợi ra hình ảnh một đoàn binh dù đầu
không mọc tóc vẫn đang quả cảm tiến bước về phía Tây. Thủ pháp tương phản mà
QDũng sử dụng ở câu thơ "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" không chỉ làm nổi bật lên sức
mạnh tinh thần của người lính mà còn thấm sâu màu sắc văn hoá của dân tộc. ở đây, nhà
thơ không chỉ muốn nói rằng những người lính Tây Tiến như chúa sơn lâm, không phải
muốn "động vật hoá" người lính Tây Tiến mà muốn nói tới sức mạnh bách chiến bách
thắng bằng một hình ảnh quen thuộc trong thơ văn xưa. Phạm Ngũ Lão cũng ca ngợi
người anh hùng vệ quốc trong câu thơ
"Hoành sóc giang san cáp kỷ thu
Tam quan kỳ hổ khí thôn ngưu"
Và ngay cả Hồ Chí Minh trong "Đăng sơn" cũng viết
"Nghĩa binh tráng khí thôn ngưu đẩu
Thể diện sài long xâm lược quân"
Có thể nói QDũng đã sử dụng một môtíp mang đậm màu sắc phương Đông để câu thơ
mang âm vang của lsử, hình tượng người lính cách mạng gắn liền với sức mạnh truyền
thống của dtộc. Đọc câu thơ: "Quân xanh màu lá dữ oai hùm" ta như nghe thấy âm hưởng
của một hào khí ngút trời Đông á. Hình tượng người lính Tây Tiến bỗng nhiên trở nên rất
đẹp khi QDũng bổ sung vào bức tượng đài này chất hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn họ
"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"
Trước hết đó là một vẻ đẹp tấm lòng luôn hướng về Tquốc, hướng về Thủ đô. Người lính

dẫu ở nơi biên cương hay viễn xứ xa xôi mà lòng lúc nào cũng hướng về HNội. Ta bỗng
nhớ đến câu thơ của Huỳnh Văn Nghệ:
"Từ thuở mang gươm đi mở nước
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long"
Người lính Tây Tiến dẫu "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" mà niềm thương nỗi nhớ
vẫn hướng về một "dáng kiều thơm". Đã một thời, với cái nhìn ấu trĩ, người ta phê phán
thói tiểu tư sản, thực ra nhờ vẻ đẹp ấy của tâm hồn mà người lính có sức mạnh vượt qua
mọi gian khổ, người lính trở thành một biểu tượng cho vẻ đẹp của con người Việt Nam.
QuDũng đã tạo nên một tương phản hết sức đặc sắc - những con người chiến đấu kiên
cường với ý chí sắt thép cũng chính là con người có một đsống tâm hồn phong phú.
Người lính Tây Tiến không chỉ biết cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà
còn rất hào hoa, giữa bao nhiêu gian khổ, thiếu thốn trái tim họ vẫn rung động trong một
nỗi nhớ về một dáng kiều thơm, nhớ về vẻ đẹp của Hà Nội - Thăng Long xưa. Bức tượng
đài người lính Tây Tiến đã được khắc tạc bằng những nguồn ánh sáng tương phản lẫn
nhau, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Từng đường nét đều như nổi bật và tạo được những ấn
tượng mạnh mẽ. Đây cũng là đặc trưng của thơ QDũng.
Nếu như ở 4 câu thơ trên, người lính Tây Tiến hiện ra trong hình ảnh một đoàn binh với
những bước chân Tây tiến vang dội khí thế hào hùng và một thế giới tâm hồn hết sức
lãng mạn thì ở đây bức tượng đài người lính Tây Tiến được khắc tạc bằng những đường
nét nổi bật về sự hy sinh của họ. Nếu chỉ đọc từng câu thơ, chỉ phân tích từng hình ảnh
riêng rẽ độc lập, người ta dễ cảm nhận một cách bi luỵ về cái chết của người lính mà
thơ ca kháng chiến thuở ấy rất ít khi nói đến. Bởi thơ ca kháng chiến phần lớn chỉ quan
tâm đến cái hùng mà không quan tâm đến cái bi. Nhưng nếu đặt các hình ảnh, các câu thơ
vào trong chỉnh thể của nó, ta sẽ hiểu QDũng đã mô tả một cách chân thực sự hy sinh của
người lính bằng cảm hứng lãng mạn, hình tượng vì thế chẳng những không rơi vào bi lụy
mà còn có sức bay bổng. Có thể thấy câu thơ: "Rải rác biên cương mồ viễn xứ" nếu tách
riêng ra rất dễ gây cảm giác nặng nề bởi đó là câu thơ nói về cái chết, về nấm mồ của
người lính Tây Tiến ở nơi "viễn xứ". Từng chữ từng chữ dường như mỗi lúc một nhấn
thêm nốt nhạc buồn của khúc hát hồn tử sĩ. Chẳng phải thế sao? Nói về những nấm mồ,
lại là những nấm mồ "rải rác" dễ gợi sự hoang lạnh, lại là "rải rác" nơi "viễn xứ", những

nấm mồ ấy càng gợi sự cô đơn côi cút. QDũng muốn nói tới nơi yên nghỉ của những
người đồng đội
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời"
Trong Chinh phụ ngâm:
"Hồn tử sĩ gió về ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng rõi rõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn"
Tuy nhiên với câu thơ thứ hai, ta lại thấy hình ảnh những nấm mồ rải rác nơi biên cương
đã trở về với sự ấm cúng của niềm biết ơn của nhân dân, của đất nước. Bởi đó chính là
nấm mồ của những người con anh dũng
"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"
Đồng thời cũng chính câu thơ thứ 2 đã làm cho những nấm mồ rải rác kia được nâng lên
những tầng cao của đài tưởng niệm, của Tổ quốc đối với người lính đã vì tiếng gọi của
chiến trường mà hiến dâng tuổi xanh của mình. Trong thơ QDũng luôn là một sự nâng đỡ
nhau của nhiều hình ảnh như vậy. Sự hy sinh của người lính còn được tráng lệ hoá trong
câu thơ
"áo bào thay chiếu anh về đất"
Bao nhiêu thương yêu của QDũng trong một câu thơ như vậy về một đồng đội của mình.
Ai bảo QDũng không xót thương những người đồng đội của mình ra đi trong cách tiễn
đưa ấy, cảnh tiễn đưa với bao thiếu thốn, khó khăn, cái thuở những người lính Tây Tiến
chết vì sốt rét nhiều hơn chết vì chiến trận. Lại trong cảnh kháng chiến còn rất khó khăn
nên tiễn đưa người chết không có cả một chiếc quan tài. Hoàng Lộc trong "Viếng bạn"
cũng đã viết về cảnh tiễn đưa như thế
"ở đây không manh ván
Chôn anh bằng tấm chăn
Của đồng bào Cứa Ngàn
Tặng tôi ngày sơ tán"
Chỉ có điều câu thơ của QDũng không dừng lại ở mức tả thực mà đẩy lên thành cảm

hứng tráng lệ, coi chiếu là áo bào để cuộc tiễn đưa trở nên trang nghiêm, cổ kính. Cũng
có người hiểu đến chiếc chiếu cũng không có, chỉ có chính tấm áo của người lính. Dù
hiểu theo cách nào thì cũng phải thấy QDũng đã tráng lệ hoá cuộc tiễn đưa bi thương
bằng hình ảnh chiếc áo bào và sự hy sinh của người lính đã được coi là sự trở về với đất
nước, với núi sông. Cụm từ "anh về đất" nói về cái chết nhưng lại bất tử hoá người lính,
nói về cái bi thương nhưng lại bằng hình ảnh tráng lệ. Mạch cảm xúc ấy đã dẫn tới câu
thơ đầy tính chất tráng ca

"Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
Từ sự kết hợp một cách hài hoà giữa cái nhìn hiện thực với cảm hứng lãng mạn, QDũng
đã dựng lên bức chân dung , một bức tượng đài người lính cách mạng vừa chân thực vừa
có sức khái quát, tiêu biểu cho vẻ đẹp sức mạnh dân tộc ta trong thời đại mới, thời đại cả
dân tộc đứng lên làm cuộc kháng chiến vệ quốc thần kỳ chống thực dân Pháp. Đó là bức
tượng đài được kết tinh từ âm hưởng bi tráng của cuộc kháng chiến ấy. Đó là bức tượng
đài được khắc tạc bằng cả tình yêu của QDũng đối với những người đồng đội, đối với đất
nước của mình. Vì thế từ bức tượng đài đã vút lên khúc hát ngợi ca của nhà thơ cũng như
của cả đất nước về những người con anh hùng ấy.
Phân tích bài thơ Tây Tiến (Thi HS Giỏi)
Được nhắc đến như một nhà thơ, một hồn thơ chiến sĩ thời máu lửa oai hùng - Quang
Dũng đã rất thành công khi khái quát hóa hình ảnh núi rừng Tây Bắc gắn liền với nổi nhớ
của người chiến sĩ đoàn quân Tây Tiến.
"Tây Tiến" là bài thơ của người lính nói về người lính - anh Vệ quốc quân thời 9 năm
kháng chiến chống Pháp. Quang Dũng vừa cầm súng đánh giặc vừa làm thơ nên thơ ông
rất chân thực và hào sảng, dư ba. Bài thơ được Quang Dũng viết vào năm 1948, khi cuộc
kháng chiến thần thánh của dân tộc bước sang năm thứ ba, chặng đường kháng chiến còn
đầy thử thách gian lao.
"Tây Tiến" nói lên nỗi nhớ và niềm tự hào của Quang Dũng về đồng đội thân yêu, cùng
vào sinh ra tử một thời trận mạc.
1. Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi làm nao lòng người. Nỗi nhớ thương, nỗi nhớ như nén
chặt, bỗng trào dâng:

"Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi".
Từ "ơi" bắt vần với từ láy "chơi vơi" làm cho âm điệu câu thơ trở nên tha thiết sâu lắng,
bồi hồi. Hai chữ "nhớ" như hai nốt nhấn gợi tả nỗi nhớ "chơi vơi" cháy bỏng khôn nguôi.
Từ Phù Lưu Chanh ông nhớ dòng sông Mã, nhớ núi rừng miền Tây, nhớ đoàn binh Tây
Tiến - một đơn vị bộ đội đã hoạt động tại vùng rừng núi miền Tây Thanh Hóa, Hòa Bình,
Sơn La - biên giới Việt Lào trong những năm đầu kháng chiến. Bao kỉ niệm đẹp một thời
chinh chiến bỗng sống dậy. Những tên bản, tên mường của rừng xưa núi cũ yêu thương
hiện về, bỗng trở nên gần gũi thân thiết, làm xao xuyến hồn người chiến sĩ:
"Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Những Sài Khao, Mường Lát những địa danh vời vợi nghìn trùng từng in dấu chân
đoàn chiến binh Tây Tiến. Trong ”sương lấp", trong "đêm hơi" mịt mù, lạnh lẽo, đoàn
dũng sĩ đã phải vượt qua những nẻo đường hành quân vô cùng gian khổ. Ngày nối ngày,
đêm nối đêm, trải qua bao dãi dầu, "đoàn quân mỏi" giữa cái biển sương mù của núi rừng
miền Tây; "đoàn quân mỏi" tưởng như bị "lấp" đi, bị trĩu xuống trong mệt mỏi, gian
truân, nhưng thật bất ngờ, bỗng xuất hiện "hoa về trong đêm hơi". Cái mỏi mệt, cái gian
khổ như đã tiêu tan. Sáu thanh bằng liên tiếp diễn tả cái nhẹ nhàng, cái lâng lâng trong
tâm hồn người lính trẻ đi tới đích sau những chặng đường dài hành quân đầy thử thách:
"Mường Lát hoa về trong đêm hơi".
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt giữa núi rừng miền Tây. Những đèo dốc "khúc khuỷu",
"thăm thẳm" chưa từng in dấu chân người! Những "cồn mây heo hút". Những tầm cao
của núi, những chiều sâu của lũng, của suối thử thách chí can trường như chặn bước tiến
của đoàn quân:
"Dốc lên khúc khủyu, dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".
Các từ láy: "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" được lựa chọn và sử dụng như những
nét khắc, nét vẽ có giá trị tạo hình đặc sắc, làm hiện lên những dốc, những cồn mây mà

nhà thơ và đồng đội phải vượt qua trong những tháng ngày: "áo vải chân không đi lùng
giặc đánh" (Hồng Nguyên). "Súng ngửi trời" là một hình ảnh nhân hóa phản ánh cái ngộ
nghĩnh, hồn nhiên trẻ trung và yêu đời của người lính trẻ. Có câu thơ gồm 2 vế tiểu đối,
bản lĩnh kiên cường của người chiến sĩ Tây Tiến được "đo" bằng: "Ngàn thước lên cao //
ngàn thước xuống". Núi tiếp núi, đèo nối đèo, hết lên cao, lại xuống thấp, đoàn quân đi
trong mù sương, trong màn mưa rừng. Từ những đỉnh cao "ngàn thước", các chiến binh
dõi tầm mắt nhìn xa. Những bản mường, những nhà sàn thấp thoáng ẩn hiện. Câu thơ thất
ngôn, toàn thanh bằng gợi tả cảm xúc tươi vui, lâng lâng thanh thản dâng lên trong tâm
hồn người lính trẻ rất lạc quan yêu đời khi dõi nhìn về xa qua màn mưa rừng: "Nhà ai Pha
Luông mưa xa khơi".
Những gì đã xảy trên những nẻo đường trường chinh lửa máu và gian khổ ấy? Âm điệu
câu thơ bỗng trĩu xuống, nao nao:
"Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!".
Hai tiếng "anh bạn" cất lên như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ "dãi dầu", trong
những ngày dài hành quân và chiến đấu, có bao đồng đội thân yêu đã "không bước nữa",
vĩnh biệt đoàn binh, "bỏ quên đời", bỏ quên đồng chí bạn bè, nằm lại vĩnh viễn nơi chân
đèo, góc núi. Bốn chữ "gục lên súng mũ" thể hiện một sự hi sinh vô cùng bi tráng: ngã
xuống, gục xuống trên đường hành quân giữa trận đánh khi súng còn cầm trên tay, mũ
còn đội trên đầu. Mặc dù Quang Dũng đã thay thế từ "chết", từ "hi sinh" bằng cụm từ
"không bước nữa", "gục lên" , "bỏ quên đời", nhưng vẫn trào lên bao nỗi xót xa, thương
tiếc. Sự thật chiến tranh xưa nay vẫn thế! Có điều là vần thơ của Quang Dũng tuy nói đến
cái chết của người lính nhưng không gợi ra bi lụy, thảm thương, mà trái lại, trong sự tiếc
thương có niềm tự hào khẳng định: Vì độc lập, tự do mà có biết bao chiến sĩ anh hùng đã
ngã xuống trên các chiến trường, trong tư thế lẫm liệt "gục lên súng mũ " như vậy!
Cảnh tượng chiến trường đâu chỉ có đèo cao, cồn mây, dốc thẳm, đâu chỉ có mưa ngàn,
muỗi rừng vắt núi, mà còn có biết bao thử thách của rừng thiêng tự ngàn đời mang cái vẻ
hoang sơ và bí mật, hùng vĩ và oai nghiêm. Chiều nối chiều, đêm tiếp đêm, chiến khu
vang động tiếng "gầm thét" của thác, của "cọp trêu người". Trên một không gian mênh
mông của chốn đại ngàn, từ Pha Luông đến Mường Hịch hoang vu, cái chết đang rình rập

đe dọa. Chốn rừng thiêng ẩn dấu nhiều bí mật "oai linh", được nhân hóa như tăng thêm
phần dữ dội. Thác thì "gầm thét", cọp thì "trêu người" như để thử thách chí can trường
các chiến binh Tây Tiến:
"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người".
Vượt lên gian khổ, hi sinh, hành trang người lính đầy ắp những kỉ niệm đẹp của tình quân
dân. Quên sao được "cơm lên khói", hương vị đậm đà của "mùa em thơm nếp xôi". Trong
cái hương vị đậm đà của bát cơm tỏa khói, của hương nếp xôi còn quyện theo bao tình
sâu nghĩa nặng của bà con dân bản Mai Châu, của "mùa em". Hai tiếng "nhớ ôi" gợi lên
nhiều bâng khuâng, vương vấn, thấm thía và ngọt ngào:
"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi".
2. Phần thứ hai bài "Tây Tiến" gồm có 8 câu nói về "hội đuốc hoa" và những chiều sương
cao nguyên Châu Mộc. Giọng thơ man mác, bâng khuâng. Nhà thơ tự hỏi mình "có thấy"
và "có nhớ". Chất tài tử, tài hoa và lãng mạn của những chàng lính chiến được nói đến
thật hay trong đêm "hội đuốc hoa". Chữ "kìa" là đại từ để trỏ từ xa, gợi nhiều ngạc nhiên,
tình tứ. Trong ánh lửa đuốc bập bùng, sự xuất hiện những cô gái Mường, cô gái Thái
miền Tây Bắc, những cô gái phù-xao Lào trong bộ xiêm áo dân tộc rực rỡ đã đem đến
cho những người lính trẻ đoàn binh Tây Tiến bao niềm vui, tình quân dân thắm thiết. Có

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×