Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC Trang
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..1
NỘI DUNG………………………………………………………………………………..3
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH………...3
I. TỔNG QUAN VỀ BHXH …………………………………………………………… .3
1. Khái niệm BHXH…………………………………………………………………...3
2. Bản chất của BHXH………………………………………………………………...4
3. Đối tượng và chức năng của BHXH………………………………………………. .5
4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH… .. .7…………………………………………………
5. Hệ thống các chế độ BHXH………………………………………………………...8
II. LÝ LUÂN CHUNG VỀ QUỸ BHXH ……………………………………………… .9
1. Khái niệm quỹ BHXH……………………………………………………………....9
2. Đặc trưng của quỹ BHXH…………………………………………………………10
3. Vai trò của quỹ BHXH…………………………………………………………….12
4. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH…………………………………………14
5. Mô hình quỹ BHXH……………………………………………………………….17
6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH……………………………………………...18
7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH………………………………………………..20
III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH …………………………………………………..21
1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH …………………………………..21
2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH…………………………………………………..22
3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH……………………………………………..23
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH………………………….25
5. Sử dụng vốn đầu tư từ quỹ BHXH………………………………………………..26
6. Đánh giá hiệu quả đầu tư quỹ BHXH……………………………………………. 30
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TĂNG
TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA……………………. 33
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BHXH VIỆT NAM…………………………………….. 33
1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của BHXH Việt Nam………….. 33
2. Chức năng và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam……………………………………35
3. Hệ thống tổ chức của Bảo hiểm xã hội Việt Nam……… .. 37…………………………
II. THỰC TRẠNG QUỸ BHXH VIỆT NAM…………………………………………40
1. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ trước năm 1995……………………………...40
2. Quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn từ năm 1995 đến nay……………………………43
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3. Quỹ BHXH Việt Nam và nguy cơ mất cân đối quỹ……………………………….54
III. THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM………………... 57
1. Các quy định pháp lý……………………………………………………………....57
2. Thực trạng hoạt động đầu tư quỹ BHXH………………………………… ..58 ………
3. Kinh nghiệm đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH ở một số nước và một số trung gian tài
chính khác………………………………………………………………………...64
CHƯƠNG III : GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU
TƯ TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH VIỆT NAM…………………………………….70
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN BHXH VIỆT NAM…………..70
1. Mục tiêu phát triển BHXH Việt Nam …………………………………………….70
2. Phương hướng phát triển BHXH của Đảng và Nhà nước………………………....71
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
VIỆT NAM……………………………………………………………………………....72
1. Đầu tư quỹ BHXH phải đứng trên lợi ích của người lao động, của Nhà nước và của
xã hội…………………………………………………………………………… …..72
2. Đầu tư vào các tài sản tài chính là chiến lược lâu dài và quan trọng nhất trong hoạt động đầu
tư quỹ BHXH……………………………………………………………………………….73
3. Tham gia vào thị trường chứng khoán……………………………………………..74
III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH VIỆT NAM……....75
1. Giải pháp nâng cao hiệu quả tạo lập nguồn vốn…………………………………...75
2. Giải pháp tổ chức quản lý nguồn vốn đầu tư……………………………………....79
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH ………………………………….79
VI. ĐIỀU KIỆN CHO VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH ……...81
1. Về phía Nhà nước………………………………………………………………….81
2. Về phía Bảo hiểm xã hội Việt Nam………………………………………………..82
KẾT LUẬN………………………………………………………………………………84
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trên thế giới, BHXH đã xuất hiện cách đây hàng trăm năm. Ngày nay, BHXH đã
trở thành một công cụ bảo vệ hữu hiệu mang tính nhân văn sâu sắc, giúp con người vượt
qua được những khó khăn rủi ro phát sinh trong cuộc sống và trong quá trình lao động như:
ốm đau, chăm sóc y tế, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, tuổi
già…Vì thế BHXH ngày càng trở thành nền tảng cơ bản cho ASXH của mỗi quốc gia và
được thực hiện ở hầu hết các nước trên thế giới.
Ở Việt Nam, từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay,
Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến đời sống cán bộ, công nhân viên cũng như toàn dân;
cụ thể là luôn quan tâm đến phát triển chế độ chính sách BHXH, trong đó vấn đề đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH ngày càng được quan tâm đặc biệt.
Kể từ năm 1995 đến nay, số dư quỹ BHXH liên tục tăng; nhưng nếu xét trong
trạng thái “động”, cân đối trong thời gian dài khoản 50 năm thì nguy cơ mất cân đối
quỹ BHXH đã được các nhà hoạch định chính sách và quản lý BHXH dự báo: Nếu
tính toán theo như chế độ hiện hành thì khoảng năm 2020 thu sẽ cân đối chi, sau đó
quỹ giảm dần và đến năm 2030 thì quỹ BHXH sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất khả
năng chi trả.
Để khắc phục tình trạng thiếu hụt của quỹ xảy ra trong tương lai, tăng tiềm lực tài
chính cho quỹ và để giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN, thì việc đẩy mạnh hiệu quả đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH là giải pháp quan trọng và cần thiết.
Xuất phát từ yêu cầu trên và khắc phục những thiếu hụt quỹ, em đã chọn đề tài:
“Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ Bảo hiểm xã hội
Việt Nam trong thời gian tới”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót,
nên em rất mong được sự góp ý đánh giá quý báu của các thầy cô để giúp em nhận thức
sâu sắc hơn về vấn đề này.
Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được rất nhiều sụ giúp đỡ tận tình của
giáo viên hướng dẫn, của các cán bộ đang làm việc tại BHXH Việt Nam nói chung và tại
Ban Kế hoạch - Tài chính nói riêng. Qua đây cho phép em gủi lời cảm ơn đến Thạc sỹ
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nguyễn Ngọc Hương và các cô chú anh chị đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong suốt
quá trình thực tập tốt nghiệp, hoàn thiện chuyên đề này
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh sách tài liệu tham khảo, nội dung chính của
chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương I: Cơ sở lý luận về quỹ BHXH và đầu tư quỹ BHXH
- Chương II: Thực trạng hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Việt Nam trong thời gian qua
- Chương III: Giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ
BHXH Việt Nam
Hà nội, tháng 4 năm 2007
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Huyền Thu
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUỸ BHXH VÀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
I. TỔNG QUAN VỀ BHXH
1. Khái niệm BHXH
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại…Để thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần
thiết. Khi sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ
và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn những nhu cầu
sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ.
Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu
nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn
bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các
điều kiện sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đâu hay bị tai nạn lao động, mất việc làm
hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm…Khi rơi và những
trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có
cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: Cần được khám
chữa bệnh và điều trị ốm đâu, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc nuôi
dưỡng…Bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội loài người phải
tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau
trong nội bộ cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước…Rõ ràng,
những cách đó hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế phát triển thì quan hệ thuê mướn cũng ngày càng phổ biến và quan
hệ chủ thợ cũng hình thành. Để đảm bảo lợi ích của người lao động Chính phủ đã xây
dựng lên một quỹ chung do Chính phủ đứng ra tổ chức và yêu cầu:
- Giới chủ phải trích từ phần lợi nhuận thu được một khoản tiền nhất định để đóng
góp vào quỹ này;
- Giới thợ phải trích từ tiền công, tiên lương hàng tháng một khoản nhỏ để nộp vào
quỹ này;
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chính phủ hứa sẽ bảo trợ cho quỹ và thậm chí bù thiếu cho quỹ.
Quỹ này được sử dụng với mục đích để phân phối lại cho những người lao động
không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động…Mối quan hệ ràng buộc như vậy được
thế giới gọi là BHXH đối với người lao động.
Cho đến nay vẫn chưa có được một khái niệm chính thống về BHXH. Trong đề tài
này chỉ xin đưa ra hai khái niệm khá phổ biến về BHXH:
- “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao
động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”.
- “BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một
loạt các biệm pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm của chính phủ ) để chống lại
tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm
đau, mất khả năng lao động, tuổi già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho
việc chăm sóc y tế, sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết”. Đây là khái niệm
về BHXH của tổ chức lao động quốc tế ILO, phản ánh một các tổng quát về mục tiêu, bản
chất và chức năng của BHXH đối với mỗi quốc gia. Mục tiêu cuối của BHXH là hướng tới
sự phát triển của mỗi cá nhân và toàn xã hội, thể hiện sự gắn kết quyền lợi và trách nhiệm
của mỗi cá nhân trong cộng đồng và của toàn xã hội đối với mỗi người.
2. Bản chất của BHXH
Cùng với quá trình phát triển, tiến bộ của loài người, BHXH được coi là một chính
sách xã hội quan trọng của bất kì Nhà nước nào, nhằm bảo đảm an toàn cho sản xuất, cho
đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người trong xã hội. Với cách hiểu như vậy, bản chất
của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội
mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động
phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn
thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng
thái kinh tế của mỗi nước.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và
diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia
BHXH có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bên BHXH (bên nhận nhiệm vụ BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà
nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đủ các
điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH
có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: Ốm đau, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp…Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không
hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản…Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra
cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến
cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại.
Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ
trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ
chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá :
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu
sinh sống thiết yếu của họ;
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật;
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt
của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và
được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận.
3. Đối tượng và chức năng của BHXH
3.1. Đối tượng của BHXH
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng
hoá đã bắt đầu phát triển mạnh ở các nước châu Âu. Tuy ra đời lâu như vậy, nhưng đối
tượng của BHXH vẫn có nhiều điểm chưa thống nhất, đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối
tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người
lao động bị giảm hoặc bị mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm
đau, tai nạn, già yếu…Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy
nhiên, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nứoc mà đối tượng này có thể
là tất cả hoặc một bộ phận những người lao động nào đó.
3.2. Chức năng của BHXH
Với đối tượng nói trên, BHXH có những chức năng chủ yếu sau:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là
chức năng cơ bản nhất, nó liên quan đến toàn bộ hoạt động BHXH nói chung. Sở dĩ như
vậy vì:
+ Nó góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ từ một nguồn
thu nhập khác là BHXH;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây liên quan đến toàn bộ quá trình lao động và
người lao động, quá trình này thể hiện chủ yếu ở tiền lương tiền công;
+ Việc thay thế hoặc bù đắp ở đây lại phụ thuộc chủ yếu ở quỹ BHXH.
- Phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Chức
năng này góp phần trực tiếp đảm bảo tính công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất để từ đó
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động - người sử dụng lao động - xã hội. Sở dĩ như
vậy là vì:
+ Cả ba bên đều thấy mình có lợi;
+ Chính sách BHXH ra đời góp phần thực hiện an sinh xã hội không chỉ trong phạm
vi quốc gia mà trong phạm vi quốc tế.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4. Những nguyên tắc cơ bản của BHXH
BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Điều này cũng có
nghĩa là khó có thể có những nguyên tắc chung thống nhất áp dụng cho mọi thời kỳ, mọi
quốc gia. Tuy nhiên BHXH cũng có những nguyên tắc hoạt động cơ bản:
- Nguyên tắc: “Số đông bù số ít”.
Đây là nguyên tắc bất di bất dịch của BHXH nói riêng và của bảo hiểm nói chung.
Nó được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù và chi trả bảo hiểm.
- Nguyên tắc: “Đảm bảo mọi thành viên trong xã hội đều có quyền tham gia và
được hưởng quyền lợi từ BHXH”;
BHXH là một trong những quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa
nhận và ghi trong tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với
tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự
thoả mãn các quyền về kinh tế,xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát
triển của con người”.
- Nguyên tắc: “ BHXH vừa mang tính bắt buộc, vừa mang tính tự nguyện”;
BHXH bắt buộc là cơ sở để tiến tới thực hiện BHXH toàn dân và tiến tới xây dựng
hệ thống chế độ BHXH tối ưu nhất. Tính bắt buộc được thực hiện trong các nghĩa vụ tham
gia và nghĩa vụ đóng góp, gồm mức đóng góp về tiền và thời gian cần thiết của việc tham
gia đối với từng chế độ BHXH cụ thể. Hơn nữa, tính bắt buộc này được thể hiện hoá ở hầu
hết các nước dưới hình thức các chính sách, chế độ BHXH, cụ thể là những quy định của
Chính phủ hay luật BHXH.
Tính tự nguyện trong BHXH chính là việc cho phép người lao động tham gia
BHXH có quyền lựa chọn hình thức và chế độ tham gia cho phù hợp với nhu cầu và khả
năng của bản thân.
- Nguyên tắc: “ Đảm bảo tính công bằng trong xã hội”;
Tính công bằng trong BHXH gồm công bằng trong cơ hội tham gia BHXH, trong tỷ
lệ hợp lý giữa mức đóng và mức hưởng, tất cả nhằm mục đích chủ yếu vì lợi ích của số
đông cộng đồng. Mặc dù vậy, tính công bằng tuyệt đối là không thể có vì BHXH còn hoạt
động theo một nguyên tắc chung của bảo hiểm đó là nguyên tắc: “Số đông bù số ít”.
- Nguyên tắc: “ Xác định mức đóng và hưởng hợp lý”;
Đóng và hưởng phải hợp lý thì chính sách BHXH đó mới đảm bảo được tính công
bằng. Mặt khác, sự hợp lý này còn ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng người tham gia thực
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tế, quyết định sự thành công của chính sách BHXH đối với mỗi quốc gia; có như vậy
người lao động mới tự giác đóng góp vào quỹ BHXH theo quy định.
- Nguyên tắc: “ BHXH phải đảm bảo chi trả bù đắp được thu nhập cho người lao
động để họ có thể duy trì được cuộc sống ở mức tối thiểu khi họ bị mất sức lao động tạm
thời cũng như nghỉ hưu”.
5. Hệ thống các chế độ BHXH
Chính sách BHXH là một trong những chính sách cơ bản nhất của mỗi quốc gia,
thường được Nhà nước luật hoá căn cứ vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia trong
mỗi thời kỳ cũng như đặc điểm của nguồn lao động xã hội và việc phân ngành kinh tế xã
hội…Còn chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH của mỗi nước; cụ thể hoá mục
đích của từng chế độ, đối tượng hưởng, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng
trợ cấp BHXH.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1919), tổ chức lao động quốc tế được thành
lập ( viết tắt là ILO). Sự kiện này đã góp một phần rất quan trọng trong việc phát triển
chính sách BHXH. Năm 1952, ILO có khuyến cáo các nước trên thế giới tham gia công
ước 102 (Tháng 6 năm 1952 tại Giơne vơ - Thụy Sỹ). Tại công ước này, hệ thống các chế
độ BHXH bao gồm 9 chế độ:
1. Chăm sóc y tế
2. Trợ cấp ốm đau
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tuổi già
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp sinh đẻ
8. Trợ cấp tàn tật
9. Trợ cấp tiền tuất
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế
- xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ
khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong
năm chế độ: (3); (4); (5); (8); (9).
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp các nước;
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính;
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham
gia BHXH và quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi
trả sẽ cao và ổn định;
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ;
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh toán. Chi trả BHXH
như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH;
+ Các chế độ BHXH thường được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết sự thay đổi
của điều kiện kinh tế - xã hội.
Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng
đều phải dựa vào những cơ sở như: Cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập
của người lao động, hệ thống tài chính của quốc gia…Đồng thời tùy từng chế độ khi xây
dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: Tuổi thọ bình quân của
người lao động, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tai nạn lao động và tử vong, độ tuổi sinh đẻ
của lao động nữ, môi trường lao động…
II. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUỸ BHXH
1. Khái niệm quỹ BHXH
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ
có mục đích và chủ thể riêng. Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người
lao động, giúp họ ổn định cuộc sống khi gặp những biến cố hoặc rủi ro. Chủ thể của quỹ
BHXH chính là những người tham gia đóng góp để hình thành nên quỹ, do đó có thể bao
gồm cả: Người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có nhiều điểm tương đồng trong quá trình tạo
lập và sử dụng. Hoạt động của NSNN và quỹ BHXH đều không nhằm mục đích kiếm lời.
Quá trình hình thành và sử dụng của mỗi loại đều được biểu hiện dưới hình thức giái trị
(tiền tệ). Việc thu - chi ngân sách và quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật và cơ
chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối nguồn thu và chi …
Tuy nhiên, giữa NSNN và quỹ BHXH có những điểm khác nhau cơ bản. NSNN ra
đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước và thực
hiện chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước càng lớn, chức năng và
nhiệm vụ càng mở rộng thì thu chi ngân sách càng lớn. Quan hệ phân phối của nhà nước
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mang tính pháp lý rất cao và dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Quan hệ
phân phối này chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh lợi ích
xã hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân nhằm đảm
bảo cho nền kinh tế - xã hội được phát triển ổn định. Trong khi đó, quỹ BHXH ra đời, tồn
tại và phát triển với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá, các quan hệ thuê mướn nhân
công. Mặc dù thu - chi BHXH đều được Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật,
nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên
tắc có tham gia thì mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH
có tính chất pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết phản ánh lợi ích của các
bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa
mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan
trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.
2. Đặc trưng của quỹ BHXH
Mặc dù là một quỹ tài chính nhưng phục vụ cho mục tiêu xã hội, vì vậy quỹ BHXH
có những nét đặc trưng riêng khác với những loại quỹ tài chính khác.Cụ thể:
- Việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận
Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của người lao
động,người sử dụng lao động, Nhà nước trong một số trường hợp và các nguồn thu hợp
pháp khác để có một lượng tiền đủ lớn, đảm bảo đủ chi trả các trợ cấp BHXH cho các
trường hợp bị giảm hoặc bị mất hẳn các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động do gặp
phải những sự kiện hoặc những “rủi ro xã hội” đã nêu và những chi phí cho hoạt động
thường xuyên của bộ máy BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong kết cấu phí
BHXH không tính phần lợi nhuận của bên bảo hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng phí
BHXH chỉ bao gồm phí thuần và phụ phí (bao gồm quản lý phí và phí dự phòng - nếu có).
Trong quá trình sử dụng quỹ, các chi phí chi trả trợ cấp BHXH chiếm phần lớn trong tổng
chi, phần chi quản lý thường chỉ chiếm tỷ lệ rất thấp và những chi phí này là những chi phí
thực sự cần thiết đảm bảo cho cả hệ thống hoạt động bình thường.
- Quỹ BHXH vừa có tính chất hoàn trả vừa có tính chất không hoàn trả:
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ: người lao động vừa là đối tượng tham gia và đóng góp
BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng nhận trợ cấp, được chi trả từ quỹ BHXH cho dù
chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi người khác nhau tuỳ thuộc vào những
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
biến cố, rủi ro mà họ phải gặp, cũng như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của
họ.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH, nhưng có
người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau, nhưng có những người
được ít lần hơn thậm chí không được hưởng. Chính từ đặc điểm này nên một số đối tượng
được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và
ngược lại. Điều đó thể hiện tính chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
- Quỹ BHXH có quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn về tài
chính. Đặc trưng này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo an toàn
về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự bảo vệ mình trước
nguy cơ mất an toàn về tài chính. Nhiều nhà kinh tế cho rằng: Quỹ BHXH là “của để
giành” của người lao động phòng khi ốm đau tai nạn, tuổi già… Nguồn quỹ này được đóng
góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét tại một thời điểm cụ thể nào
đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai.
Lượng tiền này có thể biến động tăng cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá
trị do yếu tố lạm phát. Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu
cầu mang tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
- Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH.
Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính doanh nghiệp
hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, mỗi khâu tài chính được tạo lập, sử
dụng cho một mục đích riêng và gắn với một chủ thể nhất định. Vì vậy, chúng luôn độc lập
với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh
nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
- Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế-xã hội của mỗi quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ nhất định của đất nước.
Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện thực hiện đầy đủ các chế độ
BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với người lao động càng được nâng cao. Đồng
thời khi kinh tế - xã hội ngày càng phát triển người lao động và người sử dụng lao động sẽ
có thu nhập cao hơn, do đó họ càng có điều kiện tham gia và đóng góp BHXH…
3. Vai trò của quỹ BHXH
- Vai trò đối với bản thân hệ thống BHXH
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quỹ BHXH được coi là “xương sống” của hệ thống BHXH. Hệ thống BHXH có ổn
định và phát triển được hay không phụ thuộc vào sự hoạt động của quỹ BHXH. Quỹ
BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia
bảo hiểm bao gồm: người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước; trong một số
trường hợp còn có các nguồn thu khác được dùng để chi trả cho những trường hợp được
hưởng trợ cấp BHXH theo quy định của pháp luật về BHXH và chi phí cho các hoạt động
nghiệp vụ BHXH. Như vậy, vai trò của quỹ BHXH được thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, đối với người lao động: người lao động khi tham gia BHXH, nếu gặp
những biến cố hay những “rủi ro xã hội” như thai sản, ốm đau, tai nạn lao động, thất
nghiệp …, thông qua hệ thống trợ cấp BHXH được nhận những khoản tiền bảo hiểm để
trang trải cho những chi phí do những biến cố hoặc rủi ro xã hội này gây ra. Ở đây, quỹ
BHXH có vai trò rất lớn là bù đắp hỗ trợ cho những thiếu hụt về thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất thu
nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao động do những biến cố
hoặc “rủi ro xã hội” nêu trên. Nói cách khác¸quỹ BHXH giữ vai trò góp phần đảm bảo an
toàn cho người lao động và gia đình họ. Tuy nhiên, mức độ đảm bảo thu nhập đến đâu và
được thực hiện như thế nào phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ BHXH và phụ
thuộc vào chính sách BHXH của quốc gia trong mỗi thời kỳ, trên cơ sở nguyên tắc trợ cấp
BHXH không được cao hơn so với tiền lương thu nhập từng nghề nghiệp trước khi nghỉ
hưởng trợ cấp BHXH, nhưng không được thấp hơn tiền lương tối thiểu do nhà nước quy
định. Nếu như quỹ BHXH thu được nhiều (thu đúng, thu đủ và đầu tư tăng trưởng tốt) và
số người bị rủi ro ít (số người thụ hưởng ít) thì mức độ đáp ứng của quỹ BHXH cao hơn.
Ngược lại, nếu như nguồn thu của quỹ thấp (thu không được đủ, đầu tư tăng trưởng quỹ
kém…)và số người bị rủi ro nhiều… thì mức độ đáp ứng của quỹ sẽ bị thấp đi. Tuy nhiên
như đã nêu ở trên, quỹ BHXH không chỉ là một quỹ xã hội, nên dù muốn hay không, trợ
cấp BHXH cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định cho người lao động. Đây là vai trò nổi
trội, hơn hẳn của quỹ BHXH so với các loại quỹ tài chính khác.
Thứ hai, đối với hệ thống BHXH: Để cả hệ thống BHXH hoạt động được bình
thường, các hoạt động nghiệp vụ và các hoạt động quản lý đòi hỏi phải có những chi phí
nhất định. Ở hầu hết các nước, các chi phí này tuỳ theo từng nước được tính bằng một tỷ lệ
nhất định trên tổng thu của quỹ BHXH, hoặc được ấn định bằng một mức nào đó trên cơ
sở những chi phí của những năm trước đó. Tuy nhiên, dù tính theo cách nào thì những chi
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phí này đều do quỹ BHXH đảm bảo. Như vậy, hiệu quả hoạt động của bộ máy BHXH, đời
sống của các nhân viên ngành BHXH, ở mức độ nào đó phụ thuộc vào tình hình hoạt động
(bao gồm cả hoạt động đầu tư) của quỹ BHXH. Mặt khác, quỹ BHXH do tính đặc thù của
hoạt động BHXH nên có một bộ phận của quỹ tạm thời nhàn rỗi. Phần nhàn rỗi này của
quỹ BHXH được đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau cảu nền kinh tế. Thông qua hoạt động
đầu tư của quỹ BHXH tạo thêm nguồn lực tài chính để duy trì và phát triển hệ thống
BHXH; đồng thời việc đầu tư tăng trưởng quỹ sẽ tăng cường khả năng chi trả thường
xuyên cho các đối tượng được hưởng chế độ BHXH.
- Vai trò của quỹ BHXH đối với nền tài chính quốc gia
Như đã nêu, với tư cách là một quỹ tài chính, dòng tiền của quỹ BHXH luôn luôn
được lưu thông và vì vậy ảnh hưởng đến nền tài chính chung của quốc gia. Hoạt động của
Quỹ BHXH được thể hiện ở hai dòng di chuyển của tiền tệ là dòng di chuyển vào và dòng
di chuyển ra.
Dòng di chuyển vào thông qua sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao
động và các nguồn thu khác. Dòng di chuyển này về cơ bản là một phần thu nhập của dân
cư, của doanh nghiệp đưa vào BHXH (trên cơ sở đóng phí). Nói cách khác, quỹ BHXH (từ
giác độ dòng tiền vào) đã thúc đẩy quá trình lưu thông tiền tệ trong dân cư - mọi sự lưu
thông có chủ định và vì vậy có vai trò điều chỉnh nhất định dòng tài chính quốc gia.
Dòng di chuyển ra của BHXH là các chi phí BHXH bao gồm chi trả các trợ cấp
BHXH và các chi phí cho hoạt động nội bộ BHXH. Các chi phí này rất lớn và như vậy quỹ
BHXH có vai trò máy bơm tiền vào lưu thông tạo ra cơ cấu về tiêu dùng. Mặt khác thông
qua việc đầu tư vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế, quỹ BHXH cũng cung
cấp một lượng vốn lớn và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng
kinh tế. Đặc biệt, trong điều kiện nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế không ngừng
tăng lên, thì việc cung ứng vốn cho nội bộ nền kinh tế thông qua các tụ điểm tài chính như
quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nói cách khác thông qua dòng di chuyển ra,
quỹ BHXH đã làm tăng quy mô tài chính cho nền kinh tế; không những thế, quỹ BHXH
còn góp phần điều chỉnh cơ cấu tài chính, cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
đất nước… Ngoài ra, thông qua việc đầu tư như mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà
nước, công trái xây dựng tổ quốc hoặc cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng vay…, quỹ
BHXH đã tham gia một cách đắc lực vào việc thực hiện các chính sách tiền tệ, giữ vững sự
ổn định tiền tệ và góp phần kiểm soát lạm phát.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Vai trò đối với chính trị - xã hội:
Việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an toàn xã hội, thông qua quá trình
phân phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an toàn xã hội về kinh tế
cho mọi thành viên trong xã hội.
4. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ BHXH
4.1. Nguồn hình thành quỹ BHXH
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp
- Người lao động đóng góp
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm
- Các nguồn khác (như cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi do đầu tư phần
quỹ nhàn rỗi).
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu
trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có
khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động
hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập
cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác
định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu
toàn bộ chi phí cho chế đọ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình,
các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên
một phần bằng nhau. Một số nước khác quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc
chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH …
Mức đóng BHXH thực chất là phí BHXH, phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân
đối thu chi quỹ BHXH. Vì vậy, quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong
thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường
sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thế có
những căn cứ tính toán khác nhau:
- Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ
sở xác định mức phí đóng
- Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng, rồi từ
đó có thế xác định được mức phí phải đóng.
Phí BHXH xác định theo công thức:
P = f
1
+ f
2
+f
3
Trong đó:
P - Phí BHXH
f
1
- Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f
2
- Phí dự phòng
f
3
- Phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn, ngoài ra phải
có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
4.2. Sử dụng quỹ BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu để chi trả cho các mục đích sau đây:
- Chi trợ cấp cho các chế độ bh
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Trong đó, chi trợ cấp BHXH theo các chế độ là lớn nhất và quan trọng nhất, khoản
chi này thường được thực hiện theo luật định và phụ thuộc vào phạm vi trợ cấp của từng
hệ thống BHXH. Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau. Vì vậy, quỹ chỉ chi
cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu ở chế độ nào thì chi ở chế độ đó.
Tuy nhiên, quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là chi trả các
chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ BHXH theo phương thức nào:
- Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả cũng phải
đảm bảo tính thống nhất theo các nội dung chi.
- Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại: Quỹ BHXH ngắn hạn và quỹ BHXH
dài hạn thì việc chi trả và quản lý chi sẽ cụ thể hơn. Phương thức này đảm bảo cho công
tác chi trả sát thực tế và đúng mục đích hơn. Đồng thời tạo điều kiện cho mọi thành phần
kinh tế tham gia các chế độ BHXH dài hạn.
- Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ (còn gọi là quỹ BHXH thành
phần) thì việc chi trả sẽ càng trở nên đơn giản và đảm bảo đúng mục đích.
Nội dung chi trả: gắn liền với nội dung kinh tế - xã hội của từng chế độ hoặc từng
nhóm chế độ. Cụ thể:
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đối với chế độ hưu trí và tử tuất
Việc chi trả bắt nguồn từ việc bảo hiểm thu nhập cho người lao động bị già yếu hết
tuổi lao động và qua đời mà bất kỳ người lao động nào cũng phải trải qua. Muốn được chi
trả, người lao động và người sử dụng lao động phải tham gia đóng góp. Quyền lợi được
hưởng tương ứng với mức đóng góp phí BHXH của từng người lao động. Phí BHXH nộp
cho các chế độ hưu trí và tử tuất được cơ cấu vào tiền lương, tiền công.
+ Đối với chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Nội dung chi trả bắt nguồn từ việc ổn định sản xuất kinh doanh, ổn định kinh tế cho
người sử dụng lao động và ổn định cuộc sống cho người lao động khi họ bị ốm đau, tai nạn
hoặc thai sản. Để có quỹ chi trả, người sử dụng lao động và người lao động đều phải có
trách nhiệm đóng phí. Số phí này cũng phải được hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm
để tạo nguồn tài chính nộp phí bảo hiểm. Phương thức này có ưu điểm là dễ dàng cân đối
thu chi, từ đó góp phần xác định mức đóng và mức hưởng trong từng chế độ một các chính
xác.
Ngoài việc chi trả trợ cấp theo các chế độ BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng
cho chi quản lý như: Tiền lương cho những người làm việc trong hệ thống BHXH, khấu
hao tài sản cố định,văn phòng phẩm,…Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lời,
mục đích đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5. Mô hình quỹ BHXH
Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành, quỹ BHXH có các mô hình sau:
- Quỹ BHXH Nhà nước:
Theo mô hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ
sử dụng lao động và người lao động không phải đóng góp vào quỹ.
- Quỹ BHXH hỗn hợp (Mô hình quỹ BHXH theo nền kinh tế thị trường): Ở mô hình
này quỹ BHXH có 3 loại:
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, người lao
động, Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và của
người tham gia BHXH.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, Nhà nước
đóng và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm không phải đóng góp vào quỹ.
- Quỹ BHXH cá nhân (Quỹ BHXH tự nguyện).
Theo mô hình này, quỹ BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của cá
nhân người tham gia BHXH.
Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì quỹ BHXH có hai mô hình:
- Quỹ BHXH bắt buộc: Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và sử dụng
quỹ để bắt buộc một số đối tượng tham gia BHXH. Sự đóng góp của họ hình thành nên
quỹ BHXH bắt buộc.Đối tượng tham gia gồm người sử dụng lao động và người lao động.
- Quỹ BHXH tự nguyện: Trên cơ sở Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập
và sử dụng quỹ để cho đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia phù hợp với điều
kiện và nhu cầu của họ. Ở mô hình này, đối tượng tham gia thường là cá nhân không
thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc hoặc là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
nhưng họ tham gia bổ sung để được hưởng quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc.
Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì quỹ có 2 mô hình:
- Quỹ BHXH ngắn hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham
gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng
sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hưởng một lần.
- Quỹ BHXH dài hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng tham gia
BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, tử tuất, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp trả hàng tháng.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xét dưới góc độ cân đối thu - chi thì quỹ có 2 mô hình cơ bản:
- Mô hình toạ thu - toạ chi: Cân đối quỹ được xác định hàng năm, thu không đủ chi
thì Ngân sách Nhà nước cấp bù (giống như mô hình quỹ nước tha trước năm 1995)
- Mô hình tồn tích: Cân đối quỹ BHXH được xác định dài hạn; dựa vào các phương
pháp tính toán thống kê, xác suất theo quy luật số lớn để xác định tổng nguồn thu vào quỹ
BHXH và tổng số chi ra từ quỹ BHXH, để tính cân đối thu - chi dài hạn khoảng 10, 20 và
30 năm. Trong mô hình này có hai loại là tồn tích cá nhân và tồn tích cộng đồng. Với mô
hình tồn tích cá nhân thì mọi sự đóng góp của chủ sử dụng lao động, của người lao động,
khoản tiền lãi đầu tư trong năm được lưu giữ và tồn tích vào một tài khoản cá nhân cho
từng người, thuộc quyền sở hữu của cá nhân họ; Ở mô hình này thì không sợ mất cân đối
quỹ, nhưng lại làm mất bản chất của BHXH là chia sẻ rủi ro, thực chất là “khoản tiết kiệm
bắt buộc”. Quỹ BHXH theo mô hình tồn tích cộng đồng (giống của nước ta hiện nay) đang
được nhiều nước trên thế giới áp dụng, mang đúng bản chất của BHXH; quỹ được dùng
chung cho tất cả mọi người tham gia BHXH nên tính nhân văn và xã hội cao; có thể hình
dung, quỹ BHXH như một ngôi nhà chung của mọi người tham gia BHXH, dùng che trở
cho họ khi gặp rủi ro, ngôi nhà này càng to càng vững chắc thì khả năng che trở càng tốt.
6. Các nhân tố tác động đến quỹ BHXH
- Chính sách tiền lương - tiền công: Thu nhập của người lao động là đối tượng của
BHXH. Vì vậy, chính sách tiền lương là nhân tố đầu tiên tác động đến quy mô của quỹ
BHXH. Giữa chính sách tiền công - tiền lương và chính sách BHXH nói chung và việc tăng
giảm quỹ BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền
đề và là cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, trên cơ sở tính toán mức đóng và mức
hưởng BHXH lại phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi
Nhà nước nâng mức lương tối thiểu lên thì mức đóng BHXH cũng tăng lên và đương nhiên
số thu BHXH cũng tăng lên tương ứng với sự tăng lên của quỹ BHXH.
- Lực lượng lao động: Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những
người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội. Như vậy,
nếu một quốc gia có dân số “già”- tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỉ lệ thấp
trong tổng số dân số - sẽ dẫn đến mất cân đối quỹ BHXH bởi vì số người tham gia đóng
góp vào quỹ ngày càng ít đi trong khi số người hưởng chế độ BHXH đặc biềt là chế độ
hưu trí ngày càng tăng. Mặt khác, do nguyên tắc của BHXH là “số đông bù số ít”, nếu số
người tham gia BHXH ngày càng nhiều thì sự rủi ro đến với mỗi người lao động sẽ được
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
dàn trải rất rộng, từ đó tính chất xã hội của bảo hiểm sẽ ngày càng được thể hiện rõ nét,
quỹ BHXH sẽ càng vững mạnh, khả năng chi trả tăng lên và làm tăng phần quỹ nhàn rỗi.
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm tiêu
dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn
định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi, là điều kiện để người lao động tham gia
BHXH được nhiều hơn, để các chủ doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao
động và làm giảm tình trạng trốn đóng góp BHXH của họ. Thêm nữa, khi đời sống kinh
tế cao thì nhận thức của người lao động cũng cao lên, ngoài việc ý thức bảo đảm cuộc
sống hàng ngày cho bản thân và gia đình, họ còn mong muốn có khoản trợ giúp trong
tương lai khi không may gặp rủi ro xã hội khiến họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Tất cả
những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH.
- Mức chi trả các chế độ BHXH: Mức chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: số
lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số người hưởng và tỉ lệ hưởng các chế độ BHXH.
Nếu một quốc gia triển khai và áp dụng nhiều các chế độ trong số 9 chế độ thì số
thu BHXH ngày càng lớn. Mặt khác, tỉ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho
các chế độ càng lớn, chính điều này đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng chặt chẽ hơn để
tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH. Khi tuổi nghỉ hưu càng tăng lên thì mức chi trả
lương hưu sẽ giảm, mức thu lại càng tăng nên sẽ giảm nguy cơ mất cân đối quỹ.
- Nguồn lãi từ hoạt động đầu tư quỹ BHXH: Nếu quỹ BHXH được thiết kế theo
mô hình toạ thu - toạ chi thì quỹ luôn được cân đối ngay trong năm và không có kết dư.
Nếu quỹ được thiết kế theo mô hình tồn tích thì hàng năm đều có kết dư, đây là nguồn vốn
rất quan trọng để đầu tư vào các lĩnh vực có độ rủi ro thấp. Nếu hoạt động đầu tư có hiệu
quả thì tiền lãi từ hoạt động này sẽ làm quy mô quỹ vững mạnh, đảm bảo cân bằng trong
thời gian dài.
7. Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH
Để quỹ BHXH tồn tại và hoạt động độc lập, về nguyên tắc quỹ phải được cân đối
có nghĩa là các khoản thu BHXH tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu chi trả các chế độ BHXH
và chi quản lý bộ máy. Cân đối quỹ BHXH được hiểu là mối quan hệ tương đương về
lượng và sự bằng nhau giữa hai đại lượng thu - chi, ngoài ra cân đối quỹ BHXH còn thể
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hiện ở việc bố trí cơ cấu và quan hệ số lượng giữa các yếu tố trong cơ cấu thu - chi quỹ
BHXH.
Cân đối quỹ BHXH về hình thức là cân đối giữa thu và chi. Về thực chất, cân đối
quỹ BHXH phản ánh nguồn lực tài chính có thể chi phối trực tiếp, nó thể hiện sự cân đối
tài chính trong phạm vi của một quỹ. Cũng giống như sự phát triển của mọi sự vật, cân đối
thu - chi quỹ BHXH là tương đối chứ không tuyệt đối, luôn ở trạng thái vận động, cân đối
và không cân đối chuyển hoá lẫn nhau. Cân đối quỹ BHXH được thể hiện trong suốt quá
trình phát sinh giải quyết mâu thuẫn giữa thu và chi, do đó ít nhiều có số dư có thâm hụt
(trong phạm vi cho phép). Các trường hợp đó đều phải coi là phạm vi cân đối cơ bản, đều
là hình thức biểu hiện của cân đối quỹ BHXH.
Từ sự vận động thu - chi của quỹ BHXH, về nguyên tắc cân đối phải đảm bảo:
Tổng số tiền Tổng chi Tổng chi
Tổng thu + sinh lời từ = các chế độ + phí cho + Chi khác
đầu tư BHXH quản lý
Từ đó cho biết nguyên nhân chính làm mất cân đối quỹ BHXH:
- Mức độ phát triển của nền kinh tế
- Hiệu quả của hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
- Cơ cấu hợp lý giữa các khoảng thu- chi BHXH
- Cơ chế quản lý tài chính BHXH kém hiệu quả.
Các nguyên tắc cân đối quỹ BHXH: Để đảm bảo cho quỹ BHXH tồn tại độc lập
với NSNN trong nền kinh tế thị trường và trở thành một bộ phận của hệ thống tài chính
quốc gia, một tụ điểm của thị trường tài chính thì nguyên tắc cân đối quỹ BHXH là:
- Tổng số thu từ người lao động và chủ sử dụng lao động phải lớn hơn tổng số chi cho
các chế độ BHXH và phần tích luỹ ngày càng cao làm gia tăng khoản chi đầu tư tăng trưởng.
- Trong trường hợp bội chi quỹ BHXH thì số bội chi phải nhỏ hơn số chi đầu tư
tăng trưởng quỹ để đảm bảo quỹ luôn được cân đối
- Tổng số chi cho các chế độ BHXH dài hạn và ngắn hạn không vượt quá tổng số
thu vào các quỹ BHXH dài hạn và ngắn hạn.
- Lợi nhuận đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH mang lại phải đảm bảo nguyên tắc:
không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích tăng trưởng quỹ BHXH.
III. VẤN ĐỀ ĐẦU TƯ QUỸ BHXH
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1. Sự cần thiết của đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Trong hoạt động của quỹ BHXH, do tính đặc thù của quá trình thu - chi BHXH nên
quỹ BHXH luôn có một lượng tiền tạm thời nhàn rỗi, phần tiền này với tư cách là một bộ
phận tài chính cần phải được đem đầu tư. Có rất nhiều lý do dẫn đến cần phải đầu tư tăng
trưởng quỹ BHXH, nhưng chủ yếu là các lý do sau:
- Trong các nguồn thu của quỹ thì có một bộ phận được dụng ngay (cho các trợ cấp
BHXH ngắn hạn); nhưng phần lớn dùng để chi trả cho các trợ cấp BHXH dài hạn mà tính
từ khi đóng phải hàng chục năm sau mới phải chi (nếu chỉ tính riêng cho từng cá nhân).
Đối với những hệ thống BHXH trẻ (như Việt Nam), số người đóng góp hiện tại lớn hơn
nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, thì số tiền chưa được dùng đến ngay rất lớn.
Đây được gọi là phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH. Theo quy luật tiền tệ, phần nhàn
rỗi của quỹ BHXH không được để đóng băng mà phải được đưa vào lưu thông, phải được
đầu tư để tránh những rủi ro về tiền tệ như lạm phát và các rủi ro khác. Do vậy, đầu tư
trước hết là để đảm bảo giá trị của phần vốn này, mặt khác phần sinh lời thực tế (sau khi đã
trừ đi lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện cho các trợ cấp
ngắn hạn; đồng thời đảm bảo cho các hoạt động của BHXH được tốt hơn cả trong hiện tại
và tương lai.
- Do thiết kế kỹ thuật, có tính tới yếu tố thu nhập hiện thời của người lao động, nên
phí BHXH chỉ là phí tối thiểu. Nếu tính riêng cho một người lao động thì phần đóng góp
của họ không đủ chi trả cho họ từ sau khi nghỉ hưu cho đến khi chết. Vì vậy, trong kỹ thuật
tính phí BHXH phải dựa trên số đông bù số ít và có tính đến các yếu tố đầu tư. Do vậy, nếu
không đầu tư tăng trưởng quỹ thì quỹ BHXH không thể chi dùng đủ cho tương lai, trong
khi nhu cầu thụ hưởng của người lao động ngày càng cao theo thời gian.
- Là một bộ phận của tài chính quốc gia, muốn nền kinh tế tăng trưởng, cải thiện
đời sống chung cho nhân dân, các nguồn lực tài chính phải được huy động tối đa, do vậy
sự huy động phần nhàn rỗi của quỹ BHXH vào nền kinh tế là yêu cầu có tính khách quan,
vừa góp phần tăng trưởng quỹ, vừa góp phần tăng vốn cho nền kinh tế. Thông qua việc đầu
tư vốn vào các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội hoặc các thị trường tài chính
( thông qua mua cổ phiếu, trái phiếu…), quỹ BHXH đã cung cấp một lượng vốn lớn và
đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng nền kinh tế; góp phần lành
mạnh hoá thị trường tài chính của đất nước.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Khi quỹ BHXH ổn định và tăng trưởng, phần chi từ NSNN cho BHXH sẽ giảm đi
và NSNN sẽ có điều kiện để tập trung chi vào các mục tiêu trọng yếu khác.
- Hiện nay, mặc dù các chế độ ngắn hạn luôn có kết dư, song các chế độ dài hạn
như hưu trí và tử tuất thì tốc độ tăng thu luôn thấp hơn tốc độ tăng chi, như vậy trong vòng
30 năm tới nếu chỉ dựa vào các khoản thu thì quỹ có nguy cơ mất cân đối. Vì vậy, phải có
biệm pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
2. Đặc điểm của đầu tư quỹ BHXH
Ở mỗi quốc gia, công tác đầu tư quỹ BHXH đều có những nét riêng, nhưng hầu hết
đều có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở chủ yếu là đóng góp của các bên tham gia
BHXH, vốn đầu tư của quỹ không phải là vốn kinh doanh mà là khoản tiền tạm thời nhàn
rỗi dự trữ cho tương lai nhằm để chi trả các trợ cấp BHXH cho người lao động khi tham
gia BHXH. Do đó không có khái niệm kinh doanh quỹ BHXH mà chỉ là các hoạt động đầu
tư phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH.
- Sự chuyển quyền sử dụng vốn trong công tác đầu tư quỹ BHXH chủ yếu được tiến
hành dưới các hình thức mua bán vốn như: mua cổ phiếu, trái phiếu, công trái, tín phiếu,
cho vay, mua bất động sản…
- Ở hầu hết các nước, Chính phủ đều quy định danh mục đầu tư, hoặc phân cấp rõ
ràng danh mục đầu tư gắn liền với trách nhiệm của các cấp, các ngành để hạn chế rủi ro
của quỹ.
- Quỹ BHXH là thuộc sở hữu của các bên tham gia đóng góp, đó là quỹ của xã hội
dùng để chi cho các chế độ BHXH theo quy định. Vì vậy, việc đầu tư của quỹ phải đảm
bảo yêu cầu thu hồi vốn thuận tiện, hết thời hạn đầu tư phải thu hồi được cả vốn và lãi, dễ
dàng chuyển đổi các nguồn vốn đem đầu tư thành tiền mặt khi cần.
- Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH cũng phải tuân thủ yêu cầu khách quan
của các quy luật kinh tế trên thị trường vốn.
3. Nguyên tắc cơ bản đầu tư quỹ BHXH
Do quỹ BHXH có những đặc trưng riêng, khác với những tổ chức tài chính khác,
nên việc đầu tư tăng trưởng quỹ phải dựa trên những nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc: “Đảm bảo an toàn khi đầu tư”.
Mục tiêu hình thành quỹ BHXH là để góp phần đảm bảo an toàn thu nhập cho
người lao động và sâu sa hơn là đảm bảo an sinh xã hội cho dân cư. Vì vậy, an toàn là
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nguyên tắc hàng đầu trong việc đầu tư quỹ BHXH. Có thể nói, quỹ BHXH về bản chất là
tài sản của nhiều thế hệ lao động, luôn luôn gắn liền với đời sống của hàng triệu người
tham gia BHXH và gia đình họ. Quỹ BHXH được bảo toàn và tăng trưởng tốt sẽ đáp ứng
tốt hơn nhu cầu ngày càng tăng của người lao động tham gia BHXH và góp phần thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần ổn định và phát triển đất nước. Ngược
lại, nếu quỹ BHXH không được sử dụng đúng, không đảm bảo được giá trị, mất an toàn
( thâm hụt) thì đời sống của người tham gia và thụ hưởng sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên; hậu
quả là sé dẫn đến rối loạn xã hội nghiêm trọng. Nhiều Chính phủ đã phải sụp đổ do những
vấn đề có liên quan đến lợi ích của người tham gia BHXH.
- Nguyên tắc: “khả năng thanh toán thường xuyên”.
Mục tiêu lập quỹ BHXH là để đáp ứng được những chi trả các trợ cấp BHXH ở bất
cứ thời điểm nào và ở bất cứ đâu. Nói cách khác, quỹ BHXH phải luôn ở chế độ sẵn sàng
có tiền để chi trả trợ cấp BHXH định kỳ hoặc đột suất. Chính vì vậy, phần chưa dùng đến
của quỹ BHXH mới được gọi là phần nhàn rỗi tương đối. Do đó, nguyên tắc cơ bản khi tổ
chức các hoạt động đầu tư của quỹ BHXH là dù đầu tư quỹ vào lĩnh vực nào, dưới hình
thức nào cũng phải đảm bảo khả năng chuyển đổi các tài sản đầu tư thành tiền và có thể
thu hồi được dễ dàng. Chính phủ nhiều quốc gia thường quản lý danh mục đầu tư chặt chẽ.
ILO khuyến cáo trong cơ quan BHXH nên có bộ phận đầu tư và phải có chuyên gia đánh
giá đầu tư chuyên nghiệp. Việc đánh giá này phải nêu lên được những ưu nhược điểm của
các danh mục dự định đầu tư để có lựa chọn những danh mục hợp lý nhất, đảm bảo nguyên
tắc có khả năng thanh toán này.
SVTH: NguyÔn ThÞ HuyÒn Thu Líp: B¶o hiÓm 45B
25