7
Tăng cờng sức mạnh vật chất làm chỗ dựa để nhà nớc
thực hiện có hiệu lực chức năng điều tiết cơ chế thị trờng.
KTNN không những định hớng sản xuất, mà còn chi phối các
chính sách xã hội kiềm chế đợc khuynh hớng độc quyền và
tự phát của kinh tế thị trờng, bởi lẽ trong kinh tế thị trờng
tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau vừa có những tích
cực đồng thời có cả những hạn chế tiêu cực, do đó cần phải có
một "bàn tay" can thiệp chỉ đạo và hạn chế khắc phục những
tiêu cực đó. ở đây chúng ta nói đến TPKT chủ đạo đảm nhận
vai trò này - nó phải có một sức mạnh vật chất đủ lớn mới có
thể thực hiện tốt nhất. Với những đặc điểm nh đã nói trên
đây, chúng ta nhận thấy rằng KTNN có đủ khả năng để hoàn
thành nhiệm vụ đó, với sản lợng giá trị hàng hoá và dịch vụ
công cộng tơng đối lớn tạo ra đem lại khả năng chi phối đợc
giá cả thị trờng, dẫn dắt và định hớng thị trờng bằng chính
chất lợng và giá cả của sản phẩm và dịch vụ do mình cung
cấp.
KTNN tạo dần nền tảng kinh tế - xã hội cho đời sống.
Trong điều kiện nền kinh tế nớc ta, thu nhập của dân c thấp
kém, tích luỹ nhỏ nên việc đầu t lớn chỉ có thể thực hiện đợc
bằng vốn NN. Mặt khác, KTNN thông qua việc cung cấp hàng
hoá tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có tác dụng thúc đẩy lu
thông phân phối giữa các ngành và các khu vực, góp phần đảm
8
bảo việc xoá đói giảm nghèo, tiến hành các biện pháp trợ cấp
thờng xuyên, đột xuất, cho vay vốn để phát triển sản xuất,
góp phần khắc phục sự khác biệt giữa các vùng và qua đó làm
tăng tinh thần hoà hợp cộng đồng và ý thức đoàn kết dân tộc.
III-Những giải pháp cơ bản phát huy vai
trò chủ đạo của Kinh tế Nhà nớc
1. Những thành tựu mà KTNN đã đạt đợc trong
những năm qua
Thực tiễn cho thấy đến nay KTNN vẫn chiếm tỷ trọng lớn
trong nền kinh tế quốc dân ở nớc ta, nhất là các ngành công
nghiệp, xây dựng, vận tải, bu chính viễn thông, đờng sắt,
hàng khôngKTNN cũng đóng góp một phần đáng kể vào tỉ
trọng GDP trên 40% hàng năm và là lực lợng chủ yếu cung
cấp tài chính cho ngân sách nhà nớc 60%.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế, KTNN đang từng bớc
đổi mới. Về cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn, tổng sản phẩm
xã hội của KTNN giảm từ 37% năm 1998 xuống 34,5% năm
1990; thu nhập quốc dân giảm từ 28% xuống 27%; tổng sản
phẩm công nghiệp lại tăng từ 56,6% lên 57%; khối lợng vận
chuyển hàng hoá tăng từ 68% lên 72%. Trong việc thực hiện
9
cơ chế mới, một số cơ sở KTNN đã chủ động xác định và thay
đổi phơng thức kinh doanh, tìm thị trờng đầu ra, tạo thêm
nguồn vốn đi vay, trình độ kỹ thuật công nghệ đã đợc đổi
mới Nhờ đó, các cơ sở KTNN vẫn phát triển và kinh doanh
có lãi.
Do yêu cầu của thời kỳ đổi mới, từ năm 1989 thực hiện
chủ trơng sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nớc chúng ta đã
mạnh dạn cắt giảm một lợng đáng kể doanh nghiệp hoạt động
trong KTNN nhng không đem lại hiệu quả kinh tế từ khoảng
12.000 năm 1990 xuống còn 5340 vào tháng 8 năm 2000. Nhờ
đó, quy mô vốn tự có và vốn ngân sách cấp cho các cơ sở
doanh nghiệp tăng lên; các doanh nghiệp có thêm vốn đầu t,
hiện đại hoá máy móc thiết bị, giúp cho năng suất lao động
nâng cao đem lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, sau khi sắp xếp
lại tổ chức sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nhiều doanh
nghiệp đã chủ động sáng tạo tiếp cận thị trờng xã hội và đã
đứng vững, sản xuất kinh doanh có lãi, nguồn thu nộp ngân
sách nhà nớc chiếm 61%.
(1)
2. Những hạn chế, vớng mắc trong quá trình phát
triển
(1)
Báo cáo của Bộ Tài chính về các chỉ tiêu chủ yếu, tháng 3-1993.
10
Trớc hết, do chủ quan, duy ý chí và nóng vội đi lên
CNXH nên trớc năm 1986 chúng ta xoá bỏ mọi thành phần
kinh tế mà chỉ tập trung phát triển kinh tế nhà nớc.
Hiện nay, trên thực tế đã có một số cơ sở kinh tế quốc
doanh phải ngừng sản xuất vì chất lợng sản phẩm và hiệu quả
kinh tế quá thấp không đáp ứng yêu cầu của thị trờng, thậm
chí có loại không có nhu cầu sử dụng.
Một biểu hiện tiêu cực của KTNN là nền tài chính xí
nghiệp tồi tệ, do quy mô nhỏ nên nhìn chung các DNNN đang
đối mặt với tình trạng thiếu vốn để sản xuất - kinh doanh. Thực
tế vốn chỉ hoạt động khoảng 80%, số còn lại ở trong tình trạng
nằm chết. Tình trạng thiếu vốn làm cho DNNN không có khả
năng đầu t, đổi mới công nghệ, thiết bị, nên hàng hoá sản
xuất ra kém tính cạnh tranh.
Bộ phận đội ngũ cán bộ trong các DNNN đa số từ cơ chế
cũ chuyển sang điều hành xí nghiệp trong cơ chế mới nên
thiếu tác phong công nghiệp, thiếu kinh nghiệm quản lý cũng
nh kiến thức, trình độ năng lực của một nhà doanh nghiệp
giỏi.
Nguyên nhân của những hạn chế:
11
Những nguyên nhân hoạt động kém hiệu quả của KTNN
có thể khái quát nh sau:
Nhà nớc ít vốn, song lại đầu t dàn trải, chủ yếu là giữ
cho doanh nghiệp tồn tại, chứ cha đủ sức phát triển và cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trờng.
Chế độ phân phối trong xí nghiệp của KTNN không phù
hợp với kết quả sản xuất kinh doanh, không có sự gắn bó chặt
chẽ giữa lợi ích vật chất và trách nhiệm vật chất với năng suất
lao động do đó không khuyến khích đợc sản xuất.
Tuy chính phủ là ngời chủ sở hữu những t liệu sản xuất
chủ yếu nhng sự nắm bắt tình hình, điều hành quản lý không
có hiệu quả cao, không có sự chăm lo bảo toàn và phát triển
vốn và không có ai chịu trách nhiệm trực tiếp khi mất mát,
thua lỗ.
Cán bộ quản lý chủ chốt thiếu tiêu chuẩn lãnh đạo, thiếu
trách nhiệm trớc tập thể cũng nh trớc cơ quan Nhà nớc.
Nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong sản xuất kinh doanh
của các DNNN, hiệu quả sản xuất không cao là do sự ỷ lại vào
Nhà nớc, toàn bộ nguồn vốn, kế hoạch phát triển không cao
12
là do sự ỷ lại vào Nhà nớc, toàn bộ nguồn vốn, kế hoạch phát
triển do nhà nớc đặt ra nên sự sáng tạo, năng động của doanh
nghiệp mất hẳn. Bên cạnh đó vị trí độc quyền đã làm mất đi
động lực quảntọng trong việc nâng cao hiệu ủa hoạt động kinh
doanh của các xí nghiệp nhà nớc. Sự độc quyền đã làm khu
vực KTNN trở nên trì trệ, kém năng động trong việc cải tiến,
đổi mới thiết bị, công nghệ và sản phẩm, tự nó trở thành nhân
tố kìm hãm hoạt động của xí nghiệp.
Nhà nớc cha có chính sách phù hợp trong đào tạo nhân
công kỹ thuật tay nghề cao trong các lĩnh vực các ngành nghề
cần chuyên môn, mà chỉ chăm lo cho bộ máy quản lý, dẫn đến
tình trạng "nhiều thầy ít thợ". Đặc biệt cha có kế hoạch đào
tạo bồi dỡng các nhà doanh nghiệp về luật pháp, về kiến thức
kinh doanh.
Trình độ trang bị cơ sở vật chất- kỹ thuật và công nghệ
sản xuất của khu vực KTNN nói chung là lạc hậu, chắp vá,
công suất sử dụng máy móc thiết bị không cao, năng suất và
chất lợng sản phẩm thấp, không đủ sức cạnh tranh trên thị
trờng thế giới.
Trong nhiều năm, KTNN đã đợc bao cấp. Trong hầu hết
các lĩnh vực của nền kinh tế, lực lợng KTNN giữ vị trí độc