Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Xay dung nha nuoc phap quyen XHCN_hoan_chinh pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.9 KB, 10 trang )

Thưa toàn thể các đồng chí!
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, diễn ra từ ngày 12/01 –
19/01/2011 tại Thủ Đô Hà Nội, Đại hội đã thảo luận nhiều vấn đề, trong các
vấn đề đó có nội dung “xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN”. Đây là nội
dung luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, có vị trí quan trọng trọng sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, với ý nghĩa đó sau đây
tôi xin giới thiệu với các đồng chí chuyên đề “xây dựng nhà nước pháp quyền
Việt Nam XHCN”; Nhằm giúp các đồng chí hiểu rõ, nắm chắc những vấn đề
về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Trong nội dung chuyên đề này tôi sẽ đề cập tới các đồng chí gồm 3
nội dung:
1. Những tiền đề để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
2. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện nhà nước pháp
quyền XHCN.
3. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và yêu cầu đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.
Thưa toàn thể các đồng chí!
Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, vấn đề chính
quyền và việc xây dựng, hoàn thiện một nhà nước kiểu mới, nhà nước dân
chủ ở Việt Nam luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu, một nhiệm vụ trọng tâm
của Đảng. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự
khẳng định và thừa nhận Nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử; nó là
tinh hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại.
Quá trình đổi mới tư duy và hình thành quan điểm, tư tưởng về Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân gắn liền với quá trình hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới đất
nước, xuất phát từ những tiền đề chính trị, kinh tế - xã sau đây.
1. Những tiền đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
* Tiền đề chính trị - xã hội.
Tiền đề chính trị - tư tưởng quan trọng nhất để xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng


Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Trong cuộc hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tìm thấy ở đó chủ nghĩa nhân đạo và tính
nhân văn cao cả. Người lên án chế độ thực dân độc đoán, hà khắc, phản dân
chủ, áp bức các dân tộc thuộc địa. Trong Yêu sách của nhân dân An Nam
(viết năm 1919), Người yêu cầu phải cải cách nền công lý ở Đông Dương
theo hướng người bản xứ cũng được quyền hưởng những bảo đảm về mặt
pháp luật như người châu Âu; xoá bỏ hoàn toàn và triệt để các toà án đặc biệt
dùng làm công cụ để khủng bố và áp bức nhân dân Việt Nam; Người yêu cầu
phải để cho nhân dân Việt Nam có các quyền tự do như: tự do ngôn luận, tự
do lập hội và hội họp, tự do giáo dục và đặc biệt là “thay chế độ ra các sắc
lệnh bằng chế độ ra các đạo luật” (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2000, t.1, tr.436). Trong bài Việt Nam yêu cầu ca, Người
đã thể hiện nội dung những yêu sách trên để phổ biến rộng rãi:
“Bảy xin hiến pháp ban hành,
Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” (Hồ Chí Minh: Sđd, 2000, t.1,
tr.438).
Những tư tưởng nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa lập hiến đã được vận dụng ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công
năm 1945. Ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, một trong
những nhiệm vụ cấp bách mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra tại phiên họp đầu
tiên của Chính phủ lâm thời (ngày 3/9/1945) là: “Trước chúng ta đã bị chế độ
quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên
chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân không được hưởng quyền tự
2
do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ
tổ chức càng sớm càng hay một cuộc TỔNG TUYỂN CỬ với chế độ phổ
thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử
và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống, ” (Hồ Chí
Minh: Sđd, 2000, t.4, tr.8). Và chỉ 10 tháng sau, Quốc hội do nhân dân bầu ra

qua cuộc Tổng tuyển cử lịch sử đó đã thông qua Hiến pháp năm 1946, Hiến
pháp dân chủ đầu tiên đặt nền móng cho sự phát triển của Nhà nước hợp hiến
Việt Nam.
Bên cạnh những tiền đề về chính trị - xã hội, thì tiền tề về kinh tế xã
hội cũng không kém phần quan trọng trong quá trình hình thành nhà nước
Việt Nam XHCN.
* Tiền đề kinh tế.
Trên cơ sở đánh giá đúng đắn, khách quan thực tiễn cơ chế quản lý
kinh tế thời kỳ kế hoạch hoá tập trung bao cấp, Đại hội VI của Đảng đã chỉ ra
những hạn chế bất cập cơ bản của cơ chế này: Quản lý nền kinh tế bằng mệnh
lệnh hành chính là chủ yếu; cơ quan nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về mặt vật
chất đối với những quyết định của mình; cơ chế quản lý tập trung bao cấp,
coi thường quan hệ hàng hoá - tiền tệ, thị trường. Nhà nước quản lý nền kinh
tế kế hoạch hoá bằng chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm theo quan hệ
hiện vật là chủ yếu; bộ máy quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao
cấp, vì thế rất cồng kềnh và kém năng động, nhiều tầng nấc trung gian; đội
ngũ cán bộ quản lý kinh tế nói chung không thạo việc kinh doanh, nhưng lại
quan liêu, cửa quyền.
Như chúng ta đã biết thời kỳ bao cấp đời sống nhân dân vô cùng cực
khổ, họ không có quyền gì về những thành quả sản xuất mà họ tạo ra; lao
động sản xuất thì kém hiệu quả bởi cơ chế tập chung, lao động tình theo thời
gian chứ không lấy chất lượng, hiệu quả công việc là chính.
3
Hệ quả của cơ chế quản lý kinh tế này đã làm cho sản xuất bị đình trệ,
đẩy đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế nặng nề.
Việc chỉ ra một cách đúng đắn những hạn chế của cơ chế quản lý cũ
giúp chúng ta tìm được những cách thức khắc phục nó một cách hiệu quả.
Việc xoá bỏ cơ chế cũ phải diễn ra đồng thời với việc xây dựng cơ chế quản
lý mới. Đại hội VI của Đảng xác định mục tiêu của cơ chế mới là tạo ra động

lực mạnh để giải phóng năng lực sản xuất, xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu,
bao cấp, chuyển hoạt động kinh tế sang hoạch toán kinh doanh; sử dụng đầy
đủ và đúng đắn các quan hệ hàng hóa - tiền tệ; nền kinh tế phải được quản lý
bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu; các đơn vị kế hoạch (quốc doanh và
tập thể) là những đơn vị sản xuất hàng hoá, có quyền tự chủ về sản xuất, kinh
doanh, tự chủ về tài chính.
2. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện nhà nước
pháp quyền XHCN.
Hơn 20 năm đổi mới, các giá trị văn hoá – xã hội mang tính truyền
thống được kế thừa, phát triển, tiếp thu có chọn lọc các nhân tố mới của thời
đại. Đời sống của nhân dân được nâng nên rõ rệt cả về vật chất và tinh thần;
hệ thống luật pháp ngày một được chặt chẽ, công minh; mọi người dân được
tự do buôn bán, làm ăn trong khuôn khổ của pháp luật ….
Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đảng và
Nhà nước đã lần lượt đề ra và thực hiện có hiệu quả những chính sách quan
trọng đáp ứng yêu cầu hợp tác, hội nhập kinh tế, quốc tế và khu vực với việc
Việt Nam, phá được thế bị bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo
hướng đa phương, đa dạng hoá. Việt Nam trở thành thành viên chính thức và
có uy tín, trách nhiệm của ASEAN, thành viên có uy tín của AIPO (Liên minh
Nghị viện các quốc gia Đông Nam Á); gia nhập WTO đã đặt ra những yêu
cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước phù hợp với các chuẩn mực chung của khu vực và thế giới và vẫn
giữ được các nét đặc trưng riêng của Việt Nam.
4
3. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và yêu cầu đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Đại hội XI của Đảng xác định, Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện và thực hiện ý
chí, quyền lực của nhân dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 25 năm đổi mới, Đảng đã
nghiên cứu và đề ra các giải pháp nhằm tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trong lĩnh vực hoàn thiện thể
chế bộ máy, Đảng ta nhận định: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại
Việt Nam là một tất yếu khách quan, công tác xây dựng nhà nước pháp quyền
XHCN trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu nhất định, tuy nhiên
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN còn chưa theo kịp yêu cầu phát triển
kinh tế và quản lý đất nước. Từ đó, Đảng ta đã đặt ra bốn yêu cầu lớn nhằm
đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN tại Việt Nam.
3.1. Nâng cao nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý kinh tế,
quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực
quản lý và điều hành của Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo
đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu xây dựng, bổ
sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là
5
thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.Nâng cao vai trò và hiệu
lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các
cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
3.2. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước

Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự
là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu
những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất lượng đại biểu
Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu
Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Tiếp tục phát huy dân
chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt động chất vấn tại diễn đàn
Quốc hội.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật,
trước hết là quy trình xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định
cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh vào cuộc sống. Thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là
các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách;
giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí.
Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch
nước để thực hiện đầy đủ chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước
về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng vũ trang; quan hệ giữa Chủ
tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây
dựng nền hành chính thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu
lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền
6
trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo, ứng phó và giải
quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình
trạng bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành.
Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các bộ, sở, ban, ngành
quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Thực hiện
phân cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất lượng

quy hoạch và tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát của trung ương, gắn
quyền hạn với trách nhiệm được giao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh
và bãi bỏ các loại thủ tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân.
Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế,
chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù hợp với cơ chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020,
xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân
sự, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ
pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức
toà án theo thẩm quyền xét xử. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng
cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám sát của nhân dân đối
với hoạt động tư pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng
cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp,
bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức
thực hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ
chức, thẩm quyền của chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực
7
hiện thí điểm chủ trương không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận,
phường.
3.3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp
ứng yêu cầu trong tình hình mới
Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ,
công chức; tăng cường tính công khai, minh bạch, trách nhiệm của hoạt động
công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về bản lĩnh chính

trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà
nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức
hoàn thành nhiệm vụ và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn
thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất uy tín với nhân dân.
3.4. Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống
tham nhũng, lãng phí
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ
vừa cấp bách, vừa lâu dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ trung ương đến cơ sở và từng đảng viên,
trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện và trực tiếp tham gia
đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào các lĩnh vực dễ xảy ra tham
nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính
trong các cơ quan hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp
nhà nước. Công khai, minh bạch về cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây
dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy động đóng góp của nhân
dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ nhiệm
cán bộ. Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của
cán bộ, công chức theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập,
chính sách nhà ở bảo đảm cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần
8
phòng, chống tham nhũng. Hoàn thiện các quy định trách nhiệm của người
đứng đầu khi để cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng phí. Xử lý
đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu, sung công tài
sản tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Xây dựng chế tài xử lý
những tổ chức, cá nhân gây thất thoát, lãng phí lớn tài sản của Nhà nước và
nhân dân. Tăng cường công tác kiểm toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của
các cơ quan chức năng. Có cơ chế khuyến khích và bảo vệ những người đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đồng thời kỷ luật nghiêm những

người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí hoặc lợi
dụng việc tố cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn
kết nội bộ.Tôn vinh những tấm gương liêm chính. Tổng kết, đánh giá cơ chế
và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham nhũng để có chủ trương, giải
pháp phù hợp.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử; nó là tinh
hoa, sản phẩm trí tuệ của xã hội loài người, của nền văn minh nhân loại. Xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN là để đảm bảo mọi quyền lợi đều thuộc về nhân dân,
để tiến tới một xã hội công bằng dân chủ, văn minh, không có tình trạng người bóc
lột người, mọi người đều có quyền tự do trong khuôn khổ của pháp luật.
Là một người quân nhân trong quân đội nhân dân Việt Nam, người bộ đội
cụ Hồ chúng ta phải luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
điều hành của nhà nước; nêu cao tinh thần đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc
của kẻ thù. Ra sức học tập, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, phát huy tính chủ
động sáng tạo, ý thức tự học, tự rèn; chấp hành nghiêm Điều lệnh, Điều lệ, quy định
của đơn vị, mệnh lệnh của người chỉ huy; ra sức xây dựng đơn vị VMTD.
Ngay hôm nay, mỗi chúng ta hãy luôn (kiên ý chí, sắc tinh thần, trung
thành vô hạn với Đảng, với Tổ Quốc, với nhân dân, đập tan mọi âm mưu thủ
đoạn của kẻ thù).
9
10

×