Tải bản đầy đủ (.doc) (133 trang)

“Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế và xã hội của hộ gia đình tại Xã Vũ Hội - Huyện Vũ Thư - Ttỉnh Thái Bình”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.87 KB, 133 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học hàm, học vị nào.
Tôi cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã
được cảm ơn và các thơng tin trích dẫn trong khóa luận đều được ghi rõ nguồn
gốc. Đồng thời tôi xin cam đoan rằng trong quá trình thực hiện đề tài này tại địa
phương tôi luôn chấp hành đúng mọi quy định của địa phương nơi thực hiện để tài.
Hà nội, ngày 25 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Trần Thị Ninh


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành tốt khố luận tốt nghiệp ngồi sự nỗ lực của bản thân, tơi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của các tập thể, cá nhân trong và
ngoài trường Đại Học Nơng Nghiệp Hà Nội, vì thế:
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn chân thành đến các Thầy cô giáo trong khoa Kinh
tế và Phát triển nông thôn, trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội; đặc biệt là các
Thầy cô trong bộ mơn Kinh tế nơng nghiệp và Chính sách, những người đã hết lịng
giúp đỡ và truyền đạt cho tơi những kiến thức quý báu trong quá trình học tập tại
trường.
Đặc biệt tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo TS.Nguyễn
Phượng Lê, người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết và tận tình hướng dẫn chỉ bảo
tơi trong suốt q trình thực hiện đề tài.
Tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể ban lãnh đạo xã Vũ Hội,
cùng các hộ gia đình, người dân Vũ Hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi trong
suốt q trình thực tập và hồnh thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã động
viên, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn!


Hà nội, ngày 25 tháng 05 năm 2010
Sinh viên

Trần Thị Ninh


TĨM TẮT KHỐ LUẬN
Trước sức ép về gia tăng dân số, lao động và việc làm, Đảng và Nhà nước có
chủ trương đẩy mạnh XKLĐ, coi đây là một chiến lược quan trọng phát triển kinh tế
đất nước. Từ khi mở cửa hội nhập, XKLĐ thu hút một lực lượng lao động lớn ở nông
thôn đi làm việc ở nước ngồi. XKLĐ góp phần xố đói giảm nghèo, cải thiện đời
sống kinh tế - xã hội khu vực nông thôn. Đảng và Nhà nước có những chính sách đẩy
mạnh XKLĐ ở những vùng nông thôn nghèo. Mới đây nhất là Đề án 71- Đề án hỗ trợ
các huyện nghèo đẩy mạnh XKLĐ, đây là chính sách lớn của Nhà nước, có ý nghĩa
to lớn trong việc giảm nghèo bằng con đường XKLĐ. Để hiểu rõ hơn về vai trò cũng
như ảnh hưởng của XKLĐ tới đời sống kinh tế - xã hội khu vực nông thôn. Chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu lao
động đến đời sống kinh tế và xã hội của hộ gia đình tại Xã Vũ Hội - Huyện Vũ
Thư - Tỉnh Thái Bình”. Thái Bình là một trong những tỉnh đầu tiên mở ra hoạt động
XKLĐ và hiện là tỉnh có số lượng lao động xuất khẩu lớn nhất cả nước. Với nguồn
lao động khá dồi dào, lực lượng lao động trẻ, Thái Bình là một trong những tỉnh có
nguồn cung ứng lao động đi xuất khẩu tiềm năng. Xã Vũ Hội là địa điểm thích hợp
để thực hiện nghiên cứu vì Vũ Hội là một trong những vùng có phong trào đi XKLĐ
của người dân sơi động nhất và có số lượng lao động đi XK cao nhất trong tỉnh Thái
Bình, hiện tại xã có trên 900 lao động tham gia XKLĐ. Thị trường lao động Vũ Hội
đi nhiều là: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, và một số nước ở Trung
Đông. Ảnh hưởng của XKLĐ đến đời sống kinh tế - xã hội xã Vũ Hội nói riêng và
tỉnh Thái Bình nói chung là rõ nét. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu ảnh
hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội của các hộ gia đình trên
địa bàn Xã Vũ Hội - Huyện Vũ Thư - Tỉnh Thái Bình trên cơ sở đó đề xuất các giải

pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục những ảnh hưởng tiêu
cực của xuất khẩu lao động.
Để thực hiện nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp phân tích so sánh,
thực hiện phân tổ thống kê khi nghiên cứu mối liên hệ và ảnh hưởng lẫn nhau giữa
các hiện tượng. Xác định các chỉ tiêu giải thích, sử dụng phương pháp phân tích và


cân đối để phát triển vấn đề mà đề tài quan tâm. Đối tượng nghiên cứu của đề tài là
những ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội của các hộ gia
đình có lao động đang tham gia XKLĐ và các hộ gia đình đã có lao động đi XKLĐ
về. Đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp từ hoạt động XKLĐ. Nghiên
cứu ảnh hưởng của XKLĐ tới các nhóm hộ dựa trên các mốc thời gian khác nhau từ
khi hộ gia đình chưa có lao động xuất khẩu đến khi có lao động xuất khẩu và sau khi
lao động xuất khẩu về nước để so sánh mức độ ảnh hưởng của XKLĐ tới từng nhóm
hộ. Những ảnh hưởng này sẽ được xem xét trên hai khía cạnh ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực.
Trong những năm qua, Vũ Hội đã đạt được những kết quả đáng kể trong công
tác xuất khẩu lao động, góp phần tích cực vào việc thực hiện chương trình xóa đói
giảm nghèo, tạo việc làm cho lao động nơng thơn, động viên, khuyến khích nhân dân
đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao đời sống cho nhân dân. Hiện tại cả xã có 1278
nhà xây kiên cố 2 – 3 tầng thì 80% là do người đi nước ngoài gửi tiền về xây dựng , tỷ
lệ hộ nghèo giảm xuống còn 7,8%. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề theo xu hướng
giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng dần tỷ trọng ngành sản xuất công
nghiệp – xây dựng và thương mại – dịch vụ thể hiện rõ nét. Bộ mặt nơng thơn Vũ Hội
nhờ đó mà khởi sắc. Chính vì vậy, XKLĐ được coi là thế mạnh phát triển kinh tế của
xã Vũ Hội. Xã có nhiều chủ trương đẩy mạnh XKLĐ như: Thành lập bộ phận quản
lý, tư vấn XKLĐ; có chính sách hỗ trợ lao động đi làm việc ở nước ngồi thơng qua
dạy nghề, định hướng nghề nghiệp; cải cách thủ tục cho vay vốn tại ngân hàng.v.v…
Tuy vậy chất lượng lao động Vũ Hội còn thấp. Trong tổng số lao động xuất khẩu chỉ
một nửa được đào tạo nghề nhưng thường là ngắn hạn và có 90% được đào tạo định

hướng. Số lao động nữ tham gia XKLĐ chiếm tỷ lệ cao trên 80%, đây là đặc thù của
Vũ Hội nói riêng và tỉnh Thái Bình nói chung. Lý do người lao động Vũ Hội tham gia
XKLĐ chủ yếu là do thiếu việc làm, thu nhập thấp, họ mong muốn được đi XKLĐ để
có mức thu nhập cao, cải thiện cuộc sống gia đình, có thêm nguồn vốn để đầu tư sản
xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm cho lao động gia đình và địa phương. Điểm mạnh
của XKLĐ là ở chỗ đây là một biện pháp xố đói giảm nghèo có hiệu quả, đồng thời
tạo ra việc làm và vốn lớn cho người lao động. Đầu tư cho XKLĐ không lớn mà


người lao động lại nhanh chóng có được việc làm với thu nhập cao. Người đi XKLĐ
vừa có điều kiện giúp gia đình họ thốt nghèo, lại vừa có vốn và tay nghề để tạo việc
làm sau khi về nước. Lực lượng lao động tại địa phương đã chuyển dần từ lao động
nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ khá rõ nét theo cả con đường chủ động và
bị động. Họ chủ động chuyển dịch sau khi có vốn tích luỹ từ XKLĐ với mong muốn
thốt ly ngành nơng nghiệp và mong muốn thu nhập cao hơn cải thiện cuộc sống. Có
được sự chuyển dịch theo chiều hướng tích cực này ngồi sự tác động của chính
quyền địa phương tới các doanh nghiệp trong quá trình tuyển dụng lao động và một
số ưu đãi của nhà nước về chính sách chuyển đổi nghề nghiệp tại địa phương thì phần
quan trọng nhất vẫn là ý thức tự xoay sở, tự thích nghi và tìm kiếm việc làm của chính
người lao động và gia đình họ. Nhờ có số tiền lao động xuất khẩu gửi về, thu nhập
của hộ gia đình tăng lên nhanh theo đó đời sống hộ gia đình được cải thiện, chất
lượng cuộc sống cao hơn trước. Sau khi có lao động đi XK cơ cấu thu nhập theo
ngành nghề của hộ cũng có sự dịch chuyển, thu nhập từ các ngành nghề khác ngồi
nơng nghiệp có xu hướng tăng. Cùng với thu nhập tăng lên chi tiêu của hộ gia đình
sau khi có lao động đi xuất khẩu cũng có sự cải thiện rõ nét. Tài sản sở hữu của
các hộ đều tăng lên so với thời điểm trước khi có lao động xuất khẩu. Đặc biệt là ở
một số tài sản thiết yếu phục vụ cho đời sống hằng ngày của các hộ như ti vi, xe máy,
tủ lạnh. Chủ yếu các tài sản này được mua bằng tiền lao động xuất khẩu gửi về. Đây
là một tín hiệu tích cực về sự thay đồi trong đời sống của hộ, các hộ được tiếp cận, sử
dụng các phương tiện thông tin mới, các phương tiện hiện đại qua đó nâng cao đời

sống về cả vật chất và tinh thần đáp ứng nhu cầu cuộc sống và nâng cao dân trí. Số tài
sản phục vụ sản xuất, kinh doanh bn, bán của các hộ gia đình cũng tăng lên thể hiện
các hộ gia đình với nguồn vốn tích luỹ được từ XKLĐ đầu tư mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, tạo thêm thu nhập, tạo thêm việc làm. Nhờ đó, hộ gia đình có thêm
nguồn thu nhập để cải thiện cuộc sống. Cũng góp phần giảm tỷ lệ tái thất nghiệp sau
XKLĐ. Sự tăng lên về thu nhập, tài sản phục vụ sản xuất, đời sống kéo theo sự thay
đổi về chi tiêu cho sinh hoạt của hộ. XKLĐ góp phần xố đói, giảm nghèo, nâng cao
mức sống của các hộ trong xã gấp 3 lần mức sống của các hộ trong huyện. Đời sống
kinh tế khá hơn, mối quan hệ gia đình cũng thay đổi theo. Qua điều tra đối với nhóm


hộ có lao động đang tham gia XKLĐ, phần lớn gia đình có mối quan hệ tốt lên
73,33% và 20,00% hộ gia đình vẫn giữ được mối quan hệ như trước mặc dù có sự xa
cách về thời gian và không gian. Họ thường xuyên liên lạc trao đổi thông tin giữa các
thành viên gia đình với nhau chủ yếu qua điện thoại và internet, vợ chồng chung thuỷ,
con cái được chăm sóc, giáo dục cẩn thận. Tuy nhiên, cũng có một tỷ lệ khơng nhỏ
6,67% các gia đình có mối quan hệ kém đi, có sự bất hồ giữa các thành viên trong
gia đình nguyên nhân do trong khi nhiều người vợ đi XKLĐ, phải đổ mồ hôi công sức
để kiếm tiền cho gia đình thì nhiều người chồng ở nhà bỏ bê nhà cửa, con cái, dùng
tiền vợ gửi về tiêu vào những việc khơng chính đáng, chơi bời trai gái, rượu chè, cờ
bạc. Số tiền người vợ gửi về chủ yếu để trả nợ cho chồng. Đối với nhóm hộ có lao
động tham gia vào XKLĐ đã về nước, qua điều tra cho thấy tình trạng hơn nhân có
nhiều thay đổi so với trước khi đi XKLĐ. Qua điều tra có tới 16,67% gia đình có
người đi XKLĐ sống bất hồ và ly hơn. Ngun nhân thì nhiều, có khi do người chồng
thiếu trách nhiệm, sống bng thả, bê tha, hoặc có khi do sự thay đổi lối sống, quan
điểm sống của người vợ sau khi đi XKLĐ về. Đa số các ơng chồng có vợ đi XKLĐ đều
có quan hệ hơn nhân do bị bạn bè lơi kéo, cơ đơn, thiếu tình cảm và để giải quyết nhu
cầu sinh lý. Ở những gia đình có người đi XKLĐ chưa trở về, không chỉ quy mô sản
xuất bị thu hẹp mà còn chịu ảnh hưởng nhiều về mặt tâm lý, tình cảm; thách thức lớn
nhất là thiếu thốn tình cảm, dẫn đến những biến đổi về nhận thức, hành vi ứng xử

trong quan hệ vợ chồng, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý và việc học tập của trẻ, tác
động đến sự bền vững của gia đình, rạn nứt trong hơn nhân. Các gia đình có người đi
XKLĐ gặp khó khăn trong việc chăm sóc và tái tạo sức lao động.
Rõ ràng, XKLĐ đã mang lại nguồn thu nhập không nhỏ, điều kiện quan trọng
để cải thiện cuộc sống, cho bản thân người lao động và hộ gia đình, góp phần thay đổi
bộ mặt nơng thơn. Tuy nhiên, làm thế nào để tránh được những câu chuyện hậu
XKLĐ ngậm ngùi kể trên xảy ra đang là thách thức không nhỏ. Để XKLĐ thực sự là
thế mạnh, chiến lược phát triển kinh tế và mang lại hiệu quả cao, đề tài đưa ra những
định hướng và giải pháp cho hoạt động XKLĐ ở Vũ Hội nhằm phát huy những ảnh
hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tích cực của XKLĐ.

MỤC LỤC



DANH MỤC BẢNG
Bảng:

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Tình hình phân bố và sử dụng đất đai của xã Vũ Hội qua 3 năm (2007 - 2009)....1
Bảng 3.2: Tình hình dân số và lao động của xã Vũ Hội qua 3 năm 2007 - 2009.....................1
Bảng 3.3: Kết quả sản xuất kinh doanh của xã Vũ Hội qua 3 năm 2007 - 2009......................1
Bảng 3.4: Tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật của xã...................................................................1
Bảng 3.5: Số lượng mẫu điều tra hộ gia đình............................................................................4
Bảng 4.1: Tốc độ phát triển XKLĐ ở xã Vũ Hội giai đoạn 2001 – 2009..............................2
Bảng 4.2: Tình hình chung của các nhóm hộ điều tra năm 2010.............................................1
Bảng 4.3: Tình hình sử dụng lao động của các nhóm hộ điều tra năm 2010

.....................................................................................................................................................1
Bảng 4.4: Phân loại lao động xuất khẩu
.......................2
Bảng 4.5: Thị trường đến của lao động xuất khẩu
.....................................................................................................................................................1
Bảng 4.6: Nguồn thông tin trước khi đi XKLĐ.........................................................................1
Bảng 4.7: Hình thức tham gia XKLĐ ở các hộ điều tra............................................................1
Bảng 4.8: Chi phí cho lao động tham gia XKLĐ ở các hộ điều tra .........................................2
Bảng 4.9: Lý do tham gia XKLĐ...............................................................................................5
Bảng 4.10: Điểm đánh giá và xếp hạng cho các lý do tham gia XKLĐ..................................6
Bảng 4.11: Thời gian đi xuất khẩu lao động..............................................................................6
Bảng 4.12: Sự thay đổi về lao động và việc làm của các hộ gia đình trước và sau khi có lao
động XK......................................................................................................................................2
Bảng 4.13: Mức tiền gửi về nhà của lao động xuất khẩu bình quân
trong 1 năm.................................................................................................................................4
Bảng 4.14: Thu nhập của các hộ gia đình trước và sau khi lao động đi xuất khẩu trong một
năm..............................................................................................................................................1
Bảng 4.15: Thu nhập bình quân của các hộ gia đình trước và sau khi lao động đi xuất khẩu..1
Bảng 4.16: Đánh giá ảnh hưởng của XKLĐ đến thu nhập hộ gia đình....................................2
Bảng 4.17: Mục đích sử dụng tiền gửi về của lao động xuất khẩu...........................................4
Bảng 4.18: Tài sản phục vụ sản xuất - đời sống của hộ trước và sau khi có lao động xuất
khẩu.............................................................................................................................................4
Bảng 4.19 : Chi tiêu cho sinh hoạt của hộ trước và sau khi có lao động xuất khẩu..................1
Bảng 4.20: Tình trạng hơn nhân và gia đình trước khi lao động đi
xuất khẩu
....................................................................2
Bảng 4.21: Mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình....................................................3
Bảng 4.22: Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến phân cơng lao động trong gia đình.........4



DANH MỤC HỘP SỐ
Hộp:

Tên hộp

Trang

Hộp 4.1: Phòng trào đi XKLĐ, hết hạn lần 1 về lại đi tiếp.......................................................3
Hộp 4.2: Công tác tuyên truyền, ưu tiên tối đa về mặt thủ tục, giấy tờ…................................3
Hộp 4.3: Nhờ có Đảng và Nhà nước..........................................................................................4
Hộp 4.4: Lý do tham gia XKLĐ.................................................................................................4
Hộp 4.5: Mong muốn thoát ly nông nghiệp, đơn giản nhất là xin đi XKLĐ tiếp.....................1
Hộp 4.6: Hậu XKLĐ, tiếp tục mưu sinh bền vững....................................................................1
Hộp 4.7: Đi XKLĐ về, trả nợ cho chồng...................................................................................3
Hộp 4.8: Hậu XKLĐ, hạnh phúc gia đình mong manh.............................................................3
Hộp 4.9: Đi XKLĐ - người ở nhà thêm việc.............................................................................5
Hộp 4.10: Đi XKLĐ, trẻ em thiếu sự chăm sóc của người mẹ.................................................2
Hộp 4.11: Chồng đi XKLĐ đời sống gia đình ít bị xáo trộn.....................................................3
Hộp 4.12: Vắng bóng mẹ, học lực của trẻ em giảm sút vì mải chơi.........................................4
Hộp 4.13: Hậu XKLĐ, số vụ ly hôn tăng lên, tệ nạn xã hội trở nên phức tạp..........................5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
BQ
CC
CN

Ý nghĩa
: Bình quân
: Cơ cấu

: Công nghiệp


CNVC
CNH - HĐH
CSXH
ĐVT
KT - XH
LĐTBXH

Ng.đ
NN
SL
SX
STT
TBXH
TTCN
TTCN - CN
Tr.đ
UBND
VNĐ
XK
XKLĐ
XHCN

: Công nhân viên chức
: Cơng nghiệp hố - Hiện đại hố
: Chính sách xã hội
: Đơn vị tính
: Kinh tế - xã hội

: Lao động thương binh xã hội
: Lao động
: Nghìn đồng
: Nông nghiệp
: Số lượng
: Sản xuất
: Số thứ tự
: Thương binh xã hội
: Tiểu thủ công nghiệp
: Tiểu thủ công nghiệp – công nghiệp
: Triệu đồng
: Uỷ ban nhân dân
: Việt nam đồng
: Xuất khẩu
: Xuất khẩu lao động
: Xã hội chủ nghĩa

PHẦN I: MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là nước đang phát triển, có dân số hơn 86 triệu người, đứng thứ 13
trên thế giới và thứ 7 tại Châu Á. Hàng năm với mức tăng dân số khoảng 1 triệu
người, Việt Nam được xem là một trong những nước có nhiều lợi thế về lao động.
Sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa hội nhập và phát triển kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh
vực. Tuy nhiên, do tình trạng gia tăng nhanh về dân số và lao động dẫn đến nhu cầu
việc làm luôn là vấn đề gay gắt, bức xúc với Đảng, Nhà nước và tồn xã hội. Chương
trình giải quyết việc làm quốc gia hàng năm vẫn không đáp ứng được hết nhu cầu
việc làm của người lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng
tồn cầu hóa, Việt Nam đang có nhiều cơ hội phát huy lợi thế về nguồn nhân lực,



trao đổi hàng hóa “sức lao động”. Mặt khác, trong điều kiện đất nước ta hiện nay, gần
75% lao sống ở nơng thơn, trình độ chun mơn tay nghề thấp, tiền công sức lao
động rẻ, sức ép việc làm lớn, mỗi năm có gần 1,7 triệu người cần việc làm mới [6].
Chính vì vậy, XKLĐ là một chiến lược quan trọng lâu dài góp phần giải quyết việc
làm, phát triển nguồn nhân lực, tăng thu nhập cho người lao động, tăng trưởng kinh
tế, tăng cường quan hệ kinh tế đối ngoại, thực hiện tăng trưởng và phát triển bền
vững gắn liền với cơng bằng xã hội.
Thái Bình là một trong những tỉnh đầu tiên của Việt Nam mở ra hoạt động
XKLĐ và hiện là tỉnh có số lượng lao động xuất khẩu lớn nhất cả nước. Với nguồn
lao động khá dồi dào, lực lượng lao động trẻ, Thái Bình là một trong những tỉnh có
nguồn cung ứng lao động đi xuất khẩu tiềm năng. Theo số liệu của Sở Lao động
Thương binh Xã hội, tính từ năm 2002 đến nay, Thái Bình mỗi năm đưa được gần 3
nghìn người đi XKLĐ, tổng số tiền mỗi năm lao động ở nước ngoài gửi về tỉnh từ
230 đến 240 tỷ đồng. Từ nhiều năm qua, Tỉnh ủy, UBND tỉnh đã tăng cường lãnh
đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác XKLĐ, coi đây là một trong những hướng quan
trọng để giải quyết áp lực về vấn đề lao động, việc làm, đẩy nhanh tiến trình xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn tỉnh.
Xã Vũ Hội huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình là một làng nơng nghiệp truyền
thống, sau một khoảng thời gian tìm đường sinh sống bằng nghề làm bún bánh, nghề
làm miến, gò đúc nhôm đồng, làm dép, làm đậu phụ….đến nay những nghề này
khơng cịn mang lại hiệu quả kinh tế thậm chí đang dần bị mai một, nghề chính là
nghề nơng cũng luôn trong cảnh “giật gấu vá vai”. Bởi vậy, nhiều năm nay, XKLĐ
được coi là con đường “đổi đời” đối với nhiều gia đình ở Vũ Hội. Từ năm 2000 đến
nay xã đã có trên 900 người đi lao động ở trên 10 nước bao gồm các nước Đài Loan,
Malaysia, Hàn Quốc, Nhật Bản, Macau, Libia, Đubai… và khoản tiền gửi về mỗi
năm trên 40 tỷ đồng [18]. Xã Vũ Hội trở thành vùng có số người làm việc ở nước
ngồi cao nhất trong tỉnh Thái Bình. Xuất khẩu lao động được coi là một trong những
giải pháp giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo cho người lao động ở Vũ Hội.
Nguồn lợi về kinh tế của công tác XKLĐ đã được khẳng định, tạo ra bước chuyển

biến cơ bản làm thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống của nhiều gia đình.


Tuy nhiên, bên cạnh tác động tích cực, XKLĐ cũng bộc lộ những mặt tiêu cực đối
với người lao động, gia đình và cộng đồng, như: chức năng gia đình biến đổi, vai trò
giới truyền thống bị xáo trộn, mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo đã dẫn đến nhiều
vấn đề xã hội như: tha hoá về đạo đức, lối sống; mắc các tệ nạn xã hội; quan hệ tình
dục ngồi hơn nhân; gia đình lục đục, tan vỡ; thiếu quản lý, giáo dục con cái; nợ
nần.v.v…Xuất phát từ thực tế trên tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu ảnh
hưởng của hoạt động xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế và xã hội của hộ
gia đình tại Xã Vũ Hội - Huyện Vũ Thư - Ttỉnh Thái Bình”.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội
của các hộ gia đình trên địa bàn xã Vũ Hội - huyện Vũ Thư - tỉnh Thái Bình trên cơ
sở đó đề xuất các giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực của xuất khẩu lao động.

1.2.2 Mục tiêu cụ thể

 Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về xuất khẩu lao động và
ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội của hộ gia
đình nơng thơn.

 Tìm hiểu thực trạng xuất khẩu lao động ở Xã Vũ Hội - Huyện Vũ Thư - Tỉnh
Thái Bình.

 Đánh giá ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội của
các hộ gia đình.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế

những ảnh hưởng tiêu cực của xuất khẩu lao động đến hộ gia đình.
1.3 Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những ảnh hưởng của xuất khẩu lao động
đến đời sống kinh tế - xã hội của các hộ gia đình có lao động đang tham gia XKLĐ
và các hộ gia đình đã có lao động đi XKLĐ về. Những ảnh hưởng này sẽ được xem
xét trên hai khía cạnh ảnh hưởng tích cực và tiêu cực.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu

 Phạm vi về không gian: Nghiên cứu được tiến hành trên phạm vi Xã Vũ Hội Huyện Vũ Thư - Tỉnh Thái Bình.
 Phạm vi về thời gian:
- Đề tài nghiên cứu tình hình thay đổi của các nhóm hộ có lao động đi XKLĐ
trong những năm gần đây cụ thể từ năm 2001 – 2010.
- Đề tài được bắt đầu nghiên cứu từ ngày 8/1 đến 23/5 năm 2010.

 Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến hộ
gia đình và địa phương trên các phương diện kinh tế - xã hội.

PHẦN II: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Đặc điểm của lao động việc làm ở nông thôn
Ở các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng khu vực kinh tế
nơng thơn có đặc điểm là dân số tăng nhanh, cấu trúc dân số trẻ, dẫn đến số lượng lao
động tăng nhanh với tốc độ cao hằng năm, vì vậy khả năng tạo việc làm của nền kinh
tế ln thấp hơn nhu cầu tìm việc làm của lao động nông thôn. Ở Việt Nam số việc
làm trong năm ở nông thôn tăng chỉ đáp ứng được khoảng 65% nhu cầu việc làm
[13].
Sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp là lĩnh vực tạo việc làm truyền thống về thu

hút nhiều lao động của dân cư nông thơn nhưng bị giới hạn do diện tích canh tác vốn


rất hạn hẹp và có xu hướng giảm dần do q trình đơ thị hóa và cơng nghiệp hóa
đang phát triển mạnh. Điều đó đã hạn chế khả năng giải quyết việc làm ở nơng thơn.
Nếu tình trạng dân số cịn gia tăng thì sự khan hiếm đất nơng nghiệp ngày càng trầm
trọng hơn, dẫn tới hậu quả ngày càng thiếu việc làm cho người lao động nông thôn
nếu lực lượng này không được chuyển sang khu vực khác. Lao động nơng thơn có
đặc điểm sau:
 Lao động nơng thơn mang tính thời vụ:
Sản xuất nơng nghiệp ln chịu sự tác động và chi phối mạnh mẽ của các quy
luật sinh học và các điều kiện tự nhiên cụ thể của vùng. Q trình sản xuất mang tính
thời vụ cao có lúc cần ít lao động song cũng có thời kỳ cần nhiều lao động. Do đó
khả năng thu hút lao động trong nông nghiệp nông thôn là không đều, trong từng giai
đoạn sản xuất. Đối với ngành trồng trọt việc làm chỉ tập trung chủ yếu vào thời điểm
gieo trồng và thu hoạch, thời gian còn lại là rất nhàn rỗi. Thời gian này tạo ra một lực
lượng lao động dư thừa. Lực lượng này thường chuyển sang làm các nghề khác hoặc
đi các địa phương khác hành nghề để tăng thu nhập. Tình trạng thời gian nơng nhàn
cùng với thu nhập thấp trong sản xuất nông nghiệp là nguyên nhân gây nên hiện
tượng di chuyển lao động nông thôn từ vùng này sang vùng khác, nhất là từ nơng
thơn lên thành thị.

 Lao động nơng thơn ít chun sâu, trình độ chun mơn kỹ thuật thấp hơn so
với lao động trong cơng nghiệp:
Trong sản xuất có nhiều cơng việc mang tính chất khác nhau, một lao động có
thể làm được nhiều việc khác nhau và cùng một công việc ấy có thể do nhiều lao
động đảm nhiệm. Chính vì vậy mà lao động nơng nghiệp ít chun sâu hơn lao động
cơng nghiệp. Phần lớn lao động mang tính phổ thơng, ít được đào tạo, sản xuất chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm là chính, nguồn lao động có chất xám khơng nhiều và phân
bố khơng đều. Vì vậy mà làm cho hiệu suất lao động thấp, khó khăn trong việc đưa

khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

 Lao động nơng thơn có việc làm khơng ổn định và rất đa dạng:
Hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên phạm vi rộng. Không gian rộng
lớn lại phụ thuộc vào các yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ sản xuất…nên


sản xuất nơng nghiệp mang tính rủi ro cao (do thời tiết, khí hậu, sâu bệnh…) vì vậy
cơng việc của người lao động thường không ổn định và rất bấp bênh, có lúc dư thừa
việc làm (mùa vụ), có lúc lại thiếu việc làm.
2.1.2 Quan điểm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Dân số, lao động, việc làm là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng của sự phát
triển nguồn nhân lực mỗi quốc gia, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt vấn đề dân số, lao
động việc làm vào vị trí hàng đầu trong các chính sách kinh tế - xã hội. Cùng với việc
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế theo đường lối đổi mới của Đảng, con người đã
được đặt đúng vị trí trung tâm của sự phát triển. Mọi chính sách, mọi giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội đều hướng vào mục tiêu phục vụ con người. Từ những định
hướng như vậy, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động đã được
thay đổi cơ bản cả về nhận thức và quá trình thực hiện.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Giải quyết việc làm
là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm
lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân
dân… Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, phải tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế đầu tư phát triển rộng rãi các cơ sở
sản xuất kinh doanh, tạo nhiều việc làm và phát triển thị trường lao động. Thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế”.
Giải quyết việc làm cho người lao động là nhiệm vụ chiến lược lâu dài, vừa
mang tính cấp bách, là trách nhiệm của tồn Đảng, toàn dân, của các cấp, các ngành,
các tổ chức chính trị xã hội và của chính người lao động. Nhà nước các cấp có trách
nhiệm xây dựng chương trình giải quyết việc làm hàng năm với quy hoạch tổng thể

phát triển kinh tế - xã hội, đề ra các chỉ tiêu tạo việc làm và các giải pháp thực hiện.
Đồng thời phải căn cứ vào hai chỉ tiêu chủ yếu đó là hiệu quả kinh tế và chỗ làm việc
mới để thu hút lao động.
Giải quyết việc làm phải trên cơ sở không ngừng nâng cao chất lượng lao
động. Vì vậy phải xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhất là trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn hiện nay [23].


2.1.3 Xuất khẩu lao động và vai trò xuất khẩu lao động đối với giải quyết việc
làm cho lao động nơng thơn
2.1.3.1 Khái niệm về xuất khẩu lao động
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về XKLĐ, dưới đây là một số khái niệm cơ
bản về XKLĐ.
Thứ nhất, phát triển hợp tác quốc tế trong việc tổ chức đưa người lao động và
chuyên gia Việt Nam (trừ những cán bộ, công chức được quy định tại pháp lệnh cán
bộ, công chức đi thực hiện nhiệm vụ, công vụ ở nước ngồi do sự phân cơng của cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền) đi làm việc ở nước ngồi có thời hạn là một hoạt động
KT – XH góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và
nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và
tăng cường hợp tác quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới [1].
Khái niệm thứ hai, XKLĐ là một hình thức đặc thù của xuất khẩu nói chung
và là một bộ phận của kinh tế đối ngoại, hàng hóa đem xuất khẩu là sức lao động của
con người, còn khách mua là chủ thể người nước ngồi. Nói cách khác XKLĐ là một
hoạt động kinh tế dưới dạng dịch vụ cung ứng lao động cho người nước ngoài, mà
đối tượng của nó là con người [1].
Trong chỉ thị số 41 - CT/TW ngày 29/9/1998 của Bộ Chính trị cũng khẳng
định với chúng ta rằng: “XKLĐ và chuyên gia là một hoạt động KT – XH góp phần
phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay
nghề cho người lao động, tăng thu ngoại tệ cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp

tác quốc tế giữa nước ta với các nước”.
Như vậy XKLĐ là một hoạt động xuất khẩu đặc biệt trong đó hàng hóa được
bán là sức lao động của con người, chính vì vậy nhà nước, doanh nghiệp XKLĐ cũng
như chính bản thân người lao động cần phải hết sức chú ý đến hoạt động này, nó
khơng chỉ mang lại thu nhập cao cho người lao động mà cịn đóng một vai trò rất lớn
trong sự phát triển của mỗi quốc gia.
2.1.3.2 Vai trò của xuất khẩu lao động
Đối với Việt Nam việc XKLĐ có vai trị quan trọng cả về kinh tế - xã hội.
Trong khi chúng ta phải đối mặt với tình trạng gia tăng dân số, tăng nguồn lao động


trong khi phát triển việc làm trong nước còn hạn chế thì XKLĐ là hướng quan trọng
trong việc giải quyết việc làm có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.
Tính đến nay đã có khoảng 500.000 lao động Việt Nam làm việc ở 40 quốc
gia và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề. Các hoạt động XKLĐ từng bước
có hiệu quả và đi vào nề nếp, đã tạo cho người lao động xuất khẩu có thu nhập gửi về
gia đình. Tính bình qn mỗi năm, người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về
nước từ 1,6 tỷ USD đến 2 tỷ USD, riêng thị trường Hàn Quốc với gần 50.000 lao
động, mỗi năm gửi về nước trên 700 triệu USD, Nhật Bản hơn 300 triệu USD. Đó là
những con số phản ánh XKLĐ nhằm thu ngoại tệ cho đất nước trong khi đầu tư
không nhiều. XKLĐ là một trong số ít ngành kinh tế có nguồn thu ngoại tệ trên 1 tỷ
USD/năm. Từ khi thực hiện XKLĐ theo cơ chế mới bắt đầu từ năm 1992, số ngoại tệ
chuyển về nước do hoạt động XKLĐ ngày càng tăng. Nếu năm 1992, số ngoại tệ
chuyển về ước đạt 50 triệu USD thì năm 2001, số ngoại tệ chuyển về nước ước đạt
1,25 tỷ USD [7].
Xuất khẩu lao động đã tạo việc làm cho hàng vạn lao động trong khi tiết kiệm
được chi phí đào tạo, đầu tư cho người lao động. Để đầu tư tạo chỗ làm mới cho một
lao động trong nước theo chương trình quốc gia giải quyết việc làm, mỗi lao động
cần đầu tư ít nhất 10 triệu VNĐ. Đối với các doanh nghiệp FDI, số liệu thực tế cho
thấy các nhà đầu tư phải bỏ ra từ 10.200 đến 20.000 USD. Chương trình quốc gia giải

quyết việc làm, ngoài phần cho vay của nhà nước trung bình 0,5 triệu VNĐ, người
lao động phải bỏ thêm gấp 3 lần nữa. Như vậy nếu lấy suất đầu tư cho một chỗ làm
việc trong chương trình quốc gia để so sánh thì để đưa được 100.0000 lao động đi
làm việc ở nước ngoài, chúng ta tiết kiệm hàng năm trên dưới 200 tỷ VNĐ[7].
Lực lượng lao động sau thời kỳ đi làm việc ở nước ngoài trở về được trang bị
kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp được đào tạo và có ý thức sản xuất cơng nghiệp cũng
là một trong những kết quả tích cực của XKLĐ. Sau khi trở về, cùng với kỹ năng và
vốn tích lũy được trong thời gian làm việc ở nước ngoài, người lao động có thể đầu
tư vào những hình thức sản xuất kinh doanh phù hợp, góp phần nâng cao đời sống
cho bản thân và gia đình (nhiều người trong số lao động trở về nước đã tự mở doanh
nghiệp, tạo việc làm cho mình và cho người khác, phát triển vốn).


Ngồi ra, vai trị của XKLĐ cũng rất cao và có ý nghĩa trong giải quyết các
mục tiêu xố đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho người thân trong gia đình ngay từ khi
lao động cịn đang làm việc ở nước ngồi. Nhờ có khoản thu nhập cao hơn rất nhiều
so với mức lương ở trong nước điển hình như thu nhập bình quân của lao động tại
Malaysia 5 - 6 triệu đồng/tháng, tại Đài Loan 6 - 10 triệu đồng/tháng, tại Hàn Quốc là
10 - 15 triệu đồng/tháng, Nhật Bản 20 - 25 triệu đồng/tháng…[6].
Hoạt động xuất khẩu lao động cũng là cầu nối để các quốc gia tăng cường
quan hệ hợp tác mọi mặt, giúp cho sự giao lưu giữa các nền văn hóa trên thế giới
ngày càng được mở rộng.
Nói tóm lại cơng tác xuất khẩu lao động có một vai trị rất lớn đối với mỗi quốc
gia bởi vậy Đảng và Nhà nước ta luôn xác định đây là một trong những công tác trọng
điểm mang tính chiến lược cho quốc gia trong thời gian tới.

2.1.4 Ảnh hưởng của xuất khẩu lao động đến đời sống kinh tế - xã hội nông
thôn
2.1.4.1 Ảnh hưởng đến đời sống kinh tế nơng thơn
Xuất khẩu lao động có tác động rất nhiều đến đời sống, đặc biệt là tình hình

kinh tế của những hộ gia đình có lao động đi XKLĐ. XKLĐ thực sự đã trở thành một
giải pháp hữu hiệu đối với cơng cuộc xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và cải
thiện đời sống cho một bộ phận người lao động đặc biệt ở khu vực nông thôn. Nguồn
lợi về kinh tế của công tác xuất khẩu là rất lớn tạo ra những chuyển biến cơ bản làm
thay đổi bộ mặt nông thôn, nâng cao mức sống cho nhiều gia đình nơng dân. Một
nghiên cứu tại Thái Bình do tổ chức Health Berdge Canada và Trung Tâm Nghiên
Cứu Phụ Nữ thực hiện mới đây cho thấy, 73% gia đình có người đi làm việc tại nước
ngồi cải thiện đáng kể đời sống kinh tế, nhà ở, tiện nghi sinh hoạt, chất lượng cuộc
sống được nâng lên. Thực tế, trước khi đi XKLĐ, thu nhập của các hộ gia đình rất
thấp, chủ yếu trong khoảng 5 - 10 triệu đồng/năm, khá hơn một chút là đến dưới 15


triệu đồng/năm. Rất ít hộ có thu nhập một năm 30 triệu đồng, cịn trên 50 triệu đồng
thì hầu như khơng có. Khi đi XKLĐ, thu nhập của người lao động đã tăng lên đáng
kể, khoảng từ 6 - 10 lần so với thu nhập cũ. Có tới gần nửa số hộ đi XKLĐ thu nhập
từ 50 - 100 triệu đồng/năm và trên 100 triệu đồng/năm. Cùng với mức thu nhập cao,
các hộ gia đình có thêm nguồn vốn đầu tư sản xuất kinh doanh buôn bán, phát triển
tiểu thủ công nghiệp khôi phục nghề truyền thống tạo thêm nhiều việc làm mới giải
quyết công ăn việc làm cho lao động gia đình và địa phương. Xã Vũ Hội, một điểm
sáng về XKLĐ của huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình, hiện có trên 900 lao động làm việc
tại nước ngồi, hằng năm lao động gửi về cho gia đình trên 40 tỷ đồng, góp phần xố
đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của các hộ trong xã gấp 3 lần mức sống của các
hộ trong huyện. Đi lao động nước ngồi ở Vũ Hội bao giờ cũng có “sức hút” mạnh,
bởi ai cũng nhìn thấy rõ hiệu quả: cả xã có 1278 nhà xây kiên cố 2 – 3 tầng thì 80% là
do người đi nước ngồi gửi tiền về xây dựng [15].
Rõ ràng, XKLĐ đã mang lại nguồn thu nhập không nhỏ, điều kiện quan trọng
để cải thiện cuộc sống, cho bản thân người lao động và hộ gia đình, góp phần thay
đổi bộ mặt nơng thơn.
2.1.4.2 Ảnh hưởng đến đời sống xã hội nơng thơn
Lợi ích về kinh tế mà XKLĐ mang lại là rất lớn song bên cạnh đó XKLĐ

cũng tác động sâu sắc đến đời sống xã hội. Cụ thể bên cạnh lợi ích kinh tế XKLĐ
cũng đồng thời tạo ra các lợi ích xã hội như giải quyết công ăn việc làm cho một bộ
phận người lao động, góp phần ổn định và cải thiện cuộc sống cho người dân, nâng
cao phúc lợi xã hội, bảo đảm an ninh chính trị...Bên cạnh đó với số tiền tích lũy được
cộng thêm kinh nghiệm sản xuất và tác phong công nghiệp đã học được người lao
động đi làm việc ở nước ngoài sau khi trở về nước có thể tự tạo việc làm cho bản
thân mình và cho người khác. Một điều dễ thấy là thu nhập của người lao động đi
làm việc ở nước ngoài tăng lên, góp phần cải thiện, ổn định đời sống cho người lao
động và gia đình họ. Đời sống nhân dân được ổn định đó cũng là nền tảng cho sự ổn
định của xã hội, giảm bớt tệ nạn xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh tác động tích cực, XKLĐ cũng bộc lộ những mặt ảnh
hưởng tiêu cực không chỉ đối với bản thân người lao động mà còn đối với gia đình và


cộng đồng như: chức năng gia đình biến đổi, vai trò giới truyền thống bị xáo trộn,
mối quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo đã dẫn đến nhiều vấn đề xã hội như: tha hoá về
đạo đức, lối sống; mắc các tệ nạn xã hội; quan hệ tình dục ngồi hơn nhân; gia đình
lục đục, tan vỡ; thiếu quản lý, giáo dục con cái; nợ nần…
Ở những gia đình có người đi XKLĐ chưa trở về, khơng chỉ quy mơ sản xuất
bị thu hẹp mà cịn chịu ảnh hưởng nhiều về mặt tâm lý, tình cảm; thách thức lớn nhất
là thiếu thốn tình cảm, dẫn đến những biến đổi về nhận thức, hành vi ứng xử trong
quan hệ vợ chồng, ảnh hưởng đến tinh thần, tâm lý và việc học tập của trẻ, tác động
đến sự bền vững của gia đình, rạn nứt trong hơn nhân. Các gia đình có người đi
XKLĐ gặp khó khăn trong việc chăm sóc và tái tạo sức lao động.
Theo nghiên cứu của tổ chức Health Berdge Canada và Trung Tâm Nghiên
Cứu Phụ Nữ thực hiện nghiên cứu : “Tác động của xuất khẩu lao động tới cuộc sống
gia đình tại tỉnh Thái Bình” mới đây cho thấy, có tới 30 - 40% gia đình có người đi
XKLĐ bị tan vỡ hạnh phúc gia đình. Ngun nhân thì nhiều, có khi do người chồng
thiếu trách nhiệm, sống bng thả, bê tha, hoặc có khi do sự thay đổi lối sống, quan
điểm sống của người vợ sau khi đi XKLĐ về. Qua khảo sát, kết quả nghiên cứu đã

khẳng định đa số các ông chồng có vợ đi XKLĐ đều có quan hệ ngồi hơn nhân do bị
bạn bè lơi kéo, cơ đơn, thiếu tình cảm và để giải quyết nhu cầu sinh lý. Nghiên cứu
cũng cho rằng, XKLĐ không làm tăng chất lượng các hoạt động chăm sóc và tái tạo
sức lao động như kỳ vọng. Rõ ràng, hệ lụy của XKLĐ là chức năng gia đình bị biến
đổi, vai trị giới truyền thống xáo trộn, quan hệ gia đình lỏng lẻo dẫn đến tha hố đạo
đức, tệ nạn xã hội, gia đình lục đục, tan vỡ, thiếu quản lý giáo dục con cái…
Xuất khẩu lao động là chiến lược kinh tế quan trọng của một nước nghèo như
Việt Nam. Riêng Thái Bình là trường hợp đặc thù, có tỷ lệ nữ đi xuất khẩu lao động
cao. Nhưng tính trên cả nước, trong 460.000 lao động làm việc nước ngồi thì nữ
chiếm chưa tới 30% [15]. “Bài toán kinh tế buộc chị em phải ra đi. Và trước khi đi,
họ đã xác định phải chấp nhận hy sinh, trong đó có việc thiếu thốn tình cảm gia
đình”.
Những kết quả mà XKLĐ mang lại cũng khơng phải là nhỏ. Nó làm thay đổi
bộ mặt cuộc sống, tạo tích luỹ, cơ hội cho người lao động. Tuy nhiên, XKLĐ cũng có


những tác động tiêu cực cần được xem xét dưới nhiều góc độ để có những giải pháp
hạn chế, bảo vệ người lao động và gia đình họ.
Hiệu quả về kinh tế là điều khơng cịn phải bàn cãi, thế nhưng ở nhiều khía
cạnh khác, nhất là về mặt tác động đến gia đình, XKLĐ lại trở thành nguyên nhân
trực tiếp khiến nhiều tổ ấm “đổ bể”, nhiều đứa trẻ rơi vào cảnh cha mẹ chia lìa…Đó
là thực tế ở nhiều miền quê Việt Nam.
Với trên 900 người đi lao động xuất khẩu, mỗi năm gửi về trên 40 tỷ đồng, xã
Vũ Hội huyện Vũ Thư trở thành vùng có số người làm việc ở nước ngoài cao nhất
trong tỉnh Thái Bình. Song đằng sau việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cũng
phát sinh nhiều tiêu cực đáng cảnh báo.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về xuất khẩu lao động
 Thái Lan
Thái Lan bắt đầu XKLĐ từ những năm 1970 khi ở Trung Đơng bùng nổ xây

dựng cơng trình khai thác dầu lửa. Số lượng lao động xuất khẩu trong 10 năm gần
đây của Thái Lan bình quân là 200.000 người/năm. Trong đó hơn 50% đến làm việc
tại Đài Loan. Lượng ngoại tệ do lao động Thái Lan làm việc ở nước ngoài chuyển về
nước qua hệ thống ngân hàng tăng từ 52 tỷ Bạt năm 1997 lên trên mức 60 tỷ Bạt năm
1998 và năm 1999 tương đương 1,5 USD [2].
Về cơ cấu lao động xuất khẩu, phần lớn lao động Thái Lan đi nước ngoài làm
việc là lao động khơng nghề có trình độ học vấn thấp khoảng 50% chủ yếu từ các
vùng nơng thơn trong đó phần lớn từ vùng Đơng Bắc Thái Lan nơi người dân có
nhiều khó khăn về kinh tế.
Về chính sách, Thái Lan thực hiện chính sách tự do hóa XKLĐ. Thời kỳ đầu,
hoạt động XKLĐ do cá nhân người lao động và các đại lý môi giới tư nhân thực hiện,
nhiều lao động Thái Lan ra nước ngoài bằng visa du lịch rồi ở lại làm việc bất hợp
pháp. Sau đó để bảo vệ quyền lợi người lao động nước thuộc Tổng cục lao động Bộ
nội vụ, Văn phòng quản lý việc làm người nước ngồi có chức năng giám sát hoạt
động của các đại lý tuyển mộ lao động tư nhân, xây dựng các tiêu chuẩn, điều kiện là
bảo vệ người lao động ở nước ngoài.


Ở Thái Lan cũng có hiện tượng lừa đảo người lao động để chiếm đoạt tiền đặt
cọc và dịch vụ phí của người lao động muốn đi XKLĐ. Trong nhiều trường hợp
chính phủ khơng thể can thiệp vì các cơng ty này giải thể rất nhanh. Đối với công ty
tuyển mộ tư nhân có giấy phép, nếu có vi phạm cũng bị xử lý và thu hồi giấy phép.
Về chủ trương và định hướng chung, chính phủ Thái Lan áp dụng triệt để và
nhất quán các biện pháp nhằm thúc đẩy việc XKLĐ để giảm tình trạng thất nghiệp
trong nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, hiện nay chính phủ Thái Lan đã bắt đầu quan
tâm đến việc làm sao để nâng cao chất lượng và thay đổi cơ cầu cho lao động xuất
khẩu.
 Indonesia
Indonesia là một nước xuất khẩu lao động lâu năm với quy mô lớn. Từ những
năm 1930 đến những năm 1950 đã có hơn 200.000 người di cư sang lao động tại các

đảo của Malaysia. Theo Bộ nhân lực giai đoạn từ 1969 đến 1993 đã có 877.400
người ra nước ngoài làm việc số lượng tăng nhanh từ 7.400 năm 1970 lên đến
405.000 người năm 1980 và giai đoạn 1989 đến 1993 đã có 465.000 người. Những
năm từ 1994 đến 1998 số lượng lao động Indonesia tăng nhanh, từ 2,1 triệu người
tăng lên 3,2 triệu người theo Asian Migration News 1998 nguồn ngoại tệ do lao động
chuyển về theo con đường chính thức năm 1996 đến 1998 là khoảng 2,72 tỷ USD.
Trên thực tế số ngoại tệ thu được có thể gấp 2 – 3 lần [2].
Thị trường lao động Indonesia đến làm việc tập trung tại một số nước và khu
vực như: Đông Nam Á, Malaysia, Singapore, Bruney, Đông Bắc Á, Đài Loan, Hàn
Quốc, Nhật Bản…
Về chính sách, để đẩy mạnh XKLĐ Indonesia xây dựng chính sách về hệ
thống tuyển mộ và đào tạo lao động chính sách đưa lao động đi nước ngồi làm việc
và chính sách quan hệ hợp tác lao động với nước ngồi, chính phủ Indonesia can
thiệp vào XKLĐ thơng qua việc quản lý thống nhất và chỉ đạo chặt chẽ chương trình
việc làm ngồi nước.
Năm 1994 Chính phủ Indonesia đã ban hành Nghị định về thủ tục và hệ thống
tuyển mộ, việc thành lập các công ty tuyển mộ lao động, các điều kiện và các yêu cầu


đối với tổ chức tuyển mộ quy định XKLĐ việc giải quyết tranh chấp các vấn đề pháp
lý khác.
Tuy nhiên, việc quản lý hoạt động XKLĐ của Indonesia cũng còn nhiều thiếu
sót do những bất cập của pháp luật và sự không tuân thủ các quy định của công ty
tuyển mộ và người lao động, những phạm vi lừa đảo về XKLĐ thường được đưa tin
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
 Hàn Quốc
Đặc điểm cơ bản của XKLĐ ở Hàn Quốc là lĩnh vực XKLĐ chủ yếu là ngành
xây dựng, trong khi đó Hàn Quốc lại nhập khẩu rất nhiều lao động các ngành khác để
đáp ứng nhu cầu sử dụng lao động trong nước. Hàn Quốc có luật đẩy mạnh cơng tác
xây dựng ở nước ngồi. Luật này cho phép cơng an Hàn Quốc ra nước ngồi làm việc

khi có giấy phép của Bộ lao động Hàn Quốc.
Chính phủ Hàn Quốc thực hiện hai chức năng chủ yếu. Thứ nhất, quản lý khu
vực tư nhân tham gia XKLĐ. Thứ hai, thực hiện việc tuyển dụng và bố trí làm việc.
Chính phủ đã theo đuổi một chương trình chủ động đẩy mạnh việc XKLĐ
bằng cách chỉ đạo Bộ xây dựng tham gia đấu thầu xây dựng ở nước ngồi, Bộ ngoại
giao hướng dẫn Đại sứ qn tìm kiếm thị trường, Bộ lao động hỗ trợ các đại lý tuyển
mộ lao động duy trì lực lượng lao động để các cơng trình xây dựng ở nước ngồi.
Cơng dân đủ tiêu chuẩn đi lao động ở nước ngoài đăng ký danh sách tại cơ quan lao
động và được giải quyết các thủ tục nhanh chóng thuận lợi.
Cơng tác đào tạo lao động xuất khẩu được đặc biệt quan tâm. Chính phủ xác
định các loại ngành nghề nào cần đào tạo và yêu cầu các công ty tuyển mộ phải thực
hiện việc đào tạo công nhân. Các đại lý tuyển mộ lao động xuất khẩu phải có giấy
phép và phải ký quỹ một khoản tiền lương tương đương với 130.000 USD. Các hãng
xây dựng phải có các điều kiện về trình độ kỹ thuật, vốn kinh nghiệm. Bộ lao động
thực hiện việc kiểm tra thường xuyên các đại lý tuyển mộ để ngăn chặn các vi phạm
trong XKLĐ [2].
Chính phủ rất quan tâm đến vấn đề phúc lợi và bảo vệ công dân, quy định các
điều kiện cơ bản và tối thiểu về thời gian hạn hợp đồng, thời gian làm việc chế độ
nghỉ phép và quy định một số ưu đãi về tỷ suất thuế thu nhập về nhà ở sau khi về


nước, phiếu mua hàng, quà tặng, cho người lao động để khuyến khích họ làm việc
tốt.
 Philippin
Philippin là một nước có hệ thống XKLĐ có tổ chức và là mơ hình tốt cho các
nước XKLĐ ở Châu Á. Bộ lao động và việc làm là có trách nhiệm xây dựng các
chính sách, phối hợp và quản lý tất cả các vấn đề liên quan đến lao động và việc làm
ở Philippin.
Chính phủ Philippin quy định chức năng của văn phịng dịch vụ việc làm để quản lý
dịch vụ tuyển chọn tư nhân và lập ra Ban phát triển việc làm ngồi nước để tuyển mộ

cơng nhân làm việc trên đất liền, Ban thủy thủ quốc gia để quản lý các đại lý tàu biển
thuê thuyền viên. Chính phủ giao cho Văn phòng dịch vụ việc làm, ban phát triển
việc làm ngoài và Ban thủy thủ quốc gia xem xét các hợp đồng trước khi lao động
được thuê (trên cơ sở các điều kiện, tiêu chuẩn do chính phủ quy định).
Năm 1982 để đảm bảo cho lao động xuất khẩu được hưởng các điều kiện làm
việc công bằng và nhận các dịch vụ xã hội và phúc lợi một cách thuận tiện, chính phủ
đã thành lập hai cơ quan thuộc Bộ lao động và việc làm chịu trách nhiệm về XKLĐ
đó là: Cục quản lý việc làm ngoài nước Philippin và Cục phúc lợi lao động ngồi
nước.
Đối với các cơng tác tuyển dụng lao động chính phủ quy định cho những công
ty Philippin hoặc những công ty liên doanh mà cư dân Philippin giữ 75% vốn pháp
định trở lên mới được cấp giấy phép hoạt động XKLĐ. Về giấy phép ở Philippin có 3
loại giấy phép XKLĐ giấy phép cấp cho các cơng ty tuyển dụng lao động và bố trí
việc làm trên biển, giấy phép cấp cho các nhà thầu khốn xây dựng để tuyển mộ và
bố trí việc làm cho cơng nhân làm việc tại các cơng trình xây dựng mà người
Philippin nhận thầu ở nước ngồi.
Chính phủ Philippin cũng đưa ra các biện pháp để chống lại việc vi phạm quy
định của chính phủ về XKLĐ. Các hành vi vi phạm như: tuyển khơng có giấy phép,
cung cấp các thông tin không đúng, thu nhận tiền quá mức quy định của chính phủ…
sẽ bị phạt từ 6 tháng đến 12 năm tù và phạt tiền từ 200.000 đến 500.000 pesos tương
đương 8.000 USD đến 20.000 USD [2].


2.2.2 Hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam
2.2.2.1 Quá trình phát triển của hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Trước tình trạng sức ép việc làm đã có những tác động xấu khơng nhỏ lên nền
kinh tế, lên đời sống xã hội của quần chúng nhân dân và nhiều khía cạnh khác, Đảng
và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách để giải quyết việc làm cho người lao động
nhằm giảm bớt sức ép về việc làm. Tuy chưa xoá bỏ được sức ép về việc làm nhưng
chúng ta cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đóng góp vào trong đó có

phần khơng nhỏ của công tác XKLĐ. Mặc dù vậy, ngay từ đầu dù xác định XKLĐ là
một biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn
chưa nhận thức đúng đắn hồn tồn về nó. Chỉ đến khi XKLĐ được tiến hành và đem
lại kết quả tốt đẹp thì nhận thức của Đảng và Nhà nước ta dần dần thay đổi và coi nó
như một biện pháp chiến lược trong giải quyết việc làm và phát triển kinh tế đất
nước. Sự chuyển biến trong nhận thức cũng dẫn đến sự ban hành hàng loạt các chính
sách, sự nới lỏng, tạo điều kiện cho hoạt động XKLĐ. Nhờ vậy mà trong những năm
gần đây có thể nói hoạt động XKLĐ đang trên đường khởi sắc. Việt Nam bắt đầu đưa
chuyên gia và lao động ra nước ngồi làm việc có thời hạn từ năm 1980. Hoạt động
XKLĐ của Việt Nam có thể được chia thành hai thời kỳ:

 Thời kỳ 1980 đến 1990:
Từ đầu năm 1980 chính phủ ra quyết định QĐ 46/CP ngày 11/02/1980 " về
việc đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn
ở các nước xã hội chủ nghĩa". Trong khuôn khổ hiệp định và nghị định thư đã ký kết
giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (Liên Xô, CHDC Đức,
Bungari, Tiệp Khắc) ta đã đưa được 277183 lao động và chuyên gia đi làm việc ở
nước ngồi, bình qn mỗi năm đưa được khoảng 2,5 vạn lao động. Lao động nghề
chiếm khoảng 42%, lao động không có nghề chiếm 58%. Đặc biệt những năm 1988,
1989, 1990 lao động khơng có nghề chiếm khoảng 70% [2]. Đa số lao động trước khi
đi không qua đào tạo, bồi dưỡng. Lao động sang các nước Đông Âu chủ yếu là lao
động trong lĩnh vực xây dựng, kỹ thuật. Lao động được bố trí làm việc tại nhà máy,
xí nghiệp theo hình thức đội, đơn vị, đồn, vùng và được đào tạo nghề theo hình thức
kèm cặp trong sản xuất tại xí nghiệp của nước bạn. Nước bạn bố trí sử dụng, tổ chức,


×