Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở thôn ngọc lâm, xã tân kỳ, huyện tứ kỳ, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.83 KB, 61 trang )

1
1
Bài Luận
Đ ề Tài:
Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động
đến mức sống các hộ gia đình ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ,
huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương
MỤC LỤC
2
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ, HỘP
I. GIỚI THIỆU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động di cư là một trong những vấn đề xã hội nổi cộm, thu hút sự quan tâm của nhiều
quốc gia trên thế giới trong bối cảnh kinh tế - xã hội hiện nay. Giống như các quốc gia khác, di
cư ở Việt Nam là một hiện tượng mang tính quy luật, một cấu thành tất yếu của sự phát triển.
Đồng thời di cư lao động còn là một đòi hỏi khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường, là biểu
hiện rõ nét nhất trong sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực, vùng miền lãnh thổ. Dưới
tác động của toàn cầu hóa, những chênh lệch về mức sống, khác biệt trong thu nhập, cơ hội việc
làm, nhu cầu dịch vụ xã hội và sức ép sinh kế đang ngày càng trở thành những áp lực cơ bản tạo
nên các dòng di chuyển lao động trong và ngoài nước. Tại nhiều địa phương các hộ gia đình có
người đi xuất khẩu lao động hay ra thành thị kiếm việc làm, không phân biệt giới tính, tuổi tác.
Họ không chỉ vì những nhu cầu cơ bản như ăn, mặc, ở mà còn vì nhu cầu rất quan trọng khác, đó
là phát triển (tiếp cận các điều kiện giáo dục, thành tựu khoa học, giải trí, hưởng thụ văn hóa…).
Tuy có nhiều lý do khác nhau, song tất cả đều mong muốn cải thiện đời sống cho bản thân và gia
đình (Đặng Nguyên Anh, 2005)
Một trong những hình thức di cư phổ biến là xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh
từ cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động
mở rộng sang Trung Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động
được đưa đi ra nước ngoài, (Trần Văn Thọ, 2006). Theo thống kê của Cục Quản lý Lao động
ngoài nước, trong năm 2011 vừa qua, Việt Nam gửi khoảng 88.298 lao động tới gần 40 nước và


vùng lãnh thổ (GSO,2011). Trong năm 2012, phấn đấu sẽ đưa 90.000 người đi xuất khẩu lao
động. Phần đông công nhân Việt được xuất khẩu sang các thị trường Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài
Loan và Malaysia.
Trên thực tế, xu hướng xuất khẩu lao động đã tạo ra những ảnh hưởng lớn về kinh tế, xã
hội, văn hóa, đặc biệt là đời sống khu vực nông thôn, đồng thời nó còn là một chiến lược “đa
dạng hóa và làm giảm rủi ro cho kinh tế hộ gia đình” (Massey:1994). Nghiên cứu của UNDP
(1998) tiến hành khảo sát tình hình xuất khẩu lao động đã cho kết quả việc xuất khẩu lao động đã
giúp cho việc giảm ở nông thôn, mang lại những biến chuyển về mặt đời sống xã hội như: thu
nhập, cơ hội việc làm, nhà ở y tế, sức khỏe… 90% người di cư có gia đình gửi tiền về trong năm,
gần 84% hộ gia đình khẳng định thu nhập cao hơn trước khi di cư Nhiều nghiên cứu cho thấy
xuất khẩu lao động góp phần tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo. Vậy mức sống của các hộ
gia đình khu vực nông thôn thay đổi như thế nào? Mức sống của hộ gia đình có người xuất khẩu
lao động khác gì so với hộ gia đình không có người xuất khẩu lao động?
Xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương có tới 70% người dân sống chủ yếu bằng nghề
nông (trồng lúa và chăn nuôi), ngoài ra còn có các nghề phụ như: xay sát, cho thuê máy móc
nông nghiệp, nghề mộc, nề, làm nghề phụ…nhưng nhìn chung hoạt động ngoài nông nghiệp
3
3
chiếm không đáng kể. Theo báo cáo tình hình phát triển kinh tế xã hội của xã qua các năm 2010,
2011 thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo nhưng chủ yếu là do kinh tế còn thấp kém,
điều kiện sản xuất hạn chế, chất lượng cuộc sống thấp do: thiếu lao động, thiếu đất, thiếu vốn sản
xuất, gia đình đông con… Một trong những biện pháp cải thiện tình trạng khó khăn hiện nay là
xuất khẩu lao động. Kể từ năm 2004 cho đến nay, xu hướng người dân đi xuất khẩu lao động tăng
mạnh về số lượng. Theo thống kê trong năm 2011, trong toàn xã có 131 lao động làm việc ở nước
ngoài, tăng khoảng 20% so với năm 2010.
Hơn thế nữa, các nghiên cứu trước đã cho thấy những đóng góp của việc xuất khẩu lao
động ở nông thôn, tuy nhiên các tác giả phần nhiều đặt mối quan tâm vào nơi đến, những vấn đề
xã hội như: tội phạm, dân số, môi trường…hay như xem xét thực trạng, nguyên nhân của xuất
khẩu lao động (Mạnh Minh, 2011). Hiện tại chưa có nhiều nghiên cứu chỉ ra sự ảnh hưởng của
xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình mà chủ yếu chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu sự biến

đổi thu nhập, việc làm của các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Chính từ thực tế trên, chúng tôi
xin chọn đề tài nghiên cứu: “Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình
ở thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương”.
Qua đề tài nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu những ảnh hưởng tích cực và tiêu
cực của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình ở khu vực nông thôn. Từ đó đưa ra một
số biện pháp nhằm hạn chế và hoá giải các tác động tiêu cực của hiện tượng xã hội này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu:
Mục tiêu chung của đề tài là nghiên cứu sự ảnh hưởng của việc xuất khẩu lao động tới
mức sống các hộ gia đình tại xã Tân Kỳ - huyện Tứ Kỳ -Tỉnh Hải Dương. Thông qua đề tài
chúng tôi mong muốn góp phần hệ thống hóa lý luận về tác động của xuất khẩu lao động đến
mức sống các hộ gia đình ở nông thôn; tìm hiểu và đánh giá thực trạng xuất khẩu lao động tác
động tới sự biến đổi mức sống các hộ gia đình để từ đó so sánh mức sống của các hộ gia đình
có người đi xuất khẩu lao động với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động tại xã Tân
Kỳ - huyện Tứ Kỳ - tỉnh Hải Dương. Trên cơ sở đó đưa ra khuyến nghị để giảm thiểu những tác
động tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình ở nông thôn. Theo đó, đề tài
có các nhiệm vụ sau:
1. Hệ thống hóa những vấn đề liên quan tới xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống
hộ gia đình.
2. Mô tả thực trạng xuất khẩu lao động ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình.
3. Phân tích, đánh giá sự ảnh hưởng di cư lao động đến mức sống của các hộ gia đình.
1.3. Phương pháp nghiên cứu, chọn điểm, khung phân tích
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp thu thập thông tin,
phương pháp quan sát, phương pháp phỏng vấn sâu…
Phương pháp thu thập thông tin
Thu thập thông tin thứ cấp:
4
4
Xây dựng tổng quan các tài liệu liên quan đến việc ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến
mức sống các hộ gia đình. Đồng thời tiến hành thu thập các tài liệu, số liệu thứ cấp từ Ủy ban
nhân dân xã Tân kỳ về tình hình đi xuất khẩu lao động như: Báo cáo tổng kết thường kỳ về số hộ

có người đi xuất khẩu lao động, thu nhập và mức sống của các hộ gia đình trong thôn, báo cáo thi
đua khen thưởng về xếp loại gia đình văn hóa
Thu thập thông tin sơ cấp:
Chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát nhằm thu thập thông tin sơ cấp và tiến hành
quan sát mức sống các hộ gia đình qua điều kiện, trang thiết bị sinh hoạt, hoạt động lao động –
sản xuất Bên cạnh đó, quan sát thực tế về tình hình xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ diễn ra
như thế nào, có nhiều hay không, hiệu quả đạt được ra sao và làm thay đổi mức sống của các hộ
gia đình tại xã đó như thế nào? (tiếp cận các chủ hộ và qua các cán bộ thôn xã: ban tuyên truyền,
cán bộ dân số, cán bộ hội phụ nữ thôn xã ). Một phương pháp quan trọng nữa là đánh giá nhanh
nông thôn có sự tham gia (PRA) tại địa điểm nghiên cứu nhằm thu thập thông tin về mức sống
gia đình nhìn từ phía người dân. Liệt kê những yếu tố/tiêu chí biến đổi trong mức sống của các hộ
gia đình (có người đi xuất khẩu lao động và không có người đi). Sử dụng công cụ Ranking để xếp
hạng các yếu tố thay đổi của mức sống hộ gia đình. Ngoài ra, đề tài sử dụng phương pháp điều tra
bằng bảng hỏi tiến hành điều tra 30 phiếu, mọi đơn vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau
nhằm thu thập các thông tin mang tính định lượng và định tính. Điều tra bảng hỏi kết hợp với
phương pháp chọn mẫu thì được dựa trên cơ sở một số tiêu chí như: hộ gia đình có người đi xuất
khẩu lao động để chọn ra 20 hộ, 10 hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động tham gia
vào quá trình nghiên cứu bằng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản… Sở dĩ lựa chọn
phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản để đảm bảo tính chính xác, khách quan vì mọi đơn
vị tổng thể đều có được sự lựa chọn như nhau. Tuy nhiên, để thu thập được thông tin qua bảng
hỏi, trước hết nhóm chủ động liên hệ với cán bộ địa phương để lập danh sách và giới thiệu tới các
hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động (hộ gia đình có người đang đi xuất khẩu lao động) và
hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Sau đó chọn ngẫu nhiên 30 hộ trong danh sách
để tiến hành điều tra bảng hỏi (bảng hỏi chủ yếu sử dụng để thu nhập những thông tin mang tính
định lượng và lượng hóa những thông tin định tính có được từ thông tin thu thập trước) và phỏng
vấn sâu. Ngoài ra phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm thu thập các thông tin liên
quan đến nguyên nhân của việc người dân địa phương đi xuất khẩu lao động, đồng thời tìm hiểu
một số ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của xuất khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình.
Chúng tôi tiến hành trong 5 hộ gia đình, 2 đại diện cơ quan: cán bộ hội phụ nữ/trưởng thôn/ cán
bộ hội nông dân, 3 đại diện hộ gia đình) để nắm tình hình xuất khẩu lao động ảnh hưởng như thế

nào đến mức sống của các hộ gia đình theo các chỉ tiêu cụ thể. Ngoài ra, để thu thập một số thông
tin mang tính khái quát và khách quan nhóm nghiên cứu sử dụng phỏng vấn nhóm. Đặc biệt tập
trung tiến hành thảo luận 2 nhóm (gồm hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình
không có người đi xuất khẩu lao động) nhằm tìm ra sự khác biệt trong việc đánh giá sự ảnh
5
5
hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia đình. Các nhóm thảo luận được thiết kế
từ 5-6 người để đảm bảo tính khái quát, tin cậy của thông tin.
6
6
Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
Trước khi đi xuất khẩu LĐ
Ảnh hưởng của XKLĐ tới mức sống các hộ GĐ
Sau khi đi xuất khẩu LĐ
Hộ gia đình không có người đi xuất khẩu LĐ
Chọn điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tập trung tìm hiểu tình hình xuất khẩu lao động ảnh
hưởng đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Sở dĩ chúng tôi chọn địa bàn này là trong những năm gần đây, xu hướng người dân đi xuất khẩu
lao động có chiều hướng gia tăng , thêm vào đó thôn Ngọc Lâm là thôn điển hình của xã Tân Kỳ
có sự chuyển biến nhanh về mức sống các hộ gia đình, luôn đạt được nhiều thành tích trong hoạt
động phát triển kinh tế - xã hội. Đề tài được tiến hành nghiên cứu trong khoảng thời gian từ ngày
19 tháng 3 năm 2012 đến 30 tháng 4 năm 2012; giới hạn nội dung là nghiên cứu ảnh hưởng của
xuất khẩu lao động đến mức sống hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh
Hải Dương. Từ đó làm căn cứ đánh giá đúng thực trạng về mức sống các hộ gia đình ở khu vực
nông thôn.
Khung phân tích:
Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân
Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương được phân tích thông qua việc so sánh hộ gia đình có người đi
xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động; so sánh trước và sau

khi tiến hành đi xuất khẩu lao động (lấy mốc từ năm 2004 – thời điểm người dân đi xuất khẩu lao
động nhiều nhất).
Để thực hiện đề tài này chúng tôi lựa chọn cách tiếp cận có sự tham gia, cụ thể như sau
bao gồm: Chủ thể nghiên cứu, khách thể nghiên cứu. Chủ thể nghiên cứu là nhóm nghiên cứu
trong đó có người thu thập, điều tra, phân tích và tổng hợp báo cáo kết quả. Ngoài ra, khách thể
nghiên cứu là người dân xã Tân kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Thực hiện cách tiếp cận từ
dưới lên thông qua phân tích vi mô: lấy hộ gia đình (vợ và chồng) là đơn vị phân tích nhằm xác
định ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống hộ gia đình nghiên cứu tiếp cận mức sống
hộ gia đình theo thời gian: Trước và sau khi đi xuất khẩu lao động, những hộ gia đình có người đi
xuất khẩu lao động và không có người đi xuất khẩu lao động.
7
7
II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Một số lý thuyết kinh điển về di dân
Di dân là một vấn đề không phải của riêng một nước nào mà còn xuất hiện ở nhiều quốc
gia trên thế giới. Vì vậy mà đã có một số quan điểm của các nhà xã hội học đề cập đến di dân.
Theo luận điểm kinh điển, dân số tại các quốc gia phát triển ít có sự di động do quá trình di cư
diễn ra mạnh mẽ trên nền tảng của một xã hội công nghiệp hiện đại (Zelinski, 1971).
Trong nghiên cứu về “Các nguồn gốc xã hội và kinh tế của nhập cư” D-Massey đi đến kết luận
rằng, di cư là một chiến lược “đa dạng hóa và giảm rủi ro cho thu nhập hộ gia đình” (Massey,
1994)
Nghiên cứu của UNDP (1998) cũng cho thấy những người di cư có sự đóng góp nhất định
cho kinh tế hộ gia đình. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ cho thấy mức độ đóng góp chủ yếu tập
trung vào những hộ trung bình, những hộ nghèo, hộ khá và giàu thì hầu như thu nhập không tăng
mấy. Nghiên cứu không lý giải vì sao mà chỉ dừng lại ở việc mô tả sự khác biệt của mức đóng
góp giữa các nhóm hộ có người di cư.
Một lý thuyết nghiên cứu nổi tiếng trong việc nghiên cứu về di cư đó là lý thuyết của Lee:
Lee (1966) lập luận rằng quyết định di cư được dựa trên 4 nhóm dân tố, một là các nhân tố gắn
bó với nơi ở gốc, hai là các yếu tố gắn với nơi sẽ đến, ba là các trở ngại di cư, và bốn là các nhân
tố thuộc về người di cư. Mỗi một địa điểm, nơi gốc và nơi đến đều có những ưu điểm và hạn chế

trên nhiều lĩnh vực như thu nhập, việc làm, nhà ở, phúc lợi xã hội, giáo dục, chăm sóc sức khỏe,
thậm chí là khí hậu…sẽ được người định cư cân nhắc. Thông thường, các điều kiện kinh tế khó
khăn ở nơi gốc là nhân tố “đẩy” chủ yếu của việc xuất cư, trong khi cải thiện điều kiện kinh tế
của nơi đến là nhân tố “hút” quan trọng nhất của việc nhập cư. Việc đưa ra quyết định định cư
còn được tính toán dựa trên các chi phí vật chất và tinh thần, mà khoảng cách địa lí là một vấn đề
quan trọng nhất vì điều này không chỉ tăng chi phí vận chuyển mà còn tăng các chi phí vô hình
do phải đối mặt với môi trường xa lạ, khó hội nhập. Cuối cùng việc di cư phụ thuộc vào những
phẩm chất cá nhân của từng người, điều này nhà nghiên cứu thường gọi là tính chọn lọc di cư
(migration selectivity). Lý thuyết của Lee là rất có ích cho việc nghiên cứu nhân tố vĩ mô và cả vi
mô của di cư (Lê Thanh Sang, 2008). Ngoài ra, Lee còn phân tích một số các yếu tố khác ảnh
hưởng đến việc di dân. Đó là nhận thức, sự thông minh, hiểu biết của người di cư qua kinh
nghiệm bản thân hay qua các kênh thông tin đại chúng, qua bạn bè, họ hàng… Đây là điều mà
các lý thuyết trước đó ít đề cập tới.
Lí thuyết phân tích mạng lưới xã hội (Social Network Analysis Theory) là một cách tiếp
cận nhằm phân tích các vấn đề về mạng lưới xã hội. Khái niệm cơ bản trong hệ thống xã hội
(social system), nếu cấu trúc xã hội (social structure) thường được xem như là cột dọc thì mạng
lưới xã hội là các kèo ngang. Ronald Burt với lý thuyết lỗ hổng cấu trúc (structure holes) đã đưa
ra ví dụ điển hình là trong mối quan hệ ba người (A quan hệ với B, B quan hệ với C, nhưng A
không quan hệ với C). Ở mối quan hệ này, B là kẻ nắm được lỗ hổng cấu trúc giữa A và C và tạo
8
8
khả năng thu lợi, tạo vốn xã hội (social capital) thông qua vai trò điều phối, kết nối cho các tác
nhân còn lại. Nan Lin – lí thuyết về di động xã hội, các cá nhân tìm kiếm lợi nhuận trong mạng
lưới xã hội thông qua sự di động xã hội. Miller McPherson, Lynn Smith-Lovin và James M.Cook
– lí thuyết đồng dạng. Các cá nhân giống nhau thường xảy ra khả năng liên kết cao hơn so với
các cá nhân khác nhau. Nhà xã hội học Mỹ James Cook nhấn mạnh: “Mạng xã hội là một hình
ảnh thống nhất và được đơn giản hoá trong lĩnh vực xã hội học đầy phức tạp và phân tán. Đó là
sự mô tả cụ thể về cấu trúc xã hội trừu tượng, có khả năng hiện hữu hoá những nguồn lực xã hội
không nhìn thấy. Mặc dù các mạng xã hội đều đơn giản chỉ được thực hiện bằng các nút và dây
nối, chúng vẫn đủ linh động để mô tả các quan hệ của quyền lực và sự tương tác cung cấp một

nền tảng vi mô của xã hội học”.
Những lý thuyết kể trên góp phần chỉ ra hiện tượng di cư là một quy luật tất yếu của quá
trình phát triển, biến đổi xã hội. Chính vì lý do trên mà nó đã tác động lớn tới đời sống của người
dân tại nhiều khu vực, quốc gia khác nhau trên thế giới. Đặc biệt là người dân khu vực tại nơi đến
và đi.
2.2. Tác động của vấn đề di cư đến nông thôn
Ở tầm vĩ mô về di cư, theo lý thuyết của Ravenstein (1889) về qui luật di cư, ông cho
rằng đa số di dân di chuyển ở phạm vi ngắn, một số sẽ di chuyển xa là di chuyển đến các thành
phố lớn, thương mại, di cư diễn ra trong nhiều giai đoạn. Quá trình đô thị hóa thu hút dân số từ
các vùng ngoại ô vào trung tâm. Khoảng trống vùng ngoại vi sẽ được lấp đầy cư dân vùng khác
đến. Cư dân ở trung tâm nhỏ sẽ chuyển đến trung tâm lớn hơn. Cứ như vậy, quá trình di cư diễn
ra theo nhiều giai đoạn kế tiếp theo hướng di chuyển về trung tâm đô thị lớn. Thông thường các
trung tâm thương mại, công nghiệp lớn sẽ thu hút những vùng xung quanh và vùng xa hơn. Mỗi
dòng di cư sẽ tạo ra dòng di cư ngược lại. Mức di cư nông thôn có xu hướng cao hơn mức di cư ở
các đô thị. Di cư tăng lên theo trình độ phát triển kỹ thuật. Kinh tế là nhân tố quan trọng nhất di
cư, mặc dù môi trường xã hội, luật lệ… có ảnh hưởng nhất định. Đây là lý thuyết vĩ mô cho cái
nhìn tổng quát về các nguyên dân của di dân đến các trung tâm thương mại, công nghiệp, tạo tiền
đề cho các nghiên cứu khác.
Di dân góp phần vào giải quyết tình trạng thiếu việc làm và thiếu lao động, dân di cư còn
là những “cầu nối”, không những đóng góp cho sự phát triển của nơi đến mà còn cho cả nơi đi
thông qua việc chuyển tiền, hàng hóa, phổ biến kiến thức và công nghệ cho những người ở quê.
Các kết quả phân tích 2004 VMS cũng như một số nghiên cứu khác (GSO và UNFPA, 2005:
139) đã cho thấy rõ điều này. Kết quả nghiên cứu nhóm dân di chuyển tạm thời cũng cho thấy
dân di cư tham gia nhiều vào mạng lưới xã hội và nhận được sự hỗ trợ cũng như đóng góp cho
mạng lưới này ở cả đầu đi và đầu đến: trong số dân di cư sinh sống tại các nhà trọ, hơn 90% có
người thân sống ở quê, 32% nhận được sự giúp đỡ ở nơi đến và 40% có giúp đỡ kinh tế cho
những người thân sống ở quê (Viện xã hội học và đối tác, 1998). Với di dân quốc tế, lượng lao
động xuất khẩu tăng nhanh và lượng kiều hối gửi về nước càng lớn. Trong năm 1996 và 1997, số
9
9

tiền gửi về mỗi năm là 350 triệu đô la Mỹ thì trong năm 1999 con số này đã tăng lên 1 tỷ đô la
Mỹ và năm 2003 là 1,5 tỷ đô la Mỹ (Trần Nguyên, 2004: trang 9).
Như vậy, các bằng chứng hiện có ở trên cho thấy di dân có tác động rất quan trọng đến sự
phát triển của đất nước. Với một nước nghèo đang trong giai đoạn phát triển như Việt Nam, di
dân sẽ còn tiếp tục tăng. Những khoản tiền lớn hơn gửi về từ di dân quốc tế cho phép những hộ
khá giả đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và cũng có thể đầu tư cho những thành viên khác trong
hộ tiếp tục di chuyển. Trình độ học vấn cao của các thành viên của hộ gia đình có kinh tế khá giả
dường như đảm bảo những lợi ích (thu nhập và tri thức) lớn hơn trong tương lai và vì vậy những
hộ này sẽ lại càng khá giả thêm. Di dân đã góp phần giải quyết thất nghiệp và thiếu việc làm,
nâng cao chất lượng dân số, nâng cao trình độ của đầu đi và tác động mãnh mẽ đến mức sống của
hộ gia đình nhất là những hộ có người đi xuất khẩu lao động, góp phần vào quá trình xóa đói
giảm nghèo của đất nước. Đồng thời, người đi được tiếp cận những dịch vụ xã hội tốt hơn, phát
triển kinh tế xã hội và có thể góp phần làm giảm tốc độ gia tăng bất bình đẳng hoặc giảm bất bình
đẳng giữa các di dân ở nơi đi và những hộ gia đình ở nơi đến.
Khi nhận định về vai trò di dân nông thôn - đô thị, tác giả Đặng Nguyên Anh cho rằng di
dân đang góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo, nâng cao mức sống, cải thiện thu nhập cho
các gia đình ở nông thôn hiện nay. Người lao động nông thôn từ thành phố trở về mang theo
những tri thức gắn liền với nhịp sống văn minh thành phố, các thang giá trị mới trong lối sống mà
trước đó chưa từng tồn tại ở làng quê. Tác giả cho rằng xu hướng di dân này ngày càng gia tăng
là điều tất yếu ở Việt Nam cũng như đối với bất kì quốc gia nào đang trên con đường CNH-HĐH
vì di cư là một trong những đặc trưng của quá trình phát triển. (Đặng Nguyên Anh, Về vai trò của
di cư nông thôn - đô thị, Tạp chí xã hội học, số 1/1997).
Một nhóm nghiên cứu gồm Nguyễn Thị Vân Anh, Trần Thị Minh Đức, Lê Ngọc Hùng,
Lê Khanh, Hoàng Mộc Lan, Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Hữu Thụ cùng với tổ chức cứu trợ trẻ em
của Thuỵ Điển (Save the Children Sweden) đã tiến hành nghiên cứu về trẻ em làm thuê, giúp việc
gia đình ở Hà Nội năm 2000. Công trình nghiên cứu này đã đề cập một cách khá toàn diện về
chân dung những trẻ em làm thuê giúp việc trong các gia đình ở Hà Nội, về nhu cầu, tính chất
của lao động thuê mướn, quan hệ xã hội đến nhận thức, thái độ của các em…
Qua bài “ Đi làm ăn xa – phương thức tăng thu nhập gia đình” nghiên cứu thực tiễn tại xã Trịnh
Xá, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam của Nguyễn Ngọc Diễm và Nguyễn Thị Minh Châu. Ta thấy

rằng phần lớn những người đi là ăn xa điều do điền kiện gia đình nghèo khó và trình độ tay nghề
thấp vì vậy họ chọn con đường đi làm ăn xa để có thu nhập cao cho gia đình, vì những người di
làm ăn xã họ vẫn là thành viên của hộ gia đình có khả năng lao động việc đi làm xa chỉ mang tính
chất di cư tạm thời họ vẫn giữ liên hệ với gia đình mình chặt chẽ. Chính vì đi làm ăn xa nên có sự
ảnh hưởng đến mức sống hộ gia đình rất lớn nhìn chung nam giới có xu hướng đi làm ăn xa nhiều
hơn so với nữ giới. Bởi vì những người làm ăn xa nam giới có nhiều thuận lợi hơn so với nữ,
chẳng hạn như việc làm, điều kiện sống xã nhà, công việc ở nhà người phụ nữ đảm đương cũng
có nhiều thuận lợi hơn như việc nuôi dạy con cái quán xuyến các cộng việc nội trợ ngay cả việc
10
10
làm nông. Nghiên cứu đã cho thấy thu nhập những người đi làm ăn xa gửi về góp phần tăng thu
nhập hộ gia đình và góp phần xóa nghèo cho hộ gia đình đó, nhìn chung khi so sánh với các hộ
gia đình không có người đi làm ăn xa thì mức sống của họ cũng khá hơn nhiều. Những đóng góp
của người làm ăn xa không chỉ đơn thuần giúp tăng thu nhập gia đình bằng số tiền gửi về mà từ
nguồn đóng góp đó nó đồng thời tạo những điều kiện làm thay đổi diện mạo ở địa phương.
Phân tích các công trình nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về làn sóng di dân quốc
tế, xuất khẩu lao động tìm việc làm cho thấy vấn đề này đã được tiếp cận từ nhiều góc độ khác
nhau: nguyên nhân di cư, đặc điểm, tính chất, thu nhập của công việc, các lứa tuổi, giới tính
người lao động, những ảnh hưởng tích cực và hậu quả của hiện tượng xã hội này. Tuy vậy, qua
phân tích các công trình nghiên cứu cũng cho thấy các khía cạnh ảnh hưởng của di cư lao động
nói chung và xuất khẩu lao động nói riêng đến mức sống của các hộ gia đình như: thu nhập, chi
tiêu, mối quan hệ gia đình…còn chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm, nếu không nói là còn
bỏ ngỏ. Đây là vấn đề quan trọng vì những khía cạnh này có liên quan trực tiếp tới hành vi lao
động của những người đi xuất khẩu lao động… Với mục tiêu ổn định và phát triển đời sống kinh
tế - xã hội ở khu vực nông thôn, việc nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức
sống các hộ gia đình là điều rất cần thiết. Nghiên cứu này có thể diễn ra trên nhiều mặt như tìm
hiểu sự thay đổi thu nhập, chi tiêu, nhu cầu tìm kiếm các loại hình lao động của họ ra sao, đời
sống tình cảm của người lao động trong thời gian đi xuất khẩu lao động, thái độ của họ đối với
công việc của mình, tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của gia đình.
2.3. Xuất khẩu lao động và kiều hối

Vấn đề xuất khẩu lao động là một trong những vấn đề được quan tâm đặc biệt, nhất là
trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới hiện nay.
*Xuất khẩu lao động được hiểu là đưa người lao động (bao gồm công nhân kĩ thuật, kĩ
sư, chuyên gia, những người đã có tay nghề qua đào tạo…) ra nước ngoài làm việc nhằm tăng thu
nhập về ngoại tệ cho đất nước, đồng thời giải quyết việc làm cho người lao động. Xuất khẩu lao
động là một hình thức di chuyển lao động từ nước có nhân lực dồi dào, chủ yếu là các nước đang
phát triển sang các nước thiếu lao động, thường là các nước có nền kinh tế phát triển.
Đối với một nước dân số vào khoảng 84 triệu dân, với trên một nửa là số người trong độ tuổi lao
động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến 5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở
nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao
động rất có ý nghĩa.
Ngoài khái niệm về xuất khẩu lao động thì còn có một số khái niệm liên quan đến vấn đề
này như: mức sống, hộ gia đình, kiều hối. Nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi sử
dụng một số khái niệm liên quan như sau:
* Kiều hối là tiền bạc được di chuyển từ những người đang trú ngụ hay là lao động ở
nước ngoài đến thân nhân của họ tại quê hương.
11
11
Hay kiều hối cũng được hiểu là tiền do người sống và làm việc ở nước ngoài chuyển về
đất nước của họ. Theo như World Bank định nghĩa: kiều hối là bao gồm các khoản tiền chuyển từ
nước ngoài có nguồn gốc là thu nhập của người lao động, dân di cư ở nước ngoài, được thể hiện
trong cán cân thanh toán quốc tế là khoản tiền chuyển (ròng).
Dựa trên nghiên cứu, đánh giá một số yếu tố tác động của kiều hối tới sự phát triển kinh tế
Việt Nam của TS. Đỗ Kim Hảo cho thấy kiều hối giúp nâng cao nhận thức của người phụ nữ
trong gia đình, thực hiện kế hoạch hóa và giảm tỷ lệ sinh đẻ, nâng cao chất lượng cuộc sống
của người dân. Kiều hối cũng có tác động tích cực đến dịch vụ chăm sóc y tế, tăng cường sức
khỏe cho người dân, đặc biệt tại các quốc gia có hệ thống y tế kém phát triển. Nghiên cứu của
WB năm 2006 tại các quốc gia Mỹ La tinh cho thấy, một trong những động cơ quan trọng để
những người dân sống làm việc tại nước ngoài chuyển tiền về nước là để trang trải các chi phí
chăm sóc y tế.

*Khái niệm mức sống: là một khái niệm, phạm trù kinh tế - xã hội đặc trưng mức thoả
mãn nhu cầu về thể chất, tinh thần và xã hội của con người. Được thể hiện bằng hệ thống các chỉ
tiêu số lượng và chất lượng của các điều kiện sinh hoạt và lao động của con người. Một mặt mức
sống được quyết định bởi số lượng và chất lượng của cải vật chất và văn hoá dùng để thoả mãn
nhu cầu của đời sống; mặt khác, được quyết định bởi mức độ phát triển bản thân nhu cầu của con
người. Mức sống không chỉ phụ thuộc vào nền sản xuất hiện tại mà còn phụ thuộc vào quy mô
của cải quốc dân và của cải cá nhân đã được tích luỹ. Mức sống và các chỉ tiêu thể hiện nó là do
tính chất của hình thái kinh tế - xã hội quyết định. Do vậy nói đến mức sống thì không đơn thuần
chỉ là khía cạnh kinh tế vật chất mà nó bao hàm cả yếu tố về mặt tinh thần liên quan đến sự ổn
định – phát triển xã hội nói chung và từng hộ gia đình nói riêng.
Có rất nhiều khái niệm về mức sống tuy nhiên khái niệm trên được chúng tôi lựa chọn sử dụng
trong đề tài vì nó chỉ rõ những khía cạnh liên quan tới mức sống: nhu cầu về của cải vật chất, tinh
thần…Đồng thời nó chỉ ra được mức sống không đơn thuần là phạm trù kinh tế mà nó bao gồm
cả khía cạnh xã hội. Vận dụng điểm này giúp chúng tôi phân tích sâu hơn về ảnh hưởng của xuất
khẩu lao động tới mức sống các hộ gia đình.
*Khái niệm hộ gia đình: Hộ là một nhóm cùng huyết tộc, sống chung hay không sống
chung với những người khác huyết tộc trong cùng một mái nhà, ăn chung và có chung một ngân
quỹ (Viện kinh tế học, 1995). Như vậy, gia đình là cơ sở của hộ nói chung. Gia đình - một loại
hình hộ - chứa đựng các yếu tố để hình thành những loại hình hộ mở rộng khác. Chính ở điểm
này mà người ta thường lẫn lộn giữa hộ với gia đình, nên đã nảy sinh thuật ngữ “Hộ gia đình”.
Thực ra là cách nói trùng lặp những nội dung khác nhau của hộ và gia đình.
Các nhà kinh tế học, xã hội học đưa ra 3 tiêu chuẩn để phân biệt hộ và gia đình: quan hệ
hôn nhân, huyết thống và thân tộc; cư trú chung; có chung cơ sở kinh tế.
Gia đình là khái niệm dựa trên tiêu chí thứ nhất, hai tiêu chí sau không nhất thiết phải có,
bởi vì những thành viên trong gia đình khi đến tuổi trưởng thành có thể sinh sống ở nhiều địa
12
12
điểm khác nhau. Họ thành lập những gia đình mới độc lập về kinh tế. tuy vậy, họ vẫn được coi là
người trong một gia đình. (Vũ Tuấn Anh, Trần Thị Vân Anh, 1997).
Ở Việt Nam cho tới nay chưa có một cuộc thảo luận nghiêm túc nào về khái niệm hộ và

các phương pháp nghiên cứu hộ. Hầu như từ trước tới nay, người ta mặc nhiên thừa nhận “Hộ” là
“gia đình”, “kinh tế hộ” là “kinh tế gia đình”. Tuy vậy theo chúng tôi, với khái niệm hộ gia đình
nêu trên có thể phản ánh phần nào tính chất, đặc điểm của hộ gia đình khác với đặc điểm của gia
đình nói chung và lấy đó làm căn cứ nhận diện.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
Để tìm hiểu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động tới mức sống người dân tại thôn Ngọc
Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, Hải Dương chúng tôi khảo sát tổng số mẫu được chọn ngẫu nhiên
là 30 hộ gia đình cho bảng hỏi định lượng, 5 cuộc phỏng vấn sâu và 2 cuộc thảo luận nhóm, trong
đó một cuộc thảo luận nhóm thực hiện đối với hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động, một
cuộc với hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động. Dựa vào kết quả nghiên cứu định
tính và định lượng phục vụ đề tài: “Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến mức sống các hộ gia
đình ở khu vực nông thôn” (Nghiên cứu trường hợp tại xã Tân Kỳ, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải
Dương) được tiến hành tháng 3 năm 2012, sau đây là một số phân tích ban đầu rút ra từ cuộc điều
tra.
3.1. Thực trạng xuất khẩu lao động tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương
Quá trình khảo sát địa bàn thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ cho thấy hoạt động nông nghiệp
đã phát triển trong những năm gần đây nhưng nhìn chung người nông dân chưa được tiếp cận với
nhiều máy móc hiện đại. Nhiều hộ cho thuê máy để cày xới, nhưng một số hộ vẫn dùng sức trâu,
bò, tận dụng phân chuồng làm phân bón… Ngoài ra, các công việc gieo trồng, chăm sóc, thu
hoạch đều làm thủ công, tận dụng sức người lớn; hơn nữa điều kiện khí hậu khắc nghiệt, kênh
tưới tiêu chưa đảm bảo cung cấp đủ nước cho cây trồng, nhiều loại sâu bệnh phát triển…do đó
hiệu quả từ sản xuất nông nghiệp còn thấp. Theo số liệu thống kê từ Ủy ban nhân dân xã Tân Kỳ
cung cấp cho thấy sự phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng và toàn xã nói chung có xu hướng
tăng lên so với trước đây nhưng chưa rõ rệt vì điều kiện sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp
còn gặp nhiều hạn chế. Ví dụ như tình trạng thừa lao động nhưng thiếu việc làm mang lại thu
nhập ổn định, thiếu đất, thiếu vốn sản xuất, trình độ học vấn chưa cao nên công việc không ổn
định, thu nhập bấp bênh. Trong khi đó nhu cầu vật chất và tinh thần của các thành viên luôn cần
được đáp ứng mỗi ngày. Do vậy, mong muốn cải thiện mức sống đã thúc đẩy người dân nơi đây
tìm kiếm việc làm để nâng cao thu nhập giúp trang trải cuộc sống gia đình. Một trong những biện
pháp cải thiện tình trạng này là việc đi xuất khẩu lao động. Xuất khẩu lao động là một hình thức

di chuyển lao động từ nước có nhân lực dồi dào, chủ yếu là các nước đang phát triển sang các
nước thiếu lao động - các nước có nền kinh tế phát triển. Xuất khẩu lao động cũng là một kênh
đem lại nguồn thu nhập cho gia đình. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động học hỏi
được những kinh nghiệm làm việc trong nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác phong làm
13
13
việc cho người lao động Thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ là một minh chứng tiêu biểu cho
việc người dân đi xuất khẩu lao động. Số lao động đi làm việc ở nước ngoài tăng lên rõ rệt cả về
số lượng và chất lượng. Vì thế, xuất khẩu lao động tại xã Tân kỳ- huyện Tứ Kỳ- tỉnh Hải Dương
trong nhiều năm trở lại đây đang có chiều hướng gia tăng và những người đi xuất khẩu lao động
sẵn sàng làm bất cứ công việc ở nước ngoài nào để có nguồn thu nhập gửi về gia đình. Nhưng
cũng có trường hợp thì ngược lại, một số hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động trong thôn
thì đã gặp rất nhiều những khó khăn và rủi ro. Vì vậy, họ không tìm được công việc ổn định, thu
nhập thấp không đủ tiền gửi về gia đình để trang trải nợ nần và mức sống của cả gia đình giảm
xuống.
Người đi xuất khẩu lao động hầu hết nằm trong độ tuổi lao động. Số liệu điều tra hộ gia
đình và kết quả thảo luận nhóm cho thấy người đi xuất khẩu lao động chủ yếu nằm trong độ tuổi
từ 18 đến 41 tuổi, tiếp theo là nhóm tuổi từ 42- 46 tuổi. Thêm vào đó, hiện tượng đi xuất khẩu lao
động diễn ra mạnh nhất vào khoảng những năm 2003, 2004. Qua nghiên cứu ảnh hưởng xuất
khẩu lao động tại xã Tân Kỳ- huyện tứ Kỳ- tỉnh Hải Dương chúng tôi đã thống kê độ tuổi người
đi xuất khẩu lao động như sau:
Bảng 1. Tuổi và trình độ học vấn của những người đi xuất khẩu lao động:
Nguồn số liệu điều tra
Từ số liệu bảng 1 cho thấy người đi xuất khẩu lao động tập trung chủ yếu vào độ tuổi
trung niên từ 34 – 41 tuổi (40%). Tuy nhiên ở độ tuổi này ít người có xu hướng quay trở về quê
hương để sinh sống và tái sản xuất, mà họ muốn ở lại để kéo dài thời gian làm việc bên nước
ngoài. Do tiền công cao, chế độ ưu đãi tốt, người lao động mong muốn ở lại kiếm thêm thu nhập
gửi tiền về trang trải cuộc sống gia đình, làm giàu quê hương. Số lượng người đi xuất khẩu lao
động ở độ tuổi 18 đến 25 và từ 26 đến 33 lần lượt chiếm 16% và 32%.
14

14
Độ tuổi Số lượng Phần trăm Trình độ Số lượng Phần trăm
18 – 25 4
16%
5/12 6 24%
26 – 33 8
32%
9/12 7 28%
34 – 41 10
40%
11/12 9 36%
42 – 46 3
12%
12/12 3 12%
Tổng 25
100%
Tổng 25 100%
Quá trình đi tìm hiểu tại địa phương đã cho thấy trình độ học vấn của người đi xuất khẩu
lao động nhìn chung ở mức trung bình. Số lượng người đi xuất khẩu lao động đã qua đào tạo
nghề chiếm số ít (12%). Bên cạnh đó, trình độ học vấn của người đi xuất khẩu lao động ở mức
phổ thông chiếm tỷ lệ lớn nhất là 36%. Tương ứng với trình độ học vấn này thì công việc họ đảm
nhận bên nước ngoài thường có tính chất nặng nhọc, cường độ làm việc cao, cần sức lao động
nhiều như làm công nhân khuân vác đồ ở công ty xây dựng, công nhân mỏ, thợ sắt, thợ xây…
Hơn thế nữa trình độ học vấn cũng là yếu tố quyết định tới việc họ kéo dài thời gian đi xuất khẩu
lao động sang nước khác.
Hộp 1: Trình độ học vấn và thời gian làm việc
Xu hướng nam giới đi xuất khẩu lao động nhiều hơn nữ giới đi xuất khẩu lao động, phần
lớn là những người đã kết hôn hoặc số ít là nam thanh niên chưa kết hôn sang đó làm công nhân
trong các nhà máy xí nghiệp, vừa học vừa làm thêm
Bảng 2. Tình trạng kết hôn và giới tính của những người đi xuất khẩu lao động.

Nguồn số liệu điều tra:
Trong số những người đi xuất khẩu lao động, những người đã kết hôn (64%) chiếm tỷ lệ
lớn hơn những người sống độc thân (36%). Đặc biệt hơn nữa, nam giới nhìn chung có xu hướng
đi xuất khẩu lao động nhiều hơn so với nữ giới. Nguyên nhân chủ yếu là do điều kiện và cơ hội
việc làm thường ưu tiên cho nam nhiều hơn nữ, ví dụ như đặc thù, tính chất công việc, điều kiện
sống xa nhà… Đa phần người lao động là nam giới phải làm việc ở những môi trường nặng nhọc,
vất vả hơn như là nhà máy, công xưởng sản xuất, công trình xây dựng… còn lao động nữ làm
giúp việc ở các gia đình, cửa hàng thẩm mỹ, bán hàng thuê… với thu nhập không cao. Điều đó
thể hiện rõ qua số liệu điều tra ở bảng 2: tỷ lệ nam đi xuất khẩu lao động chiếm 68%, trong khi
đó nữ chỉ chiếm 32%. Một yếu tố mà phần lớn người được hỏi đều thừa nhận đó là phụ nữ ở nhà
15
15
Những người có trình độ học vấn và tay nghề cao thường ở lại đó với thời gian lâu hơn (từ 5-
10 năm), còn người có trình độ học vấn hết cấp 1, cấp 2 thì khi kết thúc hợp đồng lao động là
quay trở về gia đình. Trong số những người đi xuất khẩu lao động rất ít người có trình độ học
vấn cao trên đại học, chỉ chiếm khoảng từ 5-10%. Hơn nữa, đặc thù công việc bên đó cũng
yêu cầu phải có tay nghề và trình độ nhất định mới có thể làm được. Ví dụ như lắp ráp máy
móc, thiết kế mạng điện thì họ chỉ nhận những người có trình độ 12/12 trở lên. Chế độ quản lý
lao động nghiêm ngặt của nước sở tại khiến họ ít có cơ hội được về thăm nhà thường xuyên,
thậm chí là không có ngày nghỉ lễ…(Phỏng vấn sâu lãnh đạo, thôn Ngọc Lâm)
Tình trạng
kết hôn
Số lượng Phần trăm Giới tính Số lượng Phầm trăm
Kết hôn 16 64% Nam 17 68%
Độc thân 9 36% Nữ 8 32%
Tổng 25 100% Tổng 25 100%
có nhiều thuận lợi hơn so với đàn ông. Hầu hết các công việc nhà đều cần bàn tay người phụ nữ
để quán xuyến, từ làm nông nghiệp cho đến chăm sóc, nuôi dạy con cái, nội trợ… Đàn ông là
người đi làm ăn kinh tế, gia tăng thu nhập và nắm quyền quyết định trong gia đình. Hơn nữa, đa
số những gia đình có người đi xuất khẩu lao động và các cá nhân đi xuất khẩu lao động đã quay

trở về cho biết rằng ngay cả đối với việc đồng áng, trừ lúc thu hoạch là cần sức lực của người đàn
ông, phần lớn các công việc như cấy, gặt, nhổ cỏ… đều phù hợp hơn với phụ nữ. Đối với trường
hợp cả vợ và chồng đi xuất khẩu lao động thì những công việc này thường do người ở nhà đảm
nhiệm. Công việc sản xuất, trồng trọt chuyển sang cho người thân quen trong gia đình, dòng họ.
Bảng 3. Nước đi xuất khẩu lao động.
Nguồn số liều điều tra:
Trong quá trình tìm hiểu về tình hình đi xuất khẩu lao động tại địa phương, nhóm nghiên
cứu còn nhận thấy người dân ở đây chủ yếu đi xuất khẩu lao động sang các nước như: Malaysia
(28%), Hàn Quốc (28%), Đài Loan (24%), Nhật Bản (8%) (xem bảng 3). Sở dĩ như vậy vì các
nước này hiện đang thu hút một lượng lớn người dân tại địa phương đi xuất khẩu lao động với
thu nhập và mức độ uy tín cao. Bên cạnh đó, việc người dân lựa chọn nước đi xuất khẩu lao động
cũng phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Ví dụ: công việc ổn định, thu nhập cao, có người thân ở bên
nước sở tại, đảm bảo an toàn về trật tự an ninh hay không. Quan trọng hơn, tâm lý chung của hầu
hết người lao động khi lựa chọn điểm đến đó là mức lương mà họ kiếm được cao hay thấp. Các
quốc gia được chọn chủ yếu là thuộc khu vực Châu Á như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia…
Đây là những nước có mức lương trả cho lao động tương đối cao và công việc ổn định.
Hộp 2: Tiền lương nhận được ở từng nước là khác nhau
“…Các cá nhân đi xuất khẩu lao động có thu nhâp dao động từ 7 triệu đồng đến 10 triệu
đồng/ tháng, đó là đi Malaysia, Đài Loan, còn đi Hàn Quốc với Nhật Bản hay LiBi thì tiền
lương làm phải được 15 triệu đồng đến 20 triệu đồng/ tháng, chẳng hạn như gia đình cô
Thanh có con trai đi làm ở Hàn Quốc thu nhập 20 triệu đồng/ tháng…” (Thảo luận nhóm hộ
16
16
Nước Số người Phần trăm
Hàn Quốc 7 28%
Đài Loan 6 24%
Malaysia 7 28%
Indonesia 2 8%
Nhật Bản 2 8%
Nga 1 4%

Tổng 25 100%
gia đình có người đi xuất khẩu lao động)
Người lao động nhận hợp đồng lao động từ 3-5 năm và hầu hết là do người quen giới
thiệu, một số ít thuộc diện được gửi đi theo chính sách của địa phương. Những người đi làm ăn
xa thường làm nhiều công việc khác nhau, có công việc phù hợp với nghề nghiệp sẵn có (nghề
truyền thống của gia đình: mộc, nề, thêu ren ), nhưng cũng có người làm công việc mà họ chưa
từng biết đến, hầu hết là việc làm tự do có thể thay đổi trong thời gian ngắn. Không chỉ vậy, điều
khoản của hợp đồng lao động còn yêu cầu người lao động phải có tay nghề, chuyên môn làm
việc, có khả năng giao tiếp bằng tiếng bản địa và nộp tiền đặt cọc trước khi sang bên đó. Chẳng
hạn như muốn Malaysia, Đài Loan để lao động thì phải đặt cọc trước 100 – 150 triệu đồng tiền lệ
phí, vé máy bay… cho công ty của nước sở tại.
Mặt khác, việc người lao động xa nhà trong thời gian dài có ảnh hưởng không nhỏ tới
công việc sinh hoạt, sản xuất của gia đình. Các thành viên ở nhà phải làm nhiều hơn những công
việc mà trước đây họ từng đảm nhận. Nhưng đa phần họ đều đồng ý hoặc số ít không có ý kiến
khi người thân đi xuất khẩu lao động.
Bảng 4. Mức độ đồng ý của gia đình cho người thân đi xuất khẩu lao động
Hộ gia đình
Có người đi XKLĐ Không có người đi XKLĐ
Số
lượng
Phần
trăm
Số
lượng
Phần
trăm
Mức độ
đồng ý
Rất không đồng ý 0 .0% 1 8.3%
Không đồng ý 2 12.5% 5 41.7%

Không ý kiến 1 6.3% 0 .0%
Đồng ý 11 68.8% 6 50.0%
Rất đồng ý 2 12.5% 0 .0%
Nguồn số liệu điều tra:
Khi tìm hiểu về mức độ đồng ý của gia đình khi cho các thành viên đi xuất khẩu lao động
thì có 11 ý kiến đồng ý (68.8%), 2 ý kiến không đồng ý (12.5%) và 2 ý kiến rất đồng ý (12.5%).
Điều này cũng chứng tỏ việc đi xuất khẩu lao động không chỉ là mong muốn của cá nhân người
đi mà còn là cả gia đình với hy vọng cải thiện, thay đổi đời sống so với trước đây. Phần lớn người
dân khi được hỏi tại sao lại đồng ý cho người thân của mình đi xuất khẩu lao động đều trả lời là
do trình độ học vấn thấp nên đồng nghĩa với việc công việc không ổn định, thu nhập bấp bênh;
trong khi đó, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, không đủ trang trải cho cuộc sống hàng ngày.
Một người phụ nữ có chồng đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc chia sẻ:
Hộp 3: Đi xuất khẩu lao động vì đời sống còn nhiều khó khăn
“…Tôi đồng ý cho chồng đi xuất khẩu lao động cũng chỉ vì mong muốn đời sống khấm khá
hơn. Gia đình tôi có ba cháu vẫn đang đi học nên chi tiêu cho giáo dục rất tốn kém…Thu
17
17
nhập ở tại gia đình trông vào mấy sào ruộng thì chẳng đủ ăn, không có trình độ thì chả xin
làm được ở đâu…” (phỏng vấn sâu, nữ 39 tuổi)
Những khó khăn ở nông thôn là nhân tố khiến những người dân nơi đây xem việc đi xuất
khẩu lao động là một cách mưu sinh. Trong các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm, hầu hết các ý
kiến đều xoay quanh những hạn chế về hoạt động sản xuất và thu nhập ở nông thôn dẫn đến việc
người dân đi xuất khẩu lao động. Một cán bộ thôn cho biết: “…dựa vào tình hình chung của thôn
Ngọc Lâm nói riêng và xã Tân Kỳ nói chung thì kinh tế còn thấp (…), đồng bằng chiêm trũng,
cuộc sống khó khăn, người dân còn nghèo khó nên bắt buộc phải ra đi. Vì nhu cầu cuộc sống
thôi. Với thời buổi bây giờ, giá cả hàng hóa leo thang, chỉ có người dân chúng tôi là thiệt thòi,
phải xoay sở đủ mọi thứ: làm thế nào không mất mùa, làm sao có thu nhập trang trải cuộc
sống Ở bên đó họ có thể vừa học nghề vừa làm việc”. (Nam cán bộ, thôn Ngọc Lâm).
Do vậy, phần lớn gia đình đều đồng ý cho người thân đi xuất khẩu lao động vì nhiều lý do
như: mong muốn cải thiện kinh tế, tìm kiếm công việc ổn định, trau dồi kỹ năng, tay nghề.

3.2. Kiều hối (Tiền gửi về của các hộ gia đình):
Đóng góp vào thu nhập chung của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động là tiền
gửi về từ người lao động làm việc tại nước ngoài. Thông qua số lượng tiền mà người lao động
gửi về cho gia đình, xuất khẩu lao động đang góp phần điều chỉnh lại sự chênh lệch thu nhập giữa
nông thôn và thành thị. Cụ thể hơn nữa, tiền gửi về ảnh hưởng rõ rệt tới thu nhập của các hộ gia
đình có người đi xuất khẩu lao động tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương.
Hình 1. Tiền gửi về của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động.

Như vậy, theo kết quả điều tra thì đa phần hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động gửi
tiền về cho gia đình (84.62%); còn 15.3 % hộ cho biết không nhận được tiền gửi về do gặp rủi ro
trong lao động hoặc do bị bạn bè lôi kéo mà rơi vào tệ nạn xã hội như rượu chè, cờ bạc Việc
không nhận được đóng góp này cũng xuất phát từ nhiều lý do. Tìm hiểu nguyên nhân cho thấy,
một số cá nhân chỉ mới bắt đầu đi làm ăn xa trong thời gian ngắn, chưa thể đóng góp cho gia
đình; một số đi theo hợp đồng dài hạn, vì khoảng cách xa xôi nên chưa có điều kiện về thăm
nhà Hơn thế nữa việc chuyển tiền về cho gia đình cũng gặp không ít khó khăn vì đa số người
lao động không nắm rõ được kênh chuyển tiền, gửi qua các tổ chức chính thức, phi chính thức
của công ty hay ngân hàng. Gửi qua những tổ chức này thường mất phí cao mà thu nhập lúc mới
đi không đáng kể, cộng thêm khoản phải trả lãi ngân hàng hàng tháng cũng là sức ép lớn đối với
họ. Vì vậy, để gửi được tiền về cho gia đình, họ phải nhờ những người thân quen, tin cậy trong
mỗi dịp có người về thăm nhà; với những trường hợp không có người quen thì phải đợi tới đợt
được nghỉ phép họ mới có thể mang tiền về.
18
18
Hộp 4: Gửi tiền về từ 3 – 4 lần/ năm
“…Từ khi đi Nga anh và chị cũng thỉnh thoảng gửi tiền về (3- 4 lần/năm, do gửi qua ngân
hàng phải mất phí nhiều nên số tiền được góp lại gửi về một lúc luôn hoặc khi có người thân
về thì gửi về. Khoản tiền mà anh chị gửi về một năm khoảng 5 nghìn USD (100 triệu đồng/
năm). Với số tiền gửi về hàng năm đó tôi dùng vào việc trả nợ, tôn tạo nhà cửa( hiện nay là
nhà 3 tầng), mua các vật dụng lâu bền trong nhà, nuôi con cháu ăn học”. (Phỏng vấn sâu nữ,
70 tuổi, nông dân).

Kết quả điều tra cho thấy:
Hình 2. Mức độ thường xuyên gửi tiền về: Đơn vị tính %
Nguồn số liệu điều tra
Qua biểu đồ có thể thấy tần suất gửi tiền về của người đi xuất khẩu lao động không cao.
Cụ thể, đa phần người lao động thỉnh thoảng gửi tiền về cho gia đình (3 – 4 lần/ năm) chiếm
37.5%; một số ít người không gửi về (6.3%) do làm ăn thua lỗ, chưa trả hết nợ, chỉ có 4 hộ người
thân thường xuyên gửi tiền về (25%); trường hợp hiếm khi gửi tiền về cho gia đình (1 – 2 lần/
năm) cũng chiếm tới 31.3 %.
Hộp 5: Gửi tiền qua người thân
“…Từ khi đi Nga, con tôi cũng thỉnh thoảng gửi tiền về (3- 4 lần/năm). Do gửi qua ngân hàng
phải mất phí nhiều nên số tiền được góp lại gửi về cùng một lúc hoặc khi có người thân về thì
nhờ mang về…. (Phỏng vấn sâu nữ, 70 tuổi, nông dân).
Kết quả nghiên cứu cho thấy, có sự khác biệt về mức độ thường xuyên gửi tiền về giữa
nam và nữ; lượng tiền lao động nữ gửi về là nhiều hơn nam giới. Giải thích cho điều này phỏng
vấn sâu một số nam thanh niên đi xuất khẩu lao động cho biết: “…Tôi và một số người bạn là nữ
cùng đi xuất khẩu lao động tại một xí nghiệp may ở Malaysia. Tôi làm tháng 9 triệu còn họ làm
tháng 8 triệu đồng, mặc dù tôi làm lương cao hơn nhưng tính ra lại không bằng, bởi vì cứ đến
cuối tuần lại đi gặp mặt bạn bè, thỉnh thoảng tổ chức ăn uống nên trừ chi tiêu ra tôi chỉ còn
khoảng 5 triệu đồng/tháng gửi về nhà. Những người bạn đó là phụ nữ nên cũng tằn tiện, tiết kiệm
hơn, trừ chi tiêu ra mỗi tháng còn được 6 triệu đồng gửi về”… Hàng tháng họ đều gửi tiền về
cho ông bà ở nhà còn tôi thì trung bình 3 – 4 tháng mới gửi một lần. (Phỏng vấn bảng hỏi kết
hợp phỏng vấn sâu nam đi xuất khẩu lao động đã trở về gia đình).
Ngoài ra, kết quả thảo luận nhóm cho thấy:
Hộp 6: Mức độ đóng góp tùy thuộc vào đặc trưng của cá nhân, gia đình
“…Đóng góp từ việc đi xuất khẩu lao động góp phần tăng thu nhập hộ gia đình ở quê gốc.
Tuy nhiên sự đóng góp này không xảy ra đều ở các cá nhân đi xuất khẩu lao động. Điều đó
còn tùy những đặc trưng, điều kiện khác nhau của từng cá nhân, tác động đến việc họ có đóng
19
19
góp hay không, mức độ thường xuyên đóng góp như thế nào. Phần lớn những người đi xuất

khẩu lao động đã kết hôn có đóng góp cho thu nhập gia đình và đóng góp thường xuyên hơn
so với người đi xuất khẩu lao động chưa lập gia đình. Số thế hệ, số nhân khẩu trong gia đình
và khoảng cách di chuyển cũng là nhưng điều kiện tác động đến việc họ đóng góp hay không
và mức độ đóng góp, gửi tiền về thường xuyên như thế nào…” (tổng hợp ý kiến của người dân
trong thảo luận nhóm thực hiện với những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động).
Trong phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm một số hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
cho thấy các cá nhân đi xuất khẩu lao động có thu nhập bình quân từ 15 – 20 triệu đồng một
tháng. Sau khi trừ chi phí ăn ở, đi lại, thậm chí tích trữ phần nào, những người đi xuất khẩu lao
động vẫn có thể đóng góp vào thu nhập chung cho gia đình. Trung bình hộ gia đình có người đi
xuất khẩu lao động nhận tiền gửi về đóng góp vào thu nhập gia đình khoảng 8 - 9 triệu đồng một
tháng. Dù sao đi chăng nữa so với mức thu nhập bình quân của cá nhân trong thôn (700 – 800
nghìn đồng/người/tháng) (theo số liệu thống kê xã) thì lượng tiền gửi về lớn hơn nhiều lần.
Hơn nữa, đời sống kinh tế của người dân từ trước đến nay trông cậy chủ yếu vào nông nghiệp
(chiếm khoảng 41%) tổng thu nhập gia đình thì mức thu nhập từ việc đi xuất khẩu lao động cũng
chiếm tỷ trọng đáng kể. Theo báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 của
xã Tân Kỳ thì con số này chiếm 38% trên tổng thu nhập của cả hộ gia đình có người đi. Ngoài
thu nhập từ nông nghiệp và phi nông nghiệp, tiền gửi về đã góp phần tích cực vào việc ổn định
thu nhập chung của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động.
Bảng 5. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
Hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
Số lượng Phần trăm
Thu nhập ổn định
Có 13 86.67%
Không 2 13.33%
Tổng 15 100%
Nguồn số liệu điều tra
Kết hợp với quá trình phỏng vấn sâu và số liệu điều tra bảng hỏi cho thấy thu nhập của
những hộ có người đi xuất khẩu lao động thường cao và ổn định hơn. Cụ thể trong thảo luận
nhóm tập trung các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động, một số ý kiến chia sẻ: “…Nhà tôi
có con trai đi xuất khẩu lao động ở Hàn Quốc, cứ hai ba tháng gửi tiền về một lần. Mỗi lần gửi

từ 15 – 20 triệu đổi ra tiền Việt. So với khoản thu từ nông nghiệp thì có ổn định và cao hơn.
Trước đây khi chưa đi xuất khẩu lao động mà chỉ làm ruộng, thỉnh thoảng đi làm thuê thì tháng
nào cao nhất mới được gần 4 triệu, trung bình thì cũng chỉ từ 2 đến 3 triệu …” (Thảo luận nhóm)
Trong thực tế tìm hiểu, những hộ ở nhà chủ yếu là chăn nuôi và trồng trọt nên thu nhập
bấp bênh hơn. Còn những hộ có người đi xuất khẩu lao động, số tiền hằng năm người lao động
gửi về cho gia đình lên đến hàng trăm triệu đồng, góp phần làm tổng thu nhập của gia đình tăng
lên so với thời điểm trước khi đi xuất khẩu lao động. Hơn thế nữa, khi so sánh mức độ ổn định
20
20
của thu nhập giữa hộ gia đình có người đi xuất khẩu và hộ gia đình không có người đi cho kết
quả như sau:
Bảng 6. Đánh giá thu nhập ổn định của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm
Hộ gia đình
Có người XKLĐ Không có người XKLĐ
Số lượng Phần trăm Số lượng Phần trăm
Thu nhập
ổn định
Có 13 43.3% 8 26.7%
Không 2 6.7% 7 23.3%
Nguồn số liệu điều tra
Theo số liệu thống kê từ bảng hỏi (bảng 6): thu nhập của những hộ gia đình có người đi
xuất khẩu lao động ổn định hơn (43.3%) so với hộ gia đình không có người đi (26.7%); bên cạnh
đó, 6.7% hộ gia đình có người đi và 23.3% hộ gia đình không có người đi cho rằng thu nhập
không ổn định.
Hình 3. Đánh giá thu nhập của các hộ gia đình thôn Ngọc Lâm
Nhóm đã tiến hành điều tra 15 hộ có người đi xuất khẩu lao động. Nhiều gia đình có từ 1
đến 2 người đang đi xuất khẩu lao động hoặc đã về nhà, như gia đình bà Phạm Thị Định có con
trai và con dâu đang làm tại nước Nga, hoặc gia đình bà Phạm Thị Tuyến có đến hai cô con gái
đang đi xuất khẩu tại Đài Loan. Như vậy, so với thời điểm trước đây khi chưa đi xuất khẩu lao
động thì nhìn chung mức thu nhập của các hộ gia đình được phỏng vấn đều có xu hướng tăng lên,

đặc biệt là những hộ có người đi xuất khẩu lao động. Chỉ có 13% số hộ có người đi xuất khẩu lao
động cho rằng mức thu nhập của gia đình vẫn không có gì thay đổi và 6% cho rằng thu nhập gia
đình giảm đi. Tuy nhiên, bảng số liệu cũng cho thấy sự chênh lệch rất lớn về mức độ đánh giá thu
nhập giữa những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động và những hộ không có người đi xuất
khẩu lao động. Có tới 36% hộ gia đình không có người đi xuất khẩu lao động cho biết thu nhập
không có gì thay đổi, con số này cao hơn gấp 3 lần so với những hộ có người đi xuất khẩu lao
động. Đồng thời, đánh giá thu nhập tăng lên của những hộ gia đình không có người đi xuất khẩu
lao động chỉ bằng 2/3 so với những hộ có người đi xuất khẩu lao động (50% so với 81%). Sự
khác biệt trong thu nhập giữa các hộ gia đình có nhiều nguyên nhân nhưng tiêu biểu nhất vẫn là
tác động của lượng tiền gửi đối với hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động. Hay nói cách
khác nó tác động trực tiếp tới nguồn thu nhập của hộ gia đình và tạo ra sự chênh lệch về mức
sống giữa các hộ gia đình tại thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, Tứ Kỳ, Hải Dương. Điều này chứng tỏ
tiền gửi về ổn định và thường xuyên có đóng góp tích cực tới thu nhập của các hộ gia đình.
21
21
3.3. Những biến đổi về mức sống của các hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động
Tác động tới quá trình sản xuất của các hộ gia đình:
Phần nhiều người đi xuất khẩu lao động gửi tiền về cho gia đình xây dựng nhà cửa, hay
đầu tư vào tái sản xuất hộ gia đình. Vì thế ngoài lý do đi để cải thiện kinh tế, đời sống gia đình,
tìm kiếm một việc làm ổn định họ còn mong muốn tích lũy kinh nghiệm làm việc, phát triển tay
nghề để nâng cao hơn nữa thu nhập. Một số trường hợp gia đình không phải khó khăn nhưng vẫn
muốn cho người nhà đi xuất khẩu lao động để cho biết đây biết đó và về làm tái sản xuất cho gia
đình. Qua khảo sát tại địa bàn thôn Ngọc Lâm, xã Tân Kỳ, huyện Tứ kỳ, Hải Dương nhận thấy
địa bàn thôn đất nông nghiệp là chiếm đa phần (ít các khu công nghiệp), bên cạnh việc trồng lúa,
hoa màu thì bà con còn chăn nuôi để tăng thêm thu nhập.
22
22
Bảng 7. Nghề nghiệp của những hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động.
Hộ gia đình có người XKLĐ
Số lượng Phần trăm

Nghề nghiệp
Nông nghiệp 12 75.0%
HS/SV 0 .0%
Về hưu 0 .0%
Công nhân 0 .0%
Công chức 0 .0%
Buôn bán 3 18.8%
Làm thuê 0 .0%
Khác 1 6.3%
Nguồn số liệu điều tra:
Đối với hộ có người đi xuất khẩu lao động thì nghề nghiệp chủ yếu của cả gia đình vẫn là
nông nghiệp (trồng lúa và chăn nuôi) chiếm tới 75%, ngoài ra còn có các nghề phụ như: xay sát,
cho thuê máy móc nông nghiệp, buôn bán (18.8%)… Hoạt động ngoài nông nghiệp chiếm không
đáng kể (6,3%). Nhiều hộ gia đình có con hoặc chồng đi xuất khẩu lao động, hàng tháng vẫn có
khoản tiền gửi về nhưng với đức tính cần cù, muốn kiếm tạo thêm thu nhập nên họ chăn nuôi
thêm lợn, gà; trồng hoa màu; làm một số nghề phụ (mộc, nề, thêu ren)… Một nông dân chia sẻ:
“Dù cậu con trai đi làm ở Hàn Quốc, mỗi tháng được 20 triệu đồng, nhưng hai bác ở nhà vẫn
nuôi lợn và nuôi cá để kiếm tiền tiêu vặt trong gia đình, còn tiền con trai gửi về thì góp dùng vào
việc lớn như xây dựng nhà cửa hoặc mua sắm tiện nghi lâu bền trong nhà, mỗi năm trừ chi phí
gia đình bác cũng thu được khoảng 20 triệu đồng từ chăn nuôi” (thảo luận nhóm, nữ, 45 tuổi).
Hơn nữa, có một điều dễ nhận thấy ở đây đó là tiền gửi về góp phần không nhỏ vào việc
đầu tư tái sản xuất, nó bao gồm cả lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và phi nông nghiệp. Trước đây,
khi việc đi xuất khẩu lao động chưa diễn ra mạnh mẽ thì nguồn thu từ lĩnh vực phi nông nghiệp
như kinh doanh buôn bán hoặc sản xuất nhỏ của các hộ là không nhiều, chỉ có một vài hộ mở cửa
hàng nhỏ (quán) để buôn bán tạp hóa, chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân xung
quanh thôn, xóm. Nhưng sau khi có khoản tiền gửi về của người lao động thì việc đầu tư tái sản
xuất của hộ gia đình đã có sự thay đổi.
23
23
Bảng 8. Đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình thôn Ngọc Lâm

Nguồn số liệu điều tra:
Số liệu trên cho thấy việc đầu tư tái sản xuất của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao
động trước và sau khi đi có sự thay đổi lớn. Hộ gia đình sau khi có người đi xuất khẩu lao động
thì có điều kiện hơn nên đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị, thuê đất nhiều hơn, nhiều
hộ còn gửi tiết kiệm, cho vay lãi… Cụ thể như trong việc xây dựng: nhà máy, công xưởng, cửa
hàng đối với các hộ trước khi đi xuất khẩu lao động chỉ chiếm 16.7% nhưng sau khi đi có tiền
nhiều hơn nên xây dựng nhà cửa tăng lên đến 36.7% (chênh lệch so với trước khi đi là 20%).
Mua máy móc, thiết bị trước khi đi xuất khẩu lao động chỉ chiếm 20% nhưng sau khi đi xuất
khẩu lao động về tăng lên là 23.3%; thuê đất để mở rộng sản xuất cũng vậy, ban đầu chiếm 3.3%
nhưng sau khi đi tăng hơn lên 13.3%. Một điều dễ nhận thấy là tiền gửi về của hộ gia đình được
gửi tiết kiệm tương đối nhiều nhiều (30%), cho vay lãi chỉ chiếm 10%. Như vậy, tiền gửi về góp
phần gia tăng cho đầu tư tái sản xuất của các hộ gia đình, thể hiện rõ ở tỷ lệ phần trăm các mục
đều có xu hướng cao hơn so với thời điểm trước đi xuất khẩu lao động. Các hộ gia đình không
còn lệ thuộc quá nhiều vào tiền gửi về mà tìm cách mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, buôn
bán nhằm cải thiện nguồn thu nhập gia đình, từ đó thay đổi mức sống nói chung. Thế nhưng, đối
với những hộ không có người đi xuất khẩu lao động thì ít có cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất
hơn. Một người dân chia sẻ: “…gia đình không có người đi xuất khẩu lao động nên ngề nghiệp
24
24
Hộ gia đình có người đi XKLĐ
Hộ gia đình không có
người XKLĐ
Trước đây Hiện tại Hiện tại
Số
lượng
Phần trăm
(%)
Số
lượng
Phần trăm

(%)
Số lượng Phần trăm
(%)
Xây
dựng
Có 5 16.7% 11 36.7% 2 6.7%
Không 11 36.7% 5 16.7% 12 40.0%
Mua
thiết bị
Có 6 20.0% 7 23.3% 2 6.7%
Không 10 33.3% 9 30.0% 12 40.0%
Thuê
đất
Có 1 3.3% 4 13.3% 0 .0%
Không 15 50.0% 12 40.0% 14 46.7%
Gửi
tiết
kiệm
Có 0 .0% 9 30.0% 0 .0%
Không 16 53.3% 7 23.3% 14 46.7%
Cho
vay lãi
Có 0 .0% 3 10.0% 0 .0%
Không 16 53.3% 13 43.3% 14 46.7%
chính của gia đình là làm ruộng, nhà làm 8 sào ruộng, một sào thu được 2 tạ thóc, tổng thu của
mỗi vụ được 13 triệu, trừ chi phí là 4 triệu, tính ra là thu được 9 triệu/vụ. Gia đình có chăn nuôi
thêm lợn, gà nhưng không đáng kể, cả năm mới được vài triệu đồng…cũng chưa từng có ý định
mở rộng sản xuất, thuê đất làm trang trại hay đầu tư mua máy móc nông nghiệp vì vốn không có,
làm thì không thu được bao nhiêu mà vay lãi ngân hàng thì không trả nổi…” (nam – 55 tuổi).
Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng tạo ra sự khác biệt trong đầu tư sản xuất giữa hộ

gia đình có người đi xuất khẩu lao động và hộ gia đình không có người. Điều này thể hiện ở số
liệu bảng 8 cho thấy sự khác biệt lớn trong việc đầu tư cho xây dựng giữa các hộ có người đi xuất
khẩu lao động và hộ không có người đi. Căn cứ vào nguồn số liệu điều tra đã chỉ ra đầu tư sản
xuất của hộ gia đình có người đi xuất khẩu lao động nhiều hơn hộ gia đình không có người đi
xuất khẩu lao động. Những hộ có người đi xuất khẩu lao động về thu nhập của họ thường khá
hơn nên họ thường đầu tư tiền của vào lĩnh vực xây dựng (36.7%) còn hộ không có người đi xuất
khẩu lao động thì ít hơn (6,7%). Hay như việc mua thiết bị, hộ có người đi xuất khẩu mua thiết bị
nhiều hơn chiếm (23.3%) so với hộ không có người đi xuất khẩu lao động chỉ (6,7%) tương tự
như đối với việc thuê đất, gửi tiết kiệm hộ có người đi xuất khẩu lao động chiếm (30%) trong khi
đó gửi tiết kiệm hộ không có người đi xuất khẩu lao động được hỏi thì không có khoản này
Như vậy tiền gửi về giúp cho các hộ gia đình có nguồn vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất, mua
sắm trang thiết bị, gửi tiết kiệm, cho vay lãi nhiều hơn so với hộ không có người đi xuất khẩu.
Từ quá trình điều tra bảng hỏi, kết hợp với phỏng vấn sâu nhóm nghiên cứu nhận thấy
những gia đình có người đi xuất khẩu lao động thì thu nhập cao hơn những gia đình không có
người đi xuất khẩu lao động. Vì vậy họ có tiền đầu tư trang thiết bị, giống, phân bón, thuốc bảo
vệ thực vật, máy móc nông nghiệp… nhiều hơn những gia đình không có người đi xuất khẩu lao
động. Tuy nhiên, việc đi xuất khẩu lao động cũng gây ra một số khó khăn nhất định với gia đình
và địa phương. Xuất hiện tình trạng thiếu hụt nguồn lao động trong sản xuất và công việc của các
hộ gia đình. Chẳng hạn như khi cần có người đàn ông trong các công việc nặng nhọc của gia
đình: sửa chữa thiết bị, nhà cửa hoặc giải quyết các vấn đề của họ tộc: hiếu, hỷ, xây nhà thờ họ…
thì đa phần lại đi vắng. Người phụ nữ, người vợ có chồng đi xuất khẩu lao động thì một mình
phải gánh vác rất nhiều việc từ đồng áng, nuôi dạy con cái, công việc nhà, cho đến công việc
chung của thôn xóm: dọn nhà văn hóa, vệ sinh đường làng… Một người dân chia sẻ: “….Chồng
tôi đi Đài Loan được 3 năm, tôi ở nhà tự lo liệu các công việc từ chăm sóc, giáo dục con cái cho
đến công việc cày cấy, gặt hái…tuy là khó khăn vất vả nhưng vẫn phải cố vì không nhờ ai khác
được, chồng đi xa phải tự mình quán xuyến hết…Ông bà thì ở xa nên cũng không giúp được, việc
nào không kham hết thì cũng phải nhờ đến bà con hàng xóm sang hộ…” (phỏng vấn sâu nữ, 39
tuổi)
Bên cạnh đó xuất khẩu lao động cũng ảnh hưởng tới nguồn lao động, công việc chung của
địa phương. Kết quả từ phỏng vấn sâu lãnh đạo thôn cho biết:

25
25

×