Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chất thải rắn ở nông thôn pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.32 KB, 13 trang )

CHẤT THẢI RẮN Ở NÔNG THÔN
I - Tổng quan về chất thải rắn nông thôn
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật sản xuất, đóng gói bao bì,
nhiều loại giấy, hộp đóng gói được làm chủ yếu bằng ni lông, nhựa, thiếc rất tiện lợi,
góp phần làm thay đổi phong cách và tập quán sống của nhiều người dân từ nông thôn
đến thành thị. Khách hàng dù đến bất kỳ nhà hàng nào, mua sản phẩm gì cũng được
đóng gói cẩn thận bằng túi ni lông hay đồ đóng gói tương tự từ cà, mắm, muối cho
đến các sản phẩm cao cấp khác. Chính nhờ những dịch vụ chăm sóc khách hàng đó
cùng với sự phát triển kinh tế xã hội mà nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng
cao và luôn được đáp ứng kịp thời. Song bên cạnh các mặt tích cực ấy là lượng rác thải
ra ngày càng lớn, không chỉ ở các đô thị mà còn ở các vùng nông thôn, nó đã và đang
trở thành vấn đề được mọi người quan tâm.
Thực tế ở nông thôn Việt Nam trước kia, việc phân loại rác vốn được thực hiện rất tốt.
Lượng rác thải ở nông thôn vốn nhỏ, chủ yếu là rác thải hữu cơ. Lượng rác thải hữu cơ
này nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thừa, được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Một
lượng chất thải rắn khác là phân người và gia súc được tận dụng làm phân bón ruộng.
Các phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, được dung làm đun nấu và thức ăn gia súc. Ý
thức người dân về sử dụng và phân loại rác rất tốt, và hầu như không có rác thải đổ ra
môi trường.
Trong mô hình canh tác kiểu truyền thống cộng với điều kiện kinh tế trước kia của
nông thôn Việt Nam thì lượng rác thải sinh ra là rất nhỏ và hầu như được tận dụng
hoàn toàn. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, khi điều kiện kinh tế phát triển,
lượng rác thải nông thôn tăng mạnh, cùng với đó là sự xuất hiện của túi ni lông, là chất
không phân hủy hay tái chế được, khiến tình hình rác thải ở nông thôn trở thành vấn đề
nghiêm trọng. Bên cạnh đó là sự gia tăng mạnh mẽ về dân số, tạo thêm một áp lực lớn
cho vấn đề rác thải nông thôn.
1
1 - Nguồn gốc, thành phần chất thải rắn nông thôn
1.1 - Chất thải rắn nông nghiệp
Là chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, thu
hoạch, bảo quản và sơ chế nông sản, các chất thải ra từ chăn nuôi, giết mổ động vật,


chế biến sữa
Hình 1: Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn nông nghiệp
1.2 - Chất thải rắn làng nghề
Làng nghề là một đặc thù của nông thôn Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế xã
hội. Tại các làng nghề, nhiều sản phẩm phi nông nghiệp đã được những lao động có
nguồn gốc nông dân trực tiếp sản xuất và trở thành thương phẩm trao đổi hàng hóa,
góp phần cải thiện đời sống, và tận dụng lao động dư thừa.
Có khoảng 1450 làng nghề phân bố trên các cùng nông thôn, mỗi năm phát thải
khoảng 774000 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại. Các loại chất thải phát sinh
từ các làng nghề ở nông thôn lớn nhất từ các ngành gốm sứ, vật liệu xây dựng, lò vôi,
lò gạch. Tiếp đến là các ngành dệt may thủ công, chế biến lượng thực
2
Trồng trọt (thực vật
chết, lá cành, cỏ…)
Thu hoạch nông sản
( rơm, rạ, trấu, cám,
lõi ngô, thân ngô…)
Chăn nuôi ( phân gia
súc, gia cầm, động
vạt chết…)
Chế biến sữa, giết
mổ động vật
Bảo vệ thực vật, động vật
(chai lọ đựng thuốc
BVTV, thuốc trừ sâu,
thuốc diệt côn trùng)
Quá trình bón phân, kích
thích tăng trưởng ( bao bì
đựng phân bón, phân
đạm)

Thú y ( chai lọ đựng
thuốc thú y, dụng cụ
tiêm, mổ)
CHẤT
THẢI
RẮN
NÔNG
NGHIỆP
Hình 2: Nguồn gốc phát sinh chất thải rắn làng nghề
1.3 - Chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn
Gồm nhiều loại rác và được phân chia làm hai loại chính là:
Thành phần hữu cơ chủ yếu là thực phẩm thừa, giấy, nhựa, vải, cao su,da, gỗ
Thành phần vô cơ: thủy tinh, nhôm, sắt, bụi…
2 - Hiện trạng chất thải rắn tại nông thôn Việt Nam
Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2004), rác thải nông thôn ước tính
0,3kg/người/ngày và có xu hướng tăng đều theo từng năm. Trên thực tế, rác thải hiện
nay đang là vấn đề bức xúc, nhiều gia đình đã phản ánh không biết đổ rác ở đâu, nên
buộc phải vứt rác trên đường, xuống ao, hồ, sông ngòi, mương máng. Lượng rác thải
này tập trung nhiều gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, ách tắc dòng chảy, ảnh hưởng
đến đời sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân.
Các loại chất thải rắn Toàn quốc Đô thị Nông thôn
Tổng lượng phát sinh chất thải sinh hoạt 12.800.000 6.400.000 6.400.00
3
CHẤT
THẢI
RẮN
LÀNG
NGHỀ
Nhóm các làng
nghề chế biến nông

sản thực phẩm (xơ
sợi sắn, tinh bột, vỏ
củ)
Nhóm các làng
nghề tái chế giấy
(bao bì, nilon,nhãn
mác)
Làng nghề sản xuất
cơ khí và tái chế
kim loại (kim loại
tạp, nhựa, tro xỉ
kim loại, xỉ than)
Làng nghề đồ gỗ mỹ
nghệ (gỗ vụn, mùn
cưa, vỏ chai lọ đựng
dung môi)
Làng nghề dệt nhuộm
(vải vụn, hộp đựng
hóa chất nhuộm)
Làng nghề tái chế
nhựa phế liệu (nhựa
tạp, xỉ than)
Các làng nghề khác
(chế biến lông gà lông
vịt, làm vàng mã, vật
liệu xây dựng…)
(tấn/năm)
Chất thải nguy hại từ công nghiệp
(tấn/năm)
128.400 125.000 2.400

Chất thải không nguy hại từ công nghiệp
(tấn/năm)
2.510.000 1.740.000 770.000
Chất thải Y tế lây nhiễm (tấn/năm) 21.000 - -
Tỷ lệ thu gom trung bình (%) - 71 20
Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung bình
theo đầu người (kg/người/ngày)
- 0,8 0,3
Bảng 3: Tình hình phát sinh chất thải rắn
(Nguồn: Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 - Chất thải rắn)
Các hoạt động nông nghiệp mỗi năm phát sinh một lượng khá lớn chất ô nhiễm. Các
chất tồn dư thuốc bảo vệ thực vật độc hại và các loại bao bì, thùng chứa thuốc trừ sâu
thải ra môi trường. Nhiều loại thuốc trừ sâu đã bị cấm nhưng vẫn được nhập lậu.
Ngoài ra có khoảng 37000 tấn hóa chất dùng trong nông nghiệp đang lưu trữ cần phải
được xử lí. Việc sử dụng các thuốc trừ sâu, phân bón hóa học còn tuỳ tiện, không tuân
thủ các yêu cầu kỹ thuật theo nhãn mác, không đảm bảo thời gian cách ly của từng loại
thuốc. Một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật tồn đọng tại các kho thuốc cũ, hết niên hạn
sử dụng còn nằm rải rác tại các tỉnh thành trên cả nước. Hơn nữa là việc bảo quản
thuốc bảo vệ thực vật chưa đúng quy định, không có nơi bảo quản riêng, nhiều hộ để
thuốc bảo vệ thực vật trong nhà, trong bếp và trong chuồng nuôi gia súc. Chính những
nguyên nhân trên làm cho thuốc bảo vệ thực vật tồn dư trong các sản phẩm nông
nghiệp và đất đai, không chỉ gây ảnh hưởng tới môi trường mà còn gây nguy hại tới
sức khỏe người dân. Đặc biệt, sau khi sử dụng thì vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật,
phân bón đều không được thu gom xử lý, bị vứt lung tung.
II – ĐẶC ĐIỂM ĐỔ THẢI VÀ THU GOM RÁC THẢI Ở NÔNG THÔN
2.1 – Đổ rác thải ở nông thôn
Rác được đổ tràn lan hoặc chất thành đống hai bên vệ đường, tại các khu vực công
cộng. Nhiều khu phố nhỏ ở nông thôn, miền núi, mới nhìn qua cảnh quan môi trường
thì rất sạch, nhưng nếu để mắt đến những nơi “kín đáo” như: dưới cầu, sông suối, ao
hồ sẽ thấy vô số rác, trong đó có cả xác chết của gia súc, gia cầm. Ngoài ra, còn có

4
trường hợp rác đặc biệt (hoá chất độc hại) được mang từ xa đến đổ, càng góp phần làm
đa dạng và phong phú thêm các tụ điểm rác.
Cũng như giai đoạn trước, hiện tại quá trình xử lý rác thải cũng như thu gom rác thải
tại nông thôn vẫn chủ yếu tập trung tại hộ gia đình. Rác thải có thể tái chế được phù
hợp với điều kiện nông thôn được tận dụng một cách tối đa. Những rác thải còn lại
không tận dụng được thường bị vứt ra vườn hoặc tại những địa điểm công cộng thiếu
sự quản lý của chính quyền (như các khu vực giáp danh giữa các làng, xã …).
Bên cạnh đó cùng với việc nâng cao đời sống, lượng rác thải nông thôn ngày càng gia
tăng, nhiều loại rác thải dư thừa mà trước kia được giữ lại nay không sử dụng nữa. Ví
dụ điển hình là rơm rạ, trước kia rơm rạ thường được sử dụng lại cho đun nấu thì bây
giờ người dân chuyển sang đun nấu chủ yếu bằng than tổ ong, rơm rạ sau vụ mùa
thường bị đem ra đốt, tuy nhiên một lượng lớn trong số chúng bị vứt bừa bãi ra ao,
kênh mương …
Cùng với sự phát triển kinh tế tại nông thôn là sự gia tăng mạnh mẽ rác thải không có
nguồn gốc hữu cơ.
Rác thải túi nilon khi thải ra môi trường nằm chung với các loại rác khác, nếu không
qua xử lý đúng tiêu chuẩn, rác thải túi nilon không phân huỷ được. Đây là bài toán
chưa tìm được lời giải trong xử lý môi trường nước ta nói chung và đối với nông thôn
nói riêng. Ở nông thôn vấn đề xử lý túi nilon hầu như chưa có giải pháp gì, nhiều nơi ở
vùng ven thị xã, vùng nông thôn, người ta vứt túi nilon bừa bãi xuống cống rãnh,
mương, sông… gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Hiện nay, ở các nông thôn mới
chỉ thu gom được rác thải ở thị trấn, còn ở vùng nông thôn thì chưa có địa phương nào
đủ khả năng giải quyết được.
Một vấn đề khác cũng gây bức xúc hiện tại ở nông thôn là rác thải nguy hại có nguồn
gốc từ vỏ bao bì thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Nếu xét về tổng khối lượng thì
lượng bao bì thuốc trừ sâu này không nhiều, tuy nhiên tác động của nó đến môi trường
thì rất lớn, và hiện nay các vùng nông thôn hầu như chưa có biện pháp xử lý vấn đề
này một cách hiệu quả.
Chất thải làng nghề trong thời gian qua cũng gia tăng một lượng nhanh chóng. Trong

đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ lạc
hậu chiếm phần lớn (trên 70%). Do đó, đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường
nông thôn, tác động xấu tới chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khoẻ
5
của dân làng nghề. Các chất thải của làng nghề đều không qua xử lý và thải trực tiếp ra
môi trường.
Chất thải rắn y tế từ các trạm xá tuy không nhiều ,những bông băng , gạc chứa mầm
bệnh và hóa chất cũng không được thu gom và xử lý. Hiện hiểu biết của người dân về
loại chất thải rắn này cũng chưa cao.
2.2 – Thu gom chất thải rắn nông thôn
Việc thu gom chất thải rắn tại nông thôn hầu như chưa có, chất thải nông thôn hiện
được ở dạng phân tán, chứ không tập trung. Do rác thải nông thôn chưa được coi
trọng, cũng như kinh tế của nông thôn chưa phát triển nên vấn đề thu gom rác thải tập
trung là chưa có.
Rác thải của các hộ gia đình được xử lý và thu gom tại chỗ, những rác thải không phân
hủy được bị đổ thải trực tiếp ra sông, hồ hay các khu vực công cộng và không được
thu gom xử lý.
Hệ thống thu gom chất thải rắn hiện đã bắt đầu hình thành, tuy nhiên vấn đề hiện nay
là tài chính. Nếu như ở thành phố, người dân phải đóng một khoản phí hành tháng cho
công ty vệ sinh và môi trường, thì ở nông thôn, do vấn đề tài chính, việc này không thể
áp dụng được. Ở đa phần các vùng nông thôn hiện nay, không có một đội thu gom
chuyên nghiệp nào hoạt động thường xuyên, các hình thức thu gom hiện tại chủ yếu là
do hoạt động thu gom định kỳ của các tổ chức tại nông thôn như đoàn thanh niên hay
hội phụ nữ. Các hoạt động này chỉ mang tính phong trào và không thể giải quyết triệt
để vấn đề thu gom rác thải.
Hệ thống xử lý chất thải rắn ở nông thôn đang trong quá trình xây dựng nhưng còn rất
thiếu.
• Hình thức được sử dụng nhiều nhất là đốt hoặc chôn lấp. Không những thế, vị
trí đổ rác thải hiện nay hầu hết không được khảo sát để tránh ảnh hưởng tới dân
cư, nguồn nước.

• Bãi rác tại các huyện, các chợ nông thôn chưa có cơ quan quản lý và biện pháp
xử lý. Chủ yếu là tập trung để phân huỷ tự nhiên và gây nên những gánh nặng
cho công tác bảo vệ môi trường.
Đối với việc xử lý chất thải nguy hại, chất thải có nguồn gốc cao phân tử (túi nilon
hay cao su) hiện chưa có bất cứ hình thức xử lý hiệu quả nào tại nông thôn. Đối với
6
loại chất thải này, cách làm duy nhất hiện tại ở nông thôn là đem đốt, tuy nhiên
việc đem đốt này không được làm đúng quy trình đốt với lò hai ngăn, chúng được
đem ra một chỗ trống và đốt ngoài trời, việc đốt này sinh ra một lượng lớn khí độc
gây nguy hiểm trực tiếp cho người dân.
III – NGUYÊN NHÂN
Yếu tố thứ chính tác động đến tình hình chất thải rắn nông thôn như đã nói ở trên là
vấn đề tài chính.
Một yếu tố nữa đối với việc đổ thải của rác thải tại nông thôn là ý thức người dân chưa
cao. Hiện tại đa phân người dân đã nhận thức được vấn đề rác thải, tác hại của nó, và
có thể nói rác thải là vấn đề bức xúc trong dân chúng, tuy nhiên tình hình đổ thải vẫn
tiếp tục diễn ra. Tại hầu hết các xã ở nông thôn hiện tại đều có các quy định cấm đổ
rác thải bừa bãi, tuy nhiên tại các khu vực giáp danh, nơi không có sự quản lý chặt chẽ,
đã trở thành bãi rác chung cho cả khu vực. Người dân cũng nhận thức được rõ ràng
tác hại của bao bì thuốc trừ sâu đối với sức khỏe tuy nhiên việc vứt bừa bãi chúng trên
đồng ruộng vẫn diễn ra, và hầu như không có biện pháp nào để giải quyết vấn đề này.
IV - QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN NÔNG THÔN
Việc đưa ra những biện pháp quản lí thích hợp đối với chất thải rắn nông nghiệp
không chỉ mang lại ý nghĩa to lớn về mặt môi trường mà còn tận dụng được giá trị vật
chất và năng lượng một cách hiệu quả
7
Phân loại chất thải tại nguồn
Phân loại chất thải tại nguồn
Thu gom
Thu gom

Vận chuyển
Vận chuyển
Xử lí
Xử lí
Chôn lấp Tái chế
Hình 3: Chu trình quản lí chất thải
4.1 - Việc thu gom, phân loại và vận chuyển
chất thải rắn nông nghiệp cần căn cứ vào nguồn phát sinh, căn cứ vào tính chất nguy
hại của chất thải, căn cứ vào mục đích sử dụng lại và các biện pháp xử lí chúng. Việc
thu gom chất thải rắn nông nghiệp chia làm 2 nguồn chính: chất thải rắn hữu cơ và
chất thải rắn vô cơ
Cần phân loại chất thải ngay tại nguồn phát sinh căn cứ vào mục đích sử dụng để có
những biện pháp thu gom thích hợp
 Thành phần chất thải có nhiệt trị cao như rơm, rạ, trấu…sử dụng cho mục đích
đun nấu hoặc làm nhiên liệu cho phát điện
 Thành phần chất thải có hàm lượng dinh dưỡng cao, chất hữu cơ dễ phân hủy
sinh học tạo sản phẩm khí biogas và phân bón hữu cơ
Việc thu gom, phân loại, vận chuyển cần tránh rơi vãi, không lấn chiếm hành lang an
toàn giao thông ( không phơi rơm, rạ trên lòng đường…) và chú ý không để tạo ra các
ổ dịch bệnh phát sinh và nơi cư trú của các sinh vật có hại.
Sau khi phân loại, chất thải rắn nông nghiệp được đưa tái chế hoặc tái sử dụng, còn
một lượng chất thải rắn nông nghiệp cần phải xử lí
4.2 - Xử lí chất thải rắn nông nghiệp
chia làm 3 nhóm phương pháp: xử lí bằng phương pháp sinh học, xử lí bằng phương
pháp đốt, xử lí bằng phương pháp chôn lấp
 Phương pháp sinh học: Quá trình ủ sinh học tạo phân compost là phương pháp
truyền thống, được áp dụng phổ biến và có hiệu quả ở các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Các phế phụ phẩm trong quá trình trồng trọt và thu
hoạch, phân chuồng trong chăn nuôi…chứa các thành phần hữu cơ có khả năng
phân hủy sinh học tốt.

Việc xử lí chất thải nông nghiệp được thực hiện bởi quá trình ủ sinh học thu hồi
khí biogas. Đây là phương pháp đem lại hiệu quả cao và cải thiện đáng kể môi
trường nông thôn: phân người tạo ra khí đốt cho gia đình, nguồn phân hữu cơ
an toàn bón ruộng, nước thải túi ủ biogas dùng để nuôi tảo, thực vật phù du
khác và làm thức ăn giàu dinh dưỡng khác cho cá. Hiện nay trên phạm vi cả
nước có hàng triệu hầm biogas
8
 Phương pháp đốt mang lại giá trị kinh tế cao. Trước đây việc đốt không thu hồi
nhiệt lượng khá phổ biến đặc biệt là ở Nam Bộ. Hiện tượng đốt chất thải nông
nghiệp ngay trên đồng ruộng hiện nay đã lan ra cả những vùng thuộc đồng bắng
sông Hồng. Việc đốt như vậy vừa không đem lại hiệu quả kinh tế vừa gây lãng
phí, làm ô nhiễm môi trường đặc biệt là môi trường không khí. Đốt thu hồi
nhiệt lượng ở quy mô nhỏ, các chất thải dễ cháy được sử dụng thay thế củi để
đun nấu phục vụ sinh hoạt trong gia đình. Tuy nhiên hiệu suất sử dụng năng
lượng không cao vì các loại bếp đun còn thủ công, tổn thất nhiệt lớn, bên cạnh
đó còn gây ô nhiễm cục bộ trong không gian bếp đun chật hẹp. Do vậy đốt thu
hồi nhiệt ở quy mô công nghiệp có hiệu quả cao hơn, năng lượng nhiệt trong
quá trình đốt có thể sử dụng cho các lò hơi, lò sưởi, các thiết bị sấy và đặc biệt
sản xuất nhiệt điện
 Phương pháp chôn lấp: đây là phương pháp đơn giản thường được sử dụng đối
với chất thải sinh hoạt, cần phải có biện pháp kĩ thuật đảm bảo về vấn đề nước
rác và khí bãi rác
4.3 - Xử lí chất thải rắn nông nghiệp nguy hại:
cần phải có biện pháp quản lí và xử lí phù hợp để không gây ô nhiễm cho môi trường
Hiện nay, những người dân chưa ý thức được tính nguy hại của những loại chất này
nên chưa có ý thức thu gom để xử lí. Các loại chai lọ, bao bì đựng thuốc trừ sâu vẫn bị
thải bừa bãi ra ngoài đồng ruộng sau khi đã qua xử lí. Để hạn chế tới mức thấp tác hại
của chất thải này thì cần phải có biện pháp thu gom triệt để, tránh tiếp xúc trực tiếp với
loại chất thải này. Phương pháp phổ biến để xử lí chất thải nguy hại là phương pháp
thiêu đốt trong lò đốt chất thải nguy hại và phương pháp trơ hóa ( đổ bê tông khối) rồi

đem chôn lấp. Tuy nhiên các biện pháp xử lí loại chất thải nguy hại này đòi hỏi chi phí
cao và quy phạm kĩ thuật nghiêm ngặt
4.4 - Quản lí chất thải rắn theo phương thức 3R
3R là viết tắt của 3 từ Reduce- Reuse-Recycle( Giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế)
Mục tiêu của 3R là tối thiểu hóa lượng chất thải, từ đó:
• Bảo vệ môi trường, ngăn ngừa suy thoái, giảm thiểu các thiệt hại đến môi
trường.
• Tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên nhờ tái chế và tái sử dụng.
• Tiết kiệm chi phí thu gom và xử lý rác thải.
9
• Giảm quỹ đất giành cho việc chôn lấp rác, giảm sức ép lên các bãi chôn lấp rác
đang bị quá tải
Giảm thiểu
Mô hình VAC ( vườn – ao – chuồng) là mô hình đã được áp dụng phổ biến ở nông
thôn Việt Nam từ rất lâu. Đây là mô hình khá đơn giản, lại có hiệu quả giảm thiểu vì
chất thải được tận dung tối đa theo một chu trình vòng khép kín chính vì vậy nên được
khuyến khích tại các hộ gia đình ở nông thôn
Hình 4: Mô hình VAC điển hình ở nông thôn Việt Nam
Tái sử dụng chất thải làm nguyên liệu và năng lượng
• Dùng rơm rạ để làm giá thể nuôi nấm rơm, làm vật liệu độn chuồng.
• Việc sử dụng lại về mặt năng lượng đối với chất thải nông nghiệp mang lại hiệu
quả kinh tế rõ rệt vì tiềm năng nhiệt lượng là rất lớn. Giá trị năng lượng của
10
chất thải rắn nông nghiệp có thể thu hồi trực tiếp nhờ quá trình đốt cháy các
thành phần chất thải hoặc thu hồi gián tiếp thông qua quá trình tạo khí mêtan
V - Giải pháp cho việc đổ thải chất thải rắn nông thôn
Đối với chất thải rắn nông thôn hiện nay nên lựa chọn phương pháp xử lý bằng cách
chôn lấp dễ thực hiện và đạt hiệu quả kinh tế.
5.1 - Đối với các hộ gia đình, trường học, trạm xá, chợ…ở nông thôn có thể sử
dụng hố rác di động

Hố rác di động là loại hố rác đơn giản, dễ sử dụng, ít tốn kém nhưng mang lại nhiều
hiệu quả. Các hộ gia đình chỉ đầu tư ban đầu một nắp hố rác
5.2 - Chất thải rắn có thể được thu gom từ các ngõ không có vỉa hè.
Trong các ngõ đó, các xe cơ giới không thể đi vào, nên hệ thống đơn giản bằng tay
được áp dụng. Một xe đẩy hoặc xe kéo đi từng nhà để thu gom rác, như ở các cộng
đồng tương tự khác, chứng tỏ một hệ thống đơn giản, rẻ tiền, hiệu quả và khả thi, có
thể quản lý bởi cộng đồng địa phương.
5.3 - Mỗi thôn cần có một hố rác hoặc bể chứa rác.
Nơi đây sẽ là nơi tập trung đổ rác của thôn. Sau 1 tuần hoặc nửa tháng, lượng rác đầy
thì mang đến bãi rác quy định.
Đối với rác ngoài đồng nên xây dựng bể nổi nhỏ ở những chỗ thuận lợi cho việc thải
rác như lối ra của cánh đồng. Mọi chai lọ, túi ni lông, hộp thuốc trừ sâu phun xong
được gom đổ vào đó, khi nào nhiều thì mang đi đổ hay xử lý
Thành lập các tổ thu gom rác có thể là do các đoàn thể đảm nhiệm như Hội Phụ nữ,
Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên và chọn ngày thứ bảy tình nguyện để thu gom và làm
sạch đường làng ngõ xóm. Song một yếu tố quan trọng cho thu gom rác thải nông thôn
là chính quyền xã và huyện cần có kinh phí để duy trì cho hoạt động này thường xuyên
như chi phí mua phương tiện vận chuyển, dụng cụ thu gom, bảo hộ Đồng thời mỗi
xã cần xây dựng một nơi đổ rác cho nhân dân trong quy hoạch xây dựng của địa
phương mình.
Vị trí bãi chôn lấp phải nằm trong tầm khoảng cách hợp lý tới nguồn phát sinh phế
thải, tại khu đất trống, không phá hoại cảnh quan, xa khu vực dân cư và nên khuất gió.
Diện tích bãi chôn lấp tuỳ theo khối lượng rác thải và điều kiện của từng địa phương.
11
Bố trí bãi chôn lấp cách xã nguồn nước mặt, các dòng chảy. Và phải được xử lý đúng
cách.
VI – KẾT LUẬN
Tài nguyên đất ở các vùng nông thôn vẫn đang tiếp tục bị suy thoái trầm trọng, làm
biến đổi các tính chất đất và không còn tính năng sản xuất. Các loại hình thoái hoá đất
chủ đạo ở nước ta là: Xói mòn, rửa trôi, sạt và trượt lở đất; suy thoái vật lý (mất cấu

trúc, đất bị chặt, bí, thấm nước kém); suy thoái hoá học (mặn hoá, chua hoá, phèn
hoá); mất chất dinh dưỡng khoáng và chất hữu cơ; đất bị chua; xuất hiện nhiều độc tố
hại cây trồng như Fe3+, Al3+ và Mn2+; hoang mạc hoá; ô nhiễm đất cục bộ do chất
độc hóa học, khu công nghiệp và làng nghề; suy thoái và ô nhiễm đất ở khu khai thác
mỏ.
Nguồn tài nguyên nước đang bị ô nhiễm nghiêm trọng. Hàng loạt những dòng sông
quê kêu cứu vì mức độ ô nhiễm đã gấp nhiều lần so với tiêu chuẩn cho phép. Những
nguồn nước ngầm cung cấp cho người dân nhiễm sắt, nhiễm chì, nhiễm phèn, nhiễm
thuốc bảo vệ thực vật và vô vàn loại chất độc hóa học do các khu công nghiệp, các
làng nghề thải ra vào lòng đất. Ở những dòng sông, những ao hồ ở các vùng quê,
những loài vật thủy sinh như tôm, cua, cá, ốc ếch và thậm chí ngay một loài sống dai
như đỉa thì đến bây giờ, chỉ còn thấy lại trong kí ức của những già ở các vùng thôn
quê.
Bên cạnh đó không khí cũng bị ô nhiễm nặng do quá trình sản xuất, phát triển kinh tế
tạo ra. Như hiện tượng nóng lên toàn cầu đang là vấn đề bức thiết hiện nay.
“Ô nhiễm môi trường nông thôn” là một vấn đề cấp bách và thiết thực. Qua phân tích
một vài vấn đề trên chắc hẳn chúng ta đã thấy được phần nào thực trạng và những hậu
quả của ô nhiễm môi trường nông thôn Việt Nam hiện nay, đó là những yếu tố ảnh
hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống con người. Từ đó, chúng ta nhận rõ được ý thức
trách nhiệm to lớn của bản thân trong công tác bảo vệ môi trường, đồng thời thúc đẩy
sự nghiên cứu tìm tòi các biện pháp xử lí chất thải độc hại gây ô nhiễm môi trường
nhưng song song với nó vẫn phát huy khả năng sản xuất, cạnh tranh của hàng hoá Việt
Nam. Ý nghĩa quan trọng hơn rút ra từ bài tiểu luận đó là: con người luôn phải bảo vệ
môi trường nói chung, hãy giữ cho trái đất luôn xanh - sạch - đẹp bởi đây chính là ngôi
nhà chung của chúng ta.
12
MỤC LỤC
I - Tổng quan về chất thải rắn nông thôn 1
1 - Nguồn gốc, thành phần chất thải rắn nông thôn 2
1.1 - Chất thải rắn nông nghiệp 2

1.2 - Chất thải rắn làng nghề 2
1.3 - Chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn 3
2 - Hiện trạng chất thải rắn tại nông thôn Việt Nam 3
II – ĐẶC ĐIỂM ĐỔ THẢI VÀ THU GOM RÁC THẢI Ở NÔNG THÔN 4
2.1 – Đổ rác thải ở nông thôn 4
2.2 – Thu gom chất thải rắn nông thôn 6
III – NGUYÊN NHÂN 7
IV - QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN NÔNG THÔN 7
4.1 - Việc thu gom, phân loại và vận chuyển 8
4.2 - Xử lí chất thải rắn nông nghiệp 8
4.3 - Xử lí chất thải rắn nông nghiệp nguy hại: 9
4.4 - Quản lí chất thải rắn theo phương thức 3R 9
V - Giải pháp cho việc đổ thải chất thải rắn nông thôn 11
5.1 - Đối với các hộ gia đình, trường học, trạm xá, chợ…ở nông thôn có thể sử dụng hố rác
di động 11
5.2 - Chất thải rắn có thể được thu gom từ các ngõ không có vỉa hè. 11
5.3 - Mỗi thôn cần có một hố rác hoặc bể chứa rác. 11
VI – KẾT LUẬN 12
13

×