2000
2001
2002
2003
2004
2005
212
204
164
532
753
754
Tổng 2987
Qua những con số trên thấy rõ tiến trình cổ phần hoá đã trải qua những
bớc thăng trầm, nhng nói chúng là theo xu hớng mỗi ngày càng đợc đẩy
mạnh. Từ chỗ thực hiện chậm chạp trong những năm đầu (mỗi năm vài ba
doanh nghiệp đến vài trăm) và cho đến ba năm gần đây tiến trình cổ phần hoá
đợc đẩy mạnh hơn, do đó số lợng doanh nghiệp đợc cổ phần hoá tơng đối
nhiều.
Theo báo cáo của Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp, hình
thức cổ phần hoá phổ biến nhất là bán một phần vốn nhà nớc có tại doanh
nghiệp kết hợp phát hành thêm cổ phiếu (chiếm 43,4%) tiếp đó là bán một
phần vốn Nhà nớc hiện có tại doanh nghiệp (26%) còn lại là bán toàn bộ vốn
Nhà nớc tại doanh nghiệp (15,5%) và giữ nguyên vốn Nhà nớc và phát hành
thêm cổ phiếu (15,1%). Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành
công nghiệp giao thông vận tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65,5%, thơng mại
dịch vụ chiếm 28,7% và ngành nông - lâm - ng ngiệp chiếm 5,8%. Nếu phân
chia theo địa phơng thì tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng chiếm 65,7%,
bộ ngành TW chiếm 25,8%, tổng công ty 91 chiếm 8,5%.
Năm 2005 đã xuất hiện một điểm sáng mới cần đợc nhấn mạnh là trong
số doanh nghiệp cổ phần hoá đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn khá, quy mô
lớn, hấp dẫn các nhà đầu t. Có thể kể đến các công ty nh: Công ty khoan và
dịch vụ dầu khí, các nhà máy thuỷ điện sông Hinh (Vĩnh Sơn), Thác Bà, Phả
Lại, Điện lực Khánh Hoà, công ty giấy Phơng Mai, công ty vận tải xăng dầu
đờng thuỷ I, Vinamilk, công ty Kinh Đô. Giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ
đồng. Nhà máy thuỷ điện sông Hinh có giá trị 2114 tỷ đồng trong đó vốn Nhà
nớc là 1253 tỷ đồng. Một điểm khác biệt nữa, đó là việc xác định giá trị cổ
phần đợc thực hiện thông qua đấu giá công khai trên thị trờng. Ngay trong
ngày đầu tiên bán đấu giá Vinamilk, bán hết hơn 166 triiêụ cổ phiếu với giá
trung bình cao gấp 4,89 lần mệnh giá. tính minh bạch và công khai đấu giá cổ
phiếu của công ty sữa Việt Nam đã thu hút các nhà đầu t chiến lợc, trong đó
có các nhà đầu t nớc ngoài. Đáng chú ý là các nhà mới chiếm tỷ lệ thắng
thầu tới 78,4% trên tổng số cổ phần bán ra, các quỹ đầu t nớc ngoài hoạt
động ở Việt Nam chỉ chiếm 21,6% và số vốn thu hút đợc từ các tổ chức đầu
t mới lên tới 450 tỷ đồng. Sau ba năm chuẩn bị, Vinamilk đã hoàn toàn
chuyển đổi từ một Doanh nghiệp nhà nớc lớn thành tổng công ty cổ phần đại
chúng.
Sau 15 năm cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc, có thể nhận thấy các
chuyển biến sau:
Thứ nhất, sự chuyển hớng từ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc
trong một số lĩnh vực sang cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở hầu hết
ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thơng
mại, chỉ trừ loại Doanh nghiệp nhà nớc trong lĩnh vực dầu khí và an ninh
quốc phòng. Thành phố Hồ Chí Minh còn kiến nghị Chính Phủ cho phép cổ
phần hoá một số bệnh viện công.
Thứ hai, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc
quy mô nhỏ về vốn và lao động làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh
nghiệp lam ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh
tế (nh điện lực, xi măng, viễn thông, hàng không) với kết quả hoạt động sau
ngày một tiến bộ. Tiến hành cổ phần hoá không chỉ đợc thực hiện đối với
từng doanh nghiệp thành viên mà còn triển khai đối với toàn tổng công ty.
Đến nay đã có Nghị quyết phê duyệt cổ phần hoá 5 tổng công ty, trong đó có
các Tổng công ty thơng mại - Xây dựng, Điện tử - Tin học, Vinaconex và
Bảo Việt.
Thứ ba, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vốn của các nhà đầu
t, của những ngời trong doanh nghiệp mà còn thu hút vốn của những ngời
nông dân cung cấp nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành
những cổ đông, gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp.Công ty mía
đờng lam Sơn và công ty mía đờng La Ngã đã thực hiện cổ phần hoá theo
hớng đó. ở Tổng công ty mía đờng Lam Sơn, Nhà nớc giữ 46%, nông dân
trong mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26% (trong đó có 40.000 cổ
phần u đãi cho ngời trồng mía), ngời lao động trong doanh nghiệp mua
24% cổ phần. ở Tổng công ty mí đờng La Ngã Nhà nớc giữ 35%, nông dân
tròng mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 25% (trong đó có 15.000 cổ
phần u đãi cho ngời trồng mía), ngời lao động trong doanh nghiệp 40% cổ
phần. Sau 5 năm cổ phần hoá (từ năm 2000 đến năm 2005) nộp ngân sách
tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77,5 tỷ đồng và cổ tức là
20%/năm.
Thứ t, là việc chuyển từ cổ phần hoá tho hớng cơ bản khép kín, nội
bộ sang hình thức đấu giá công khai, bán cổ phần ra bên ngoài để thu hút nhà
đầu t trong và ngoài nớc. Đây đợc coi là sự chuyển biến có chất nhất thể
hiện sự thay đổi căn bản quan điểm và chủ trơng về cổ phần hoá, góp phần
tạo ra sức bật mạnh mẽ để đẩy nhanh, mạnh tiến trình cải cách hệ thống
Doanh nghiệp nhà nớc một cách công khai, minh bạch và tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế trong và ngoài nớc cùng tham gia. Trong đợt đấu giá
cổ phiếu đầu tiên của công ty sữa Việt Nam đã thu hút đợc các nhà đầu t
chiến lợc nớc ngoài và họ đã mua tới gần 80% tổng số cổ phần bán ra.
Thứ năm, cổ phần hoá là một xu hớng tất yếu, là giải pháp mang tính
đột phá nhằm chuyển đổi Doanh nghiệp nhà nớc đơn sở hữu sang đa sở hữu.
Các doanh nghiệp quân đội cũng không nằm ngoài xu hớng đó. Khi triển
khai thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đã gặp rất nhiều khó khăn bởi vì
các doanh nghiệp quân đội vốn cha thích nghi hoàn toàn với cơ chế thị
trờng, bản thân ngời lao động cũng cha sẵn sàng cho việc này, nhng tính
đến thời điểm này, đã có 16 doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện cổ
phần hoá, trong đó có 9 công ty, xí nghiệp phụ thuộc hoàn thành xong (đạt
56% kế hoạch).
2. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau cổ phần hoá.
Sau 15 năm thực hiện chủ trơng cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc,
cho đến nay đã có gần 3000 doanh nghiệp đợc cổ phần hoá. Nhìn chung các
doanh nghiệp cổ phần hoá đều phát triển ổn định và hoạt động có hiệu quả
hơn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra nhiều trở ngại gây khó khăn cho các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá. Việc nhận dạng đúng thực trạng và tìm biện
pháp tháo gỡ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sau cổ phần hoá phát triển
tốt hơn đang là vấn đề bức xúc hịên nay.
Cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nớc đã nâng cao rõ rệt hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên tất cả các chỉ tiêu chủ yếu: về vốn,
doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, số lợng lao động, cổ tức. Kết quả của
các cuộc điều tra cho thấy:
Thứ nhất, ngay trong năm đầu tiên cổ phần hoá, doanh thu bình quân của
doanh nghiệp tăng 13%, lợi nhuận sau thuế tăng 48,8% và cho đến nay có
tới 92,5% số doanh nghiệp đợc điều tra rừng có lãi, lợi nhuận trớc thuế tăng
bình quân 149,7%, lợi nhuận sau thuế tăng bình quân 182,3%. Điều này cho
thấy việc chuyển đổi đã có tác động mạnh đến hiệu quả hoạt động của doanh
nghiệp.
Thứ hai, đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều năm đã đi vào
hoạt động ổn định, tốc độ tăng trởng của doanh nghiệp đợc duy trì, doanh
thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận trớc thuế tăng 9,4%, lợi nhuận sau thuế
tăng tới 54,4%. Một số doanh nghiệp có doanh thu tăng cao nh công ty cổ
phần đại lý liên hiệp vận chuyển: 30 lần, công ty cổ phần cơ điện lạnh: 13 lần,
công ty cổ phần Kim Đan: 11,2 lần
Thứ ba, một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp sau cổ phần hoá đều tăng; năng suất lao động tăng bình quân
63,9%; mức nộp ngân sách tăng bình quân 26,53%; thu nhập bình quân tháng
của lao động tăng 34,5% so với trớc khi cổ phần hoá. Điều đó khẳng định
hiệu quả của việc chuyển đổi các Doanh nghiệp nhà nớc thành công ty cổ
phần.
Thứ t, sau cổ phần hoá các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh
doanh, tạo thêm công ăn việc làm, thu hút thêm lao động, số lao động trong
các doanh nghiệp cổ phần hoá phát triển bình quân tăng 6,6%. Cổ tức bình
quân của các doanh nghiệp đạt 17,11% cao hơn nhiều so với lãi suất.
Thứ năm, vốn huy động đợc từ việc bán cổ phiếu cũng tăng đáng kể.
Vốn bình quân một doanh nghiệp tăng từ 24 tỷ đồng (năm 2001) lên 63,6 tỷ
đồng (năm 2004). Đây là yếu tố đầu vào rất quan trọng để mở rộng sản xuất
kinh doanh mang lại lợi nhuận cao hơn nữa cho doanh nghiệp, tạo thêm nhiều
công ăn việc làm cho ngời lao động, góp phần giải quyết vấn đề thất nghiệp
trong xã hội hiện nay.
Qua nghiên cứu, khảo sát các doanh nghiệp sau cổ phần hoá của Bộ Kế
hoạch và Đầu t cho thấy việc thay đổi mô hình hoạt động của cán bộ quản lý
và ngời lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp. Cán bộ quản lý và ngời lao động đã thật sự gắn bó với doanh
nghiệp, nhờ vậy mà hiệu quả kinh doanh tăng lên. Có 96% số doanh nghiệp
cho rằng cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến hiệu quả sản xuất kinh
doanh, 88% số doanh nghiệp khẳng định kết quả sản xuất của ngời lao động
đã tăng lên khi tiền lơng của họ đợc tính toán trên cơ sở kết quả việc làm.
Thực tế có 85% doanh nghiệp cho rằng sau cổ phần hoá cơ sở vật chất kỹ
thuật, năng lực sản xuất của doanh nghiệp đợc khai thác triệt để hơn, sử dụng
tốt hơn, tiết kiện hơn trớc.
3. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc và
nguyên nhân của chúng.
3.1. Những mặt hạn chế của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc.
Bên cạnh những thành công nh đã nêu trên, việc thực hiện chủ trơng
cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc ở nớc ta cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế:
- Hạn chế rõ nhất trong việc thực hiện chủ trơng cổ phần hoá là tiến
độ cổ phần hoá còn chậm. Vốn Nhà nớc trong các Doanh nghiệp nhà nớc đã
cổ phần hoá còn nhỏ và việc huy động vốn trong quá trình cha đợc nhiều,
thời gian tiến hành cổ phần hoá một doanh nghiệp còn quá dài. So với đề án
đợc Thủ tớng Chính phủ phê duyệt thì số Doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ
phần hoá cha đạt 80%, số lợng Doanh nghiệp nhà nớc đợc cổ phần hoá
trong năm 2005 tuy đạt con số 754 đơn vị, nhng nếu so với yêu cầu của Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX là phải hoàn thành
về cơ bản việc cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nớc vào năm 2005 là cha đạt.
Theo báo cáo kết quả khảo sát của Dự án hỗ trợ kỹ thuật giám sát
chuyển đổi sở hữu Doanh nghiệp nhà nớc tại 934 doanh nghiệp đã cổ phần
hoá cho thấy, thời gian cổ phần hoá doanh nghiệp tuy đã giảm đợc 512 ngày
(năm 2001) xuống còn 437 ngày (năm 2004) nhng vẫn còn dài. Trong đó
chia theo các giai đoạn sau:
STT Nội dung công việc Số ngày thực hiện
1
Thành lập ban đổi mới doanh nghiệp
bắt đầu định giá
135 ngày
2
Bắt đầu định giá - quyết định giá trị doanh
nghiệp
135 ngày
3
Quyết định giá trị doanh nghiệp phê
duyệt phơng án cổ phần hoá
66 ngày
4
Phê duyệt phơng án cổ phần hoá - bắt
đầu bán cổ phần
24 ngày
5
Bắt đầu bán cổ phần hoàn thành bán cổ
phần
38 ngày
6 Hoàn thành bán cổ phần - đại hội cổ đông
15 ngày
7 Đại hội cổ đông - đăng ký kinh doanh 24 ngày
8 Tổng cộng 437 ngày
Việc cổ phần hoá các Tổng công ty diễn ra rất ì ạch. Đã có chủ trơng cổ
phần hoá Ngân hàng Ngoại thơng Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng
Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long từ 2 năm nay nhng nay mới nhỉ
dừng lại ở mức chuẩn bị : vạch lộ trình và cách thức cổ phần hoá và dự kiến
đến hết năm 2007 mới có thể tiến hành Đại hội cổ đông. Cổ phần hoá Tổng
công ty Xuất khẩu xây dựng (VINACONEX) cũng nằm trong tình trạng tơng
tự.
- Chuyển sang công ty cổ phần doanh nghiệp trở thành đa sở hữu về
vốn. Nhng thực tế trong số gần 3000 doanh nghiệp đã cổ phần hoá thì chỉ có
30%, Nhà nớc không giữ đồng vốn nào: 29%, Nhà nớc giữ cổ phàn chi phối
trên 51%. Cũng trong số gần 3000 doanh nghiệp thì Nhà nớc cũng nắm lại
46,5% vốn điều lệ. Điều này cho thấy mặc dù đã cổ phần hoá nhng Nhà nớc
vẫn là cổ đông lớn nhất, đồng thời phần lớn các công ty cổ phần đợc thành
lập theo cách này đang đợc Nhà nớc nắm cổ phần chi phối. Điều đáng nói
là tỷ lệ vốn điều lệ mà Nhà nớc còn nắm tại các công ty cổ phần không giảm
mà ngày càng tăng. Nếu thời kỳ đầu (1992-1998) tỷ lệ cổ phần mà Nhà nớc
nắm trong các công ty cổ phần là 28%, thì đến thời kỳ 2001-2004 tỷ lệ này lên
tới 49,8% và hiện nay bình quân là 46,5%. Một thực tế khác, cổ đông là
ngời lao động chỉ chiếm 15%. Cũng trong gần 3000 doanh nghiệp nói trên,
chỉ có 25 doanh nghiệp có Nhà nớc đầu t nớc ngoài. Theo đánh giá của
nhiều chuyên gia kinh tế thì đây là cơ chế không thoả đáng.
- Mặc dù có chuyển biến trong năm 2005 là đã có những doanh
nghiệp làm ăn có hiệu quả, có quy mô vốn lớn và một số tổng công ty đang cổ
phần hoá, nhng nhìn chung đại đa số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá đều
có vốn Nhà nớc quá nhỏ. Số lợng các doanh nghiệp cổ phần hoá có quy mô
vốn Nhà nớc dới 5 tỷ đồng chiếm tới gần 60%, chỉ có 18,5% số doanh
nghiệp cổ phần hoá có quy mô vốn Nhà nớc trên 10 tỷ đồng. Điều đó dẫn