Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

giải pháp về cung lao động ngành công nghiệp hướng tới cân bằng thị trường lao động ngành công nghiệp việt nam trong thời gian tới.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.53 KB, 21 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lao động, một mặt là bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào
không thể thiếu được trong quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân
số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển. Sự phát triển kinh tế suy cho cùng
đó là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho con người. Lao
động là một trong bốn yếu tố tác động tới tăng trưởng kinh tế và nó là yếu tố quyết định
nhất, bởi vì tất cả mọi của cải vật chất và tinh thần của xã hội đều do con người tạo ra,
trong đó lao động đóng vai trò trực tiếp sản xuất ra của cải đó. Trong một xã hội dù lạc
hậu hay hiện đại cũng cân đối vai trò của lao động, dùng vai trò của lao động để vận hành
máy móc.Lao động là một yếu tố đầu vào của mọi quá trình sản xuất không thể có gì thay
thể hoàn toàn được lao động.
Với Việt Nam là một nước đang phát triển và muốn có tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao thì cần đề cao vai trò của lao động trong phát triển kinh tế. Tuy nhiên cùng với việc
phát triển nâng cao trình độ lao động trong nền kinh tế thì những giải pháp về cung lao
động hướng tới cân bằn thị trường lao động cần được quan tâm hơn nữa. Với những lý do
trên nhóm đã quyết định lựa chọn đề tài: 
 !"#$
 %. Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do hạn chế về mặt thời gian
nghiên cứu và năng lực có hạn nên bài thảo luận cũng còn nhiều sơ xuất,nên kinh mong
thầy và các bạn thông cảm.
Phần 1. Lý thuyết về cung lao động
1.Cung lao động và một số khái niệm liên quan.
Cung lao động là khả năng tham gia thị trường lao động ( cả về số lượng và thời
gian) của những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động, và những người
ngoài độ tuổi lao động nhưng thực tế có tham gia lao động trên thị trường lao động.
Mỗi người lao động, ở những thời điểm khác nhau của cuộc đời, phải quyết định
làm việc hay không làm việ, làm việc cho ai và bao nhiêu thời gian.Đó chính là biểu hiện
cung lao động của mỗi cá nhân.Chính vì thế tại mỗi thời điểm nhất định cung lao động xã
hội được tao ta bằng tổng cung lao động cá nhân. Tuy nhiên cung lao động xã hội còn
phụ thuộc vào quy mô dân số, mức độ tham gia lao động của từng nhóm tuổi.Do các yếu
tố trên thay đổi nên lực lượng lao động và khả năng cung ứng lao động cuả xã hội cũng


thay đổi và tác động mạnh mẽ đến năng lực sản xuất của nền kinh tế.
Như vậy cung lao động phản ánh khả năng tham gia trên thị trường lao động của
người lao động trong những điều kiện nhất định Cung lao động của xã hội là khả năng
cung cấp sức lao động của nguồn nhân lực xã hội. Nó được thể hiện hoặc ở số lượng và
chất lượng con người hoặc thời gian của những người tham gia và mong muốn tham gia
lao động trên thị trường lao động.
Cung ứng lao động ngành.
Một ngành riêng biệt chỉ là một bộ phận của nền kinh tế. Cung lao động cho một
ngành thường không tách rời các ngành khác vì lao động có khả năng di chuyển từ ngành
nọ sang ngành kia. Trong trường hợp sự di chuyển này là hoàn toàn dễ dàng (ví dụ những
người thợ hàn hay lái xe tải có thể dễ dàng chuyển từ ngành công nghiệp sản xuất ô tô
sang ngành xây dựng và ngược lại mà gần như không cần bất cứ sự đào tạo bổ sung nào),
sự chênh lệch tiền lương của loại lao động này trong các ngành khác nhau chỉ được phép
duy trì khi nó phản ánh những đặc tính phi tiền tệ khác nhau giữa các ngành.
*Một số khái niệm liên quan:
-Cầu lao động là lượng hàng hoá sức lao động mà người mua có thể mua ở mỗi
mức giá có thể chấp nhận được.
-Thị trường lao động là không gian trao đổi trong đó người sử dụng lao động và
người sở hữu lao động có nhu cầu làm thuê tiến hành gặp gỡ thoả thuận về mức thuê
mướn lao động.
-Cân bằng thị trường lao động phụ thuộc vào từ cả phía cung và phía cầu lao động.
Việc định giá trên thị trường lao động trên mặt lý thuyết cũng vào dựa vào cung cầu lao
động.
2.Các nhân tố ảnh hưởng đến cung lao động.
&'(#)$*+,-*./
a, Dân số:
- Quy mô lực lượng lao động của mỗi quốc gia phụ thuộc vào quy mô dân số của
quốc gia đó.
- Quy mô dân số càng lớn sẽ tạo ra nguồn nhân lực sẵn sàng cung cấp sức lao
động cho xã hội càng lớn.

- Cơ cấu dân số trẻ hay già, sẽ cho ta đội ngũ lao động đủ tuổi lao động trở lên ít
hay nhiều.
b, Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động
- Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quyết định cung lao động về số lượng.
- Qua khảo sát thực tế ở một số nước cho thấy:
+ Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam có xu hướng giảm, còn tỷ lệ tham
gia lực lượng lao động của nữ có xu hướng tăng.
+ Có sự giảm sút đáng kể về số giờ làm việc bình quân một tuần.
+ Trình độ giáo dục và cung lao động cũng có những mối liên hệ đáng kể đối với
cả nam và nữ
+ Có sự khác biệt chủng tộc trong cung lao động, đặc biệt là ở nam giới
- Những yếu tố làm tăng tỷ lệ tham gia lực lượng lao động:
+ Tăng lương và thu nhập thực tế trên thị trường
+ Sự thay đổi sở thích, hành vi, nghề nghiệp hứng thú và hoàn cảnh gia đình.
+ Tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cao trong các công việc nội trợ
+ Xã hội phát triển nhiều ngành nghề mới xuất hiện: như du lịch
+ Khủng hoảng kinh tế
+ Các chương trình phú lợi của nhà nước như trợ cấp tín dụng, thuế
- Những yếu tố làm giảm tỷ lệ tham gia lực lượng lao động:
+ Tiền lương và thu nhập thực tế
+ Những đảm bảo trợ cấp xã hội, tàn tật, hưu trí, trợ cấp thất nghiệp
+ Khủng hoảng kinh tế
&'&#)$*,0.'
a, Chiến lược chính sách phát triển nguồn nhân lực
Quan điểm, chiến lược phát triển con người và nguồn nhân lực trong từng giai
đoạn lịch sử có tác động rất lớn tới chất lượng của nguồn nhân lực. Nhà nước có quan
tâm, chăm lo xây dựng và phát triển con người và nguồn nhân lực được thể hiện qua
chiến lược phát triển con người và nhân lực nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài…, thông
qua hệ thống pháp luật bảo vệ các quyền cơ bản của con người như Luật giáo dục, luật
lao động … và các chế độ chính sách.

b, Hệ thống giáo dục, đào tạo
Hệ thống giáo dục từ các cấp mầm non, tiểu học, trung học phổ thông, đại học,
đào tạo nghề là nhân tố quyết định đến chất lượng cung lao động. Hệ thống được phân
ban hợp lý, chương trình giáo dục đào tạo được xây dựng khoa học, phương pháp hiện
đại và phù hợp, đội ngũ giáo viên có chất lượng, cơ sở vật chất đầy đủ… đều tác động tốt
đến trình độ học vấn, chuyên môn của người lao động hay tác động tốt đến chất lượng
cung lao động.
c, Chăm lo sức khỏe và dinh dưỡng:
Hệ thống y tế, chăm sóc sức khỏe, vệ sinh phòng bệnh, phong trào thể dục thể
thao, văn hóa văn nghệ có tác động đến tri thức văn hóa, sức khỏe, thể lực và tâm lực của
đội ngũ nhân lực
d, Hội nhập quốc tế:
Quá trình hội nhập quốc tế dưới nhiều hình thức: liên doanh liên kết, xuất khẩu lao
động, đào tạo quốc tế… có tác động tích cực đến chất lượng cung lao động, giúp cho
nguồn nhân lực nâng cao tri thức, thúc đẩy tiến bộ khoa học công nghệ, trình độ quản lý.
Phần 2. Giải pháp về cung lao động ngành công nghiệp hướng tới cân bằng thị
trường lao động ngành công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới.
2.1.Th9c tr:ng lao động trong ngành công nghiệp ở nước ta hiện nay
&'('('12!-*.3
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, lĩnh vực công nghiệp tháng đầu năm 2011 tiếp
tục có những chuyển biến tích cực khi lao động của các doanh nghiệp ngành này có chiều
hướng tăng.
Tính đến 1/7/2011 cả nước có 51,4 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng
lao động, chiếm 58,5 % tổng dân số,bao gồm 50,35 triệu người có việc làm và 1.05 triệu
người thất nghiệp. Trong số những người có việc làm thì có 10,8 triệu người tham gia
vào lĩnh vực công nghiệp, chiếm 21,3 %.
Theo số liệu tổng hợp từ Vụ Kinh tế công nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), lao
động toàn ngành công nghiệp tháng 1/2011 tăng 0,7% so với tháng 12/2010.
Trong đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng cao nhất với 1,3%, khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài tăng 0,8%, còn khu vực ngoài nhà nước giảm 1,2%.

Trong 3 ngành công nghiệp cấp I, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,5%,
ngành công nghiệp khai thác có tỷ lệ lao động tăng 0,2%, khu vực công nghiệp điện,
nước tỷ lệ lao động tăng mạnh với 4,3%.
Lao động ngành công nghiệp một số tỉnh, thành phố có quy mô công nghiệp phần
lớn có biến động tăng trong tháng này. Cụ thể, Tp. HCM tăng 0,8%; Hải Phòng tăng
0,4%; Hải Dương tăng 1,2%; Vĩnh Phúc tăng 0,6%; Bắc Ninh tăng 3,1%; Đà Nẵng tăng
0,1%; Bình Dương tăng 0,3%; Cần Thơ tăng 27,4%. Riêng Hà Nội giảm 0,1%; Bà Rịa
Vũng Tàu giảm 11,1%.
Lao động ngành công nghiệp trong các khu công nghiệp dự kiến tháng 1/2011
tăng 0,9% so với tháng 12/2010, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 0,1%,
khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng 0,6% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 1,0%.
&'('&'12!0.3
Hiện nay với 7,8 triệu lao động được đào tạo trong 50,35 triệu lao động, chiếm
15,4 % vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lao động có trình độ chuyên môn cao hoặc đáp
ứng không hiệu quả.
- Theo kết quả khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)
mới đây, 68% doanh nghiệp (DN) công nghiệp không hài lòng với số lượng và chất
lượng của cán bộ kỹ thuật.
Qua khảo sát cũng cho thấy, sự thiếu hụt trầm trọng về lao động trình độ chuyên
môn kỹ thuật cao không có biện pháp tháo gỡ trong nhiều năm qua. Đáng báo động hơn,
thực trạng này được dự báo sẽ còn tiếp diễn, thậm chí xấu đi trong vòng 5 năm tới.
Thiếu lao động có trình độ
Năm 2009, Công ty Intel Products Việt Nam (Intel) chính thức hoạt động tại Khu
công nghệ cao TP Hồ Chí Minh. Để đáp ứng yêu cầu công việc, công ty dự kiến tuyển
4.000 người. Từ năm 2007, Intel đã có kế hoạch tuyển dụng, liên kết đào tạo với các
trường đại học, dạy nghề. Giữa năm 2008, Intel tiếp nhận khoảng 2.000 hồ sơ dự tuyển,
kết quả chỉ có 40 ứng viên được chấp nhận. Hiện nhiều nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài cũng đang đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực như Intel. Tại các khu công nghiệp
(KCN) tập trung của Bắc Ninh đang sử dụng hơn 3 vạn lao động. Song các DN ở Bắc

Ninh đang đứng trước tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu lao động chất lượng, nhất
là DN trong ngành công nghiệp điện, điện tử, cơ khí chính xác Được biết, tại các KCN
tập trung hiện nay chỉ có hơn 20% lao động có trình độ chuyên môn cao về kỹ thuật,
quản lý. Nhiều DN trong nước và nước ngoài đã phải trả chi phí cao cho các vị trí quản lý
nhân sự, điều hành, tài chính Tình trạng thiếu lao động chất lượng cao không chỉ là nỗi
lo của ngành tin học, điện tử mà còn là tình trạng chung của nhiều ngành công nghiệp
khác, nhất là ở các chức danh giám đốc, quản đốc, quản lý chất lượng, thiết kế…
Hầu hết phải đào tạo lại
Để có được đội ngũ lao động lành nghề, kỹ thuật cao, hầu như các DN phải đào
tạo lại. Cũng như nhiều công ty có vốn đầu tư nước ngoài khác tại Việt Nam, Intel
Products đang tài trợ cho chương trình du học cho sinh viên Việt Nam, nhằm tìm 40 sinh
viên xuất sắc đang học năm thứ ba thuộc các khoa điện, điện tử viễn thông và cơ khí tại
các trường đại học của Việt Nam đưa sang học tiếp 2 năm cuối tại Đại học Portland State
(Hoa Kỳ). Kinh phí đầu tư cho chương trình du học này khoảng 2 triệu USD. Công ty
TNHH Vietubes là một đơn vị chuyên ngành sản xuất chế tạo ren ống, gia công, sửa chữa
và kiểm định các loại cần khoan ống, sản xuất đầu nối phục vụ cho hoạt động thăm dò,
khai thác dầu khí trong nước và xuất khẩu. Những công việc này đòi hỏi nguồn lao động
phải "tinh", vì chỉ cần một sai sót nhỏ trong ống ren cũng có thể gây hại cho cả một giàn
khoan. Do đó, hầu hết số lao động được tuyển vào công ty phải đào tạo lại, với kinh phí
hơn 500 triệu đồng/năm. Ông Cao Duy Phong - Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc
Công ty CP Truyền thông Hasaico Group cho biết, công ty thường mất 3-6 tháng để đào
tạo gần như toàn bộ kỹ năng làm việc cho các nhân viên mới. Sắp tới Hasaico Group cần
tuyển dụng khoảng 100 lao động ở nhiều vị trí (biên tập viên, marketing, kinh doanh…)
cho cả văn phòng Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Để có đủ số lao động cần thiết, công ty
vừa tuyển nhân viên chính thức, vừa tuyển thực tập viên làm việc theo hình thức bán thời
gian (vị trí này chủ yếu dành cho các sinh viên chưa tốt nghiệp hoặc mới tốt nghiệp)
Tuy nhiên, kết quả khảo sát của VCCI cũng cho thấy, 51,8% DN thừa nhận họ
thiếu hỗ trợ của Nhà nước về kinh phí đào tạo và 45,8% DN thiếu cơ chế hỗ trợ để giữ
lao động sau đào tạo. Như vậy, để giải quyết tình trạng thiếu nhân lực có trình độ cao, các
DN cần chủ động tiếp cận với các trường đào tạo, đầu tư trước kinh phí nhằm chuẩn bị

nguồn lao động phù hợp với ngành nghề sản xuất, kinh doanh của đơn vị mình. Đồng
thời, cần có những chính sách ưu đãi tốt nhất để thu hút nguồn nhân lực chất lượng. Tuy
nhiên, hầu hết các DN đều mong muốn Nhà nước chia sẻ gánh nặng này qua việc miễn
thuế cho DN tổ chức đào tạo lại cho người lao động hoặc tổ chức thêm các khóa đào tạo
ngắn hạn cho cán bộ quản lý, mở thêm các trung tâm dạy nghề nhằm đáp ứng nhu cầu
phát triển của các ngành.
2.2 Cân bằng trên thị trường lao động ngành Công nghiệp
Nhìn tổng thể thị trường lao động trong ngành Công nghiệp Việt Nam vẫn là một
thị trường dư thừa lao động và phát triển không đồng đều; đặc biệt quan hệ cung – cầu
lao động giữa các vùng, khu vực, các lĩnh vực đang diễn ra tình trạng mất cân đối nghiêm
trọng.
* Cung cầu lao động giữa các vùng, khu vực.
Thị trường lao động 2011 tiếp tục tồn tại nghịch lý là tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức
cao trong khi nhiều địa phương và doanh nghiệp lại gặp khó khăn trong tuyển dụng.
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội vừa đưa ra con số cả nước hiện có khoảng
50,35 triệu người có việc làm, tăng 171 ngàn người so với bình quân năm 2010.
Tuy nhiên, thị trường lao động vẫn chưa thoát khỏi sự mất cân đối về cung cầu,
vẫn mang đậm tính chất cục bộ, khiến nhiều địa phương và doanh nghiệp gặp khó khăn
trong tuyển dụng lao động, kể cả lao động phổ thông. Trong khi đó, không ít tỉnh lại có
tình trạng dư cung, đang đối mặt với tỉ lệ thất nghiệp cao.
Kết quả khảo sát nhanh của Cục Việc làm, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
cho thấy, tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam cung lao động không đáp ứng
được nhu cầu lao động (kể cả lao động không có kỹ năng) tạo nguy cơ thiếu nguồn lao
động lâu dài. Điển hình là Đồng Nai hàng năm thiếu hụt khoảng 20.000 lao động, trong
đó thiếu khoảng 5.000 lao động đã qua đào tạo và 15.000 lao động phổ thông; Thành phố
Hồ Chí Minh số lao động mất việc làm là 23.796 người nhưng nhu cầu tuyển dụng lao
động lên tới 61.527 người; tỉnh Bình Dương số lao động cần tuyển là 41.600 người; Cần
Thơ cần tuyển 5.212 người; Vĩnh Long nhu cầu tuyển lao động 3.000 người; Bà Rịa –
Vũng Tàu nhu cầu tuyển khoảng 5.000 người, Long An có nhu cầu tuyển 6.460 người
Bên cạnh đó thì nhiều tỉnh lại có tình trạng dư cung, đang đối mặt với tỉ lệ thất

nghiệp cao như Bạc Liêu, Ninh Thuận, An Giang, Thanh Hoá, Nghệ An, Nam Định…hf
* Cung cầu lao động theo lĩnh vực, ngành nghề.
Theo kết quả tổng hợp từ các trung tâm giới thiệu việc làm, sàn giao dịch của cả
nước, năm 2009 có tới trên 100 ngàn chỗ việc làm còn trống cần tuyển lao động. Tuy
nhiên, số người lao động đến đăng ký tuyển dụng chỉ bằng 17% so với nhu cầu của các
nhà tuyển dụng và số lao động đáp ứng được yêu cầu và được tuyển dụng vào làm việc
chỉ chiếm khoảng 6% nhu cầu của nhà tuyển dụng. Trong số vị trí tuyển thì có tới 80% là
nhu cầu lao động phổ thông, chủ yếu là của các doanh nghiệp ngành may mặc, giày da,
chế biến nông, lâm sản. Trung tâm giới thiệu việc làm các tỉnh mỗi năm chỉ có thể cung
ứng 20% nhu cầu của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất – kinh doanh trên địa bàn. Thực
trạng bất cập này càng rõ hơn nếu xét về trình độ tay nghề, chuyên môn của chính 25,6%
lao động được tuyển dụng. Nhu cầu tuyển dụng lao động phổ thông luôn ở mức rất cao
nhưng các doanh nghiệp chỉ tuyển được gần 5% nhu cầu. Nhu cầu tuyển lao động có
trình độ đại học ít nhưng lại tuyển vượt chỉ tiêu, đạt 117,2%; cao đẳng đạt 77% và công
nhân kỹ thuật là gần 19%…
Qua đó phản ánh một thực trạng buồn rằng, đào tạo đại học hiện nay chưa theo
yêu cầu của thị trường lao động, sinh viên ra trường khó tìm việc làm. Họ buộc phải chấp
nhận làm những công việc trái với ngành nghề, chuyên môn đã được đào tạo hoặc làm
công việc trình độ thấp hơn để có thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình, gây lãng phí,
bất hợp lý trong sử dụng nguồn nhân lực và góp phần gia tăng số người thất nghiệp.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp phải thực hiện kế hoạch cắt giảm tối đa chi phí, cắt
giảm và sàng lọc nhân sự. Đối tượng là những lao động không có hoặc thiếu kỹ năng
nghề. Thị trường lao động năm 2012 được nhận định giảm sôi động về số lượng và đi
theo chiều hướng nâng cao chất lượng lao động.
Theo Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Hà Nội, thành phố hiện có trên 3,2
triệu lao động, nhưng số lao động chưa qua đào tạo vẫn chiếm tới 65%. Do đó, cơ cấu lao
động vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa. Dự báo, quy mô nhu cầu lao động
của Hà Nội có xu hướng tăng cao do mục tiêu tăng trưởng kinh tế và thu hút vốn đầu tư
trên địa bàn.
Quy mô tăng lao động chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công nghiệp – xây dựng.

Điều này cho thấy cần thiết phải tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động nhằm
hoàn thành mục tiêu tỉ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2015 đạt trên 55% và đến năm
2020 đạt 75%.
Ở một số ngành nghề, nhà tuyển dụng tìm “đỏ con mắt” cũng không đủ ứng viên.
Ngược lại, có những lĩnh vực hồ sơ xin việc chất chồng nhưng lại ít được ngó ngàng.
Theo nhận định của các trung tâm giới thiệu việc làm, đa số những ngành nghề như kế
toán (đặc biệt bậc trung cấp), bán hàng, văn phòng, hóa thực phẩm… đều “thừa mứa” lao
động. Trong khi những ngành có nhu cầu cao lại luôn “thưa thớt” như thiết kế đồ họa,
thiết kế mỹ thuật, thợ cơ khí – điện, nhân sự cao cấp, nhân viên phục vụ tại các nhà hàng,
khách sạn…Hiện nhiều ngành ở Việt Nam không có đào tạo chuyên sâu nên rất khan
hiếm lao động. Chẳng hạn, ở lĩnh vực quản trị sản xuất, thị trường lao động hiện khó tìm
thấy những ứng viên là chuyên viên chuỗi cung ứng (supply chains – tìm nguồn hàng,
mua hàng, vận chuyển hàng đến nơi sản xuất, lưu kho nguyên vật liệu và thành phẩm,
vận chuyển thành phẩm đến nơi bán). Ngay cả ngành CNTT, doanh nghiệp cũng gặp
nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng đội ngũ CNTT ở mức độ trung – cao như kỹ thuật
viên hệ thống CISCO, lập trình viên Oracle…Điều này lý giải vì sao doanh nghiệp rất
cần lao động, nhưng tuyển mãi vẫn không đủ số lượng và chất lượng như mong muốn,
trong khi tỉ lệ thất nghiệp ở thành phố vẫn trên 3,2%.
2.3.Giải pháp về cung hướng tới cân bằng trên thị trường lao động ngành Công
nghiệp.
2.3.1.Giảm tỷ lệ sinh
Thứ nhất, giảm mức sinh, đặc biệt hạn chế tỷ lệ sinh con thứ ba trong những năm
gần đây
Thứ hai, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ sinh sản, bảo vệ bà mẹ trẻ em
Thứ ba, thực hiện tốt việc tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt hạn chế tỷ
lệ nạo phá thai nhất là tuổi vị thành niên
Thứ tư, nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực
2.3.2.Xuất khẩu lao động
Xuất khẩu lao động (XKLĐ) là một giải pháp quan trọng trong quá trình triển khai
thực hiện chương trình mục tiêu giải quyết việc làm và giảm nghèo bền vững.

Để tiếp tục đẩy mạnh công tác XKLĐ năm 2012 và hoàn thành tốt chỉ tiêu XKLĐ
của Việt Nam hàng năm, góp phần thực hiện có hiệu quả Chương trình giải quyết việc
làm - Giảm nghèo bền vững trong những năm tiếp theo, cần tập trung thực hiện một số
biện pháp sau đây:
+ Nhà nước cần phải có những chính sách nhất quán, quản lý chặt chẽ mọi hình
thức xuất khẩu lao động, bảo vệ quyền lợi hợp pháp và nâng cao uy tín của người lao
động Việt Nam trên trường quốc tế. Đầu tư đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng
lực cán bộ quản lý nhà nước để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý và mở rộng thị trường
trong tình hình mới. Tổ chức chặt chẽ lực lượng lao động trước khi đưa đi, đồng thời phải
tăng cường quản lý và xử lý kịp thời các vướng mắc, tranh chấp lao động trong quá trình
người lao động làm việc ở nước ngoài, đảm bảo quyền lợi cho người lao động khi tham
gia xuất khẩu lao động.
+ Sở Lao động-TBXH cần tham mưu triển khai thực hiện tốt những chính sách
khuyến khích xuất khẩu lao động, để mọi đơn vị, cá nhân được thụ hưởng chính sách kịp
thời và chính xác. Tích cực thực hiện thí điểm, cho phép một số doanh nghiệp tư nhân
được hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia trong khuôn khổ của pháp luật, dưới sự
quản lý chặt chẽ của Nhà nước, nhằm đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia xuất
khẩu lao động và chuyên gia.
+ Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách
của Đảng, Nhà nước về hoạt động xuất khẩu lao động; giúp người dân nâng cao nhận
thức, nắm rõ thông tin về thị trường lao động ngoài nước, số doanh nghiệp có đủ pháp
nhân và đựơc phép tuyển dụng lao động xuất khẩu hoạt động, ngăn ngừa các hành vi vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực XKLĐ và phòng tránh thiệt hại cho người dân lao động.
+ Các tổ chức và công ty cần tiếp tục đẩy mạnh phát triển mô hình liên kết với
nhau trong việc xuất khẩu lao động. Tổ chức các đợt tư vấn XKLĐ và tuyên truyền phổ
biến sâu rộng cho mọi người lao động, công tác tư vấn XKLĐ cần được tập trung vào
những nước hiện nay được người lao động đánh giá cao (như : Đông Âu, Nga, Nhật, Hàn
Quốc …). Quan tâm tuyển chọn, cung ứng nguồn lao động có chất lượng Các doanh
nghiệp XKLĐ được giới thiệu tuyển tập trung làm tốt công tác giáo dục định hướng, dạy
nghề, ngoại ngữ và giải quyết kịp thời các vướng mắc, rủi ro (nếu có) trong quá trình

thực hiện hợp đồng đưa lao động đi làm việc ngoài nước.
+ Về công tác vay vốn đi XKLĐ, Ngân hàng chính sách xã hội chuẩn bị đủ vốn
vay cho số lao động khi có hợp đồng đi làm việc nước ngoài, đồng thời thông báo rộng
rãi, phổ biến rõ các thủ tục cho người lao động được vay vốn XKLĐ được thuận tiện.
Ban hành chính sách tín dụng hỗ trợ đặc biệt cho người nghèo đi lao động xuất khẩu. Nhà
nước phải có cơ chế cho vay với mức lãi suất thấp, hoặc bảo lãnh của cơ quan, chính
quyền địa phương, tổ chức chính trị xã hội cho người nghèo vay vốn để họ trang trải
những chi phí ban đầu.
+ Các ngành chức năng có liên quan đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra các
doanh nghiệp làm công tác XKLĐ, các cơ sở giới thiệu việc làm, tăng cường trách nhiệm
quản lý nhà nước trên từng địa bàn, kiên quyết loại trừ các doanh nghiệp, cá nhân không
đủ điều kiện, thiếu thủ tục pháp nhân hoạt động giới thiệu việc làm và XKLĐ.
+ Đối với người lao động: Tự chủ động tìm kiếm, liên hệ với cơ sở xuất khẩu lao
động tin cậy, chủ động đầu tư, nâng cao nhận thức và ý thức tự giác, tinh thần trách
nhiệm để có trình độ tay nghề, ngoại ngữ phù hợp với yêu cầu, tìm hiểu pháp luật, chuẩn
bị các điều kiện cần và đủ cho mình để tham gia xuất khẩu lao động một cách có hiệu
quả. Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, các quy định của Việt Nam và của các nước đến
làm việc. Chấp hành tốt kỷ luật lao động và thực hiện tốt hợp đồng lao động đối với
doanh nghiệp. Không bỏ trốn, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ, góp phần
nâng cao uy tín giữa lao động Việt Nam với thị trường quốc tế.
+ Đối với Đơn vị xuất khẩu: Công tác tổ chức đào tạo nguồn lao động và chuyên
gia được coi là yếu tố quyết định ảnh hưởng tới uy tín, chất lượng lao động và các mối
quan hệ hợp tác trước mắt và lâu dài giữa Việt Nam và thị trường lao động quốc tế. Nếu
VN không tổ chức thực hiện tốt công tác này, người lao động sẽ không có đủ khả năng,
trình độ để đáp ứng được yêu cầu của người chủ sử dụng lao động và như vậy, điều tất
yếu sẽ xảy ra là người lao động không hoàn thành được nhiệm vụ và hợp đồng, gây thiệt
hại đến lợi ích và quyền lợi giữa các bên, đặc biệt là ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, lợi
ích của chính doanh nghiệp mình và chiến lược xuất khẩu lao động trước mắt cũng như
lâu dài của Nhà nước, do đó cần phải tiếp tục và quan tâm hơn nữa đến công tác này.
2.3.3.Sử dụng công nghệ hợp lý.

Thị trường lao động ở nước ta hiện nay trong ngành công nghiệp đang ở tình trạng
thừa cung lao động trong khi thiếu cầu lao động. Cung lao động tuy nhiều về số lượng
nhưng lại kém về chất lượng. Do đó để thị trường lao động cân bằng cần tăng cầu lao
động và nâng cao chất lượng lao động.
Vấn đề này được đánh giá qua yếu tố công nghệ, chúng ta phải sử dụng hợp lý
chính sách phát triển công nghệ và chuyển giao công nghệ hợp lý như: không nên đầu tư
quá nhiều vào công nghệ khiến cho trình độ lao động không đuổi kịp được công nghệ dẫn
đến tình trạng sử dụng công nghệ thiếu hiệu quả.
Mặt khác đối với một nước đang phát triển như Việt Nam thì 2 yếu tố Vốn và Lao
động vẫn là động lực chính cho phát triển kinh tế và tạo ra tăng trưởng ở mức độ cao.Nên
việc sử dụng hợp lý 2 yếu tố vốn và lao động nên được ưu tiên hơn như việc đầu tư vào
những ngành nghề sử dụng nhiều lao động như giầy dép, dệt may, chế biến thủy hải
sản…đển thu hút lao động.Tuy nhiên không phải như thế thì chúng ta bảo qua yếu tố
công nghệ, mà chúng ta phải biết chuyển giao những công nghệ hợp lý với những giai
đoạn phù hợp với trình độ phát triển của đất nước
Tăng cầu lao động bằng cách:
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển sản xuất . Do đặc điểm lao động ở Việt
Nam chủ yếu là lao động phổ thông tay nghề thấp nên để giải quyết vấn đề này nên
khuyến khích loại hình đầu tư gia công ví dụ như may mặc, da giầy, … Công nghệ sử
dụng không quá phức tạp nhưng lại giải quyết được một lượng lớn lao động.
+ Tích cực chuyên giao công nghệ tiên tiến, mang những công nghệ này về Viết
Nam. Để phát triển công nghiệp chúng ta cần nhận chuyển giao rất nhiều về công nghệ
để tăng năng suất lao động, mở rộng sản xuất từ đó lại tạo ra việc làm cho người lao
động.
+ Đầu tư phát triển công nghệ về những vùng kinh tế kém phát triển để tận dụng
lực lượng lao động thừa ở những vùng này và qua đó, giảm lượng lao động đang quá tải
cho các thành phố lớn.
Nâng cao chất lượng lao đông:
+ Chú trọng công tác đào tạo nhân lực. Đặc biệt phát triển nhân lực cho các ngành
công nghiệp dệt may, chế tác.

+ Cử cán bộ đi sang các nước tiên tiến để tiếp thu khoa học kỹ thuật sản xuất của
họ và đồng thời mời các cán bộ ở nước ngoài về đào tạo tư vấn cho Việt Nam.
+ Chính sách đãi ngộ , lương thưởng hợp lý để thu hút được nguồn lao động có
chất lượng.
2.3.4.Di dân, khai hoang thành lập khu kinh tế mới.
Di dân là vấn đề có tính quy luật chung, cũng giống như chính quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các quốc gia. Di dân lao động là một đòi hỏi khách quan trong
nền kinh tế thị trường, là biểu hiện rõ nét nhất của sự phát triển không đồng đều giữa các
khu vực, vùng miền lãnh thổ.
* Tác động của di dân đến nguồn lao động
Mục đích và động cơ của người di dân chủ yếu là để tìm kiếm công việc làm có
thu nhập cao.Vì vậy, những người di chuyển đa phần đều là dân cư trong tuổi lao động và
phần đông trong số họ là nam giới khỏe mạnh có trình độ học vấn, có nghề nghiệp và
trình độ chuyên môn cao. Do vậy, ở nơi có người đi quy mô, cơ cấu, phân bố và chất
lượng nguồn nhân lực giảm xuống, cơ cấu lao động thay dổi theo hướng giảm tỷ lệ lao
động trẻ. Ngược lại, vùng nhập cư nguồn lao động sẽ được gia tăng về quy mô và cơ cấu,
chất lượng nguồn nhân lực cũng được cải thiện hơn.
* Một số đề xuất chính sách, giải pháp đề ra.
1. Lựa chọn mô hình tăng trưởng kinh tế phù hợp là một trong những ưu tiên hang
đầu hướng về cầu lao động trong công nghiệp. Chiến lược phát triển sử dụng nhiều lao
động, lựa chọn phát triển các ngành kinh tế hiện đại kết hợp với duy trì và phát triển các
ngành kinh tế truyền thống, lợi thế trong xuất khẩu của Việt Nam, là một số hướng đi
được đánh giá là hiệu quả và hợp thời.
2. Chính sách đào tạo nghề và các chính sách thị trường lao động để nâng cao hiệu
quả của thị trường lao động.
3. Tương quan lao động và vốn trong sản lượng phụ thuộc vào hàm sản xuất và giá
cả, do đó cần có các chính sách tài chính hạn chế tăng dung lượng vốn và giá cả, do đó
cần có các chính sách tài chính hạn chế tăng dung lượng vốn và sử dụng công nghệ đắt
không thích hợp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
4. Bài học kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy di dân lao động sẽ

diễn ra với quy mô ngày càng lớn trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Nhiều quốc gia đã phải trả giá do thiếu quan tâm đến quá trình này. Mặc dù ảnh
hưởng về tâm lý-xã hội đối với gia đình và bản thân người di cư là không thể tránh khỏi
song trước sự hối thúc của cuộc sống và nhu cầu mưu sinh, người dân vẫn chấp nhận vất
vả, bất kể những rào cản và khó khăn để dời quê hương đi làm ăn xa. Các chính sách và
chiến lược cần có tầm nhìn xa hơn và toàn diện hơn, cần gắn với xu hướng di dân và di
chuyển lao động, tiến tới ổn định đời sống cho người lao động, giảm thiểu những khó
khăn và rủi ro mà người lao động di cư phải gánh chịu, thay vì can thiệp trực tiếp hay
tìm cách kiểm soát quá trình khách quan này.
5. Hỗ trợ về an sinh xã hội cho lao động nhập cư là khâu then chốt đối với mục
tiêu phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Các doanh nghiệp cần cho phép người lao
động nhập cư tham gia các chế độ hợp đồng và bảo hiểm cho người lao động theo quy
định hiện hành. Trước mắt, sự hỗ trợ về nhà ở, phát triển loại hình ký túc xá rẻ cho công
nhân và người lao động nhập cư, đặc biệt là các khu công nghiệp và thành phố lớn là rất
cần thiết. Phải coi chính sách nhà ở là chính sách an sinh xã hội.
Xây d9ng các vùng kinh tế mới là là một chính sách của Chính phủ Việt Nam
nhằm tổ chức, phân bố lại lao động và dân cư trong cả nước, chuyển một khối lượng lớn
dân cư từ các vùng đồng bằng và thành phố tới các vùng trung du, miền núi, biên giới,
hải đảo. Chính sách này được triển khai tại miền Bắc Việt Nam từ năm 1961 và trên toàn
quốc từ sau khi đất nước thống nhất cho đến tận năm 1998. Trong 27 năm, Việt Nam đã
di chuyển có tổ chức được 1.368.691 hộ, trong đó di cư trong nội bộ tỉnh là 702.761 hộ
với 3 342.253 người, từ tỉnh này sang tỉnh khác là 665.930 hộ với 2.809.373 người
2.3.5.Phát triển cơ sở h: tầng
Phát triển cơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển công nghiệp là
một giải pháp lâu dài và có hiệu quả rất lớn trong việc tạo việc làm giảm thất nghiệp.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng hiện nay tại các thành thị thì cung lao động công nghiệp
đang có hiện tượng thừa rất nhiều và có xu hướng gia tăng.Chính vì thế cần phải có chính
sách phát triển cơ sở hạ tầng hiệu quả tại các vùng nông thôn và miền núi nhằm xây dựng
các khu công nghiệp tại đây.Từ đó thu hút lao động tại các thành thị trở về và giải quyết
việc làm tại khu vực tránh hiện tượng lao động di chuyển về thành thị nhiều tạo thành

mất cân đối thị trường lao động. Bên cạnh việc phát triển cơ sở hạ tầng tại đây, chúng ta
cần có những chính sách phát triển như:
- Phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Đó là các biện pháp nhằm phát triển sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
dịch vụ ở nông thôn, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập khắc phục hiện tượng nâng
dân do tình thời vụ của nông nghiệp, do diện tích canh tác thấp, năng suất thấp. Nếu thực
hiện tốt các biện pháp có liên quan trước hết là yếu rố tiêu thụ sản phẩm và giống cây
con, đào tạo nghề cho người lao động… ở nông thốn sẽ có cơ cấu kinh tế thay đổi, tăng
đáng kể giá trị sản lượng nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại,
dịch vụ, nâng đời sống vật chất cho người lao động.
Cùng với biện pháp phát triển kinh tế là biện pháp phát triển xã hội như: y tế, văn
hoá, giáo dục, vệ sinh môi trường, sử dụng nguồn nước sạch và sản xuất theo yêu cầu an
toàn vệ sinh thực phẩm.cũng sẽ thu hút nhiều lao động góp phần nâng cao chất lượng
cuộc sống, ổn định xã hội, giảm gia tăng dân số và nguồn lao động, giảm hiện tượng dân
nông nghiệp, nông thôn ra thành phố, khu công nghiệp tìm việc làm một cách tự phát.
- Huy động các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ ở thành thị.
Với xu thế của mình, các doanh nghiệp Nhà nước sẽ phát triển theo chiều rộng và
chiều sâu, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh , phát huy lại thế cạnh tranh sử dụng
nhiều lao động có khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước về xuất khẩu của các ngành
công nghiệp, xây dựng, giao thông, dịch vụ, du lịch
Kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác cơ sự giúp đỡ và quản lý của Nhà
nước, căn cứ vào nhu cầu sản xuất, tiêu dùng tại chỗ và xuất khẩu, với khả năng về vốn,
trình độ quản lý và kỹ thuật có thể phát triển các doanh nghiệp vừa và thuộc các ngành
công nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục, y tế.
KẾT LUẬN
Vai trò lao động là cực kỳ quan trọng trong phát triển kinh tế. Vấn đề ở đây là
muốn phát huy vai trò của lao động cần phải giải quyết việc làm nâng cao chất lượng lao
động là một bộ phận quan trọng của phát triển nguồm nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia. Điều này có ý nghĩa hơn khi toàn nhân loại đang
chuẩn bị bước vào thiên niên kỷ mới với lực lượng khoa học phát triển, chưa thấy trong

lịch sử loài người. Việc phân tích cung nguồn nhân lực sẽ cho phép xây dựng các kế
hoạch phát triển kinh tế cho xã hội một cách đúng mức. Trong bối cảnh hiện nay cần phải
phát huy vai trò lao động, phải có chiến lược giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu công
nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, góp phần đưa nước ta có một vị thế mới, lợi thế mới
trên trường quốc tế, trong thế kỷ mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Kinh tế nguồn nhân lực
2. Giáo trình dự báo phát triển kinh tế xã hội
3. Giáo trình kinh tế lao động
4. Văn kiện ĐH Đại biểu toàn lần thứ X
5. Tạp chí kinh tế phát triển
6. Tạp chí lao động và xã hội
7. Tạp chí thị trường lao động
8. Niên giám thống kê 2011

×