Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Winston Churchill docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (925.36 KB, 48 trang )


Winston Churchill





Sir Winston Leonard Spencer Churchill (1874-1965) là một trong các chính khách
danh tiếng nhất trong Lịch Sử Thế Giới và cũng là một bậc vĩ nhân của nước Anh.
Vào năm 1895, ông Winston Churchill phục vụ quân đội Anh với cấp bậc Trung
Uy dưới thời đại của Nữ Hoàng Victoria, ông về hưu vào năm 1964 khi làm Dân
Biểu trong triều đại của Nữ Hoàng Elizabeth II, cháu 4 đời của Nữ Hoàng
Victoria. Ít có người công dân nào phục vụ Tổ Quốc Anh lâu như ông Churchill.
Sau khi Thế Chiến Thứ Hai bùng nổ, một mình nước Anh phải chịu đựng cuộc
chiến chống lại Đức Quốc Xã. Thủ Tướng Churchill khi đó đã dùng lới nói, niềm
tin và lòng can đảm cá nhân để thúc đẩy mọi người dân nước Anh phải kiên nhẫn,
chiến đấu đến toàn thắng. Hình ảnh của ông là một nhân vật bệ vệ, luôn luôn có
điếu thuốc xì-gà trên miệng và hai ngón tay giơ lên theo hình chữ V, tượng trưng
cho chữ Victory là chiến thắng, đã mang lại niềm tin cho dân chúng nước Anh, dù
cho khi ông Churchill thăm viếng cảnh đổ nát gây nên bởi oanh tạc cơ Đức Quốc
Xã, hay khi ông ra nước ngoài, vận động vì chiến thắng và hòa bình. Ông
Churchill đã từng tuyên bố chỉ cống hiến cho dân tộc Anh "máu, công sức khó
nhọc, nước mắt và mồ hôi" để giúp cho người dân nước Anh bảo vệ được Tự Do
của họ.
Không những là một nhân vật lịch sử, một chính khách danh tiếng, Sir Winston
Churchill còn là một phóng viên chiến trường, một chiến sĩ, một diễn giả, môt sử
gia và một nhà văn xuất sắc. Sir Winston Churchill đã quán triệt được Ngôn Ngữ
Anh, đã đọc nhiều bài diễn văn và viết ra nhiều tác phẩm bằng lời văn rõ ràng,
trong sáng, hùng hồn. Năm 1953, Giải Thưởng Nobel về Văn Chương đã được
trao tặng cho ông. 10 năm sau, 1963, Quốc Hội Hoa Kỳ cũng vinh danh Sir
Winston Churchill là Công Dân Danh Dự của Hiệp Chủng Quốc.



1/ Thuở thiếu thời của Winston Churchill.
Winston Leonard Spencer Churchill chào
đời vào ngày 30 tháng 11 năm 1874 trong lâu
đài Blenheim tại miền Oxforshire, nước Anh.
Winston là trai lớn trong hai người con trai của
Lord Randolph Churchill (1849-1895) và bà
Jennie Jerome (1854-1921), một phụ nữ Hoa Kỳ
nổi tiếng về sắc đẹp. Lord Randolph là con trai thứ ba của Hầu Tước thứ bẩy thuộc
giòng họ Marlborough. Vị Hầu Tước thứ nhất là Sir John Churchill, một vị đại
tướng đã chiến thắng tại Bleinheim, nước Đức, vào năm 1704 nên được phong
chức Hầu Tước Marlborough. Cha và mẹ của Winston đã gặp nhau tại thành
phố New York rồi thành hôn tại thành phố Paris vào năm 1874.
Cũng giống như các con trẻ thuộc các gia đình quyền quý của nước Anh,
Winston ít khi được gặp cha mẹ: họ đang bận rộn vì nhiều công việc xã hội, chính
trị, bởi vì Lord Randolph là thủ lãnh của đảng Bảo Thủ. Winston được giao cho
một người vú nuôi chăm sóc trong suốt thời kỳ thơ ấu và tên của bà này là Everest.
Winston vẫn thương nhớ mẹ, và về sau đã ghi lại như sau: "mẹ tôi sống xa tôi như
Ngôi Sao buổi chiều. Tôi yêu mẹ tôi lắm, nhưng luôn luôn từ xa".



Năm Winston được 6 tuổi, một người em trai
ra đời và được đặt tên là John. Khoảng cách về
tuổi tác đã khiến cho hai anh em không thân mật
với nhau. Cũng vào tuổi này, Winston được dạy
tập đọc, tập làm toán, nhưng sở thích của cậu bé là
chơi với bộ đồ chơi gồm nhiều người lính bằng
chì, cao khoảng 2 tới 3 inches, mặc quân phục và
sơn màu sặc sỡ. Với bộ đồ chơi này, Winston đã cùng một người bạn tập dàn các

thế trận giả tưởng. Cậu bé Winston vào luc này cũng yêu thích đọc sách, nhưng
lại ghét môn Toán học.



Vào tuổi lên 7, Winston được gửi tới trường Saint James, một trường nội trú chủ
trương kỷ luật rất nghiêm khắc, thường dùng roi vọt để trừng phạt học sinh. Sau
hơn hai năm chịu đựng gian nan tại ngôi trường này, nhờ lời năn nỉ của bà vú nuôi
và lời cố vấn của bác sĩ gia đình, Winston được chuyển về học tại một ngôi trường
nhỏ hơn, gần thị trấn nghỉ mát Brighton. Ngôi trường này do hai bà giáo đứng tuổi
trông nom với kỷ luật nhẹ nhàng hơn và tại nơi đây, Winston được học về tiếng
Pháp, Lịch Sử và Văn Thơ. Nhà trường cũng dạy cho học sinh về Kịch Nghệ và
Winston cũng ưa thích bộ môn này.
Sau ba năm vui sướng theo học trường Brighton, Winston phải theo bậc trung học.
Sir Randolph đã nạp đơn cho con trai vào trường Harrow, một cơ sở giáo dục danh
tiếng không thua gì Trường Eton. Muốn được nhận vào trường này, học sinh phải
vượt qua nhiều bài thi tuyển. Winston đã không đủ điểm về môn La Tinh nhưng vì
là con trai của Lord Randolph danh tiếng nên vị hiệu trưởng đặc biệt chấp nhận
Winston vào trường. Vào ngày nhập học, các học sinh xếp hàng theo thứ tự điểm
đậu, từ xuất sắc xuống rất kém và cậu Winston đã cảm thấy xấu hổ khi đi cuối
cùng vào hội trường trước các con mắt của những người quen biết gia đình.
Do kém về tiếng La Tinh, Winston được học nhiều hơn về tiếng Anh với bà giáo
Somerwell, người đã dạy văn phạm và văn chương khác hẳn với các giáo sư khác
và đã khiến cho Winston yêu thích ngôn ngữ Anh. Một thành tích của cậu Winston
là đã đọc thuộc lòng 1,200 câu thơ trong cuốn thơ "Lays of Ancient Rome" (các
bài thơ kể về Đế Quốc La Mã cổ) của nhà thơ và sử gia người Anh tên là Thomas
Macaulay.
Trong thời gian bốn năm rưỡi theo học tại trường Harrow, Winston phải chọn 1
trong 3 ngành dành cho con cháu của các gia đình quý tộc, đó là Luật Pháp (để
theo đuổi chính trị), Tôn Giáo (để làm nghề tu sĩ) hay Quân Đội (sau này trở thành

sĩ quan), còn các ngành học chuyên môn khác như Y Khoa, Khoa Học, Thương
Mại … được coi là chỉ thích hợp với các trẻ em của giới trung lưu. Nhân một hôm
nhìn thấy con trai đang bày chiến trận với các người lính bằng chì, Lord Randolph
cho rằng việc gia nhập quân đội thích hợp với các đứa trẻ có trí thông minh bị giới
hạn và hợp với sở thích của Winston.
Năm 1893 vào tuổi 18, Winston Churchill theo học Học Viện Quân Sự Hoàng Gia
(the Royal Military College) tại Sandhurst. Đây là trường Võ Bị có danh tiếng
giống như trường West Point tại Hoa Kỳ. Tại trường Sandhurst, kỷ luật rất chặt
chẽ, việc học dài và nghiêm minh, ngoài các môn học căn bản các sinh viên được
học về Luật Pháp, Chiến Thuật và phép vẽ bản đồ. Trong dịp này, Winston bắt đầu
làm quen với môn Lịch Sử Thế Giới, Lịch Sử Quân Sự cùng các câu chuyện về
những cuộc chiến tranh đã qua. Winston Churchill cũng bị ám ảnh bởi các trận
đánh của Napoléon. Trước mùa Giáng Sinh năm 1894, Winston Churchill tốt
nghiệp Học Viện Quân Sự Sandhurst với hạng 8 trong số 150 tân sĩ quan. Hơn
một tháng sau khi Winston ra trường, Lord Randolph đã qua đời vào ngày 24-1-
1985 thọ 47 tuổi.

2/ Quân nhân và phóng viên.
Vào tháng 3 năm 1895, Winston Churchill rời khỏi Học Viện Quân Sự với
cấp bậc Trung Uy và mong được biết tới các cuộc mạo hiểm, các cuộc chiến. Vào
thời kỳ đó, chỉ có tại xứ Cuba cuộc nổi loạn của người dân địa phương chống lại
chính quyền cai trị Tây Ban Nha. Hơn 80,000 lính Tây Ban Nha đã được gửi qua
xứ Cuba để dùng vào công tác bình định. Luật lệ của sĩ quan người Anh là phải
phục vụ quân đội trong 7 tháng. Winston Churchill muốn dùng 5 tháng nghỉ ngơi
để đi Cuba làm quan sát viên. Ông đã thương lượng với nhật báo The Daily
Graphic, tờ báo hàng đầu của thành phố London, để viết các bài tường thuật về
chiến cuộc. Do sự giúp đỡ của vị Đại Sứ Anh và với sự vận động của gia đình,
Winston Churchill được cấp giấy phép rồi cùng một người bạn sĩ quan tên là
Reginald Barnes xuống tầu qua New York vào mùa thu năm 1895. Họ tới thành
phố Havana, Cuba, vào tháng 11 năm đó. Người Cuba vào thời bấy giờ đã dùng

chiến thuật du kích để đánh lén quân đội Tây Ban Nha và khi đi quan sát các mặt
trận, Winston Churchill đã bị bắn hụt nhiều lần. Trước tình hình lực lượng nổi dậy
không thể thắng nổi cuộc chiến, ông Churchill đã tiên đoán rằng người Tây Ban
Nha cũng gặp tình trạng tương tự. Cuối cùng vào năm 1898, Hoa Kỳ đã đánh
thắng người Tây Ban Nha, giúp cho xứ Cuba giành được độc lập.
Sau khi trở về từ xứ Cuba, Winston Churchill phục vụ một trung đoàn Anh
đóng tại Ấn Độ. Vào thời kỳ đó, Ấn Độ là một thuộc địa của nước Anh và nhiều
đoàn quân Anh đồn trú trên xứ Ấn Độ để bảo vệ các cơ sở chính quyền và thương
mại. Đời sống quân nhân tại Ấn Độ của một sĩ quan như Winston Churchill đã
không gặp vất vả và nguy hiểm. Từ 6 giờ sáng là thời gian tập dượt, kéo dài 1 giờ
30, sau đó là giờ ăn điểm tâm. Từ 9 tới 12 giờ trưa là giờ hành chánh, các sĩ quan
lo đọc và viết các văn thư. Kế tới là bữa ăn trưa kéo dài 1 giờ 30 phút rồi tới giấc
ngủ trưa, cho tới 5 giờ chiều bắt đầu thời gian giải trí, gồm chơi "polo" hay các thứ
khác. Winston Churchill bắt đầu yêu thích chơi polo từ lúc này.
Vào thời gian rảnh rỗi này, Winston Churchill bắt đầu đọc các sách do mẹ
gửi qua từ nước Anh: các tác phẩm viết về các nhà triết học người Hy Lạp như
Socrates, Plato, Aristotle, các công trình khoa học của Charles Darwin, các sách
về kinh tế của Adam Smith và Thomas Malthus, nhưng ông ưa thích nhất bộ sách
lịch sử "Suy Tàn và Sụp Đổ của Đế Quốc La Mã" của Edward Gibbon.
Từ năm 1897 tại từng phần của xứ Ấn Độ, đã có vài cuộc nổi dậy chống lại
người Anh. Vào mùa hè năm đó, bộ lạc Pathan thuộc miền tây bắc đã cầm súng
vùng lên. Winston Churchill được vị chỉ huy đoàn quân thứ 4 Hussars là Sir
Bindon Blood nhận làm phóng viên chiến trường. Người Ấn Độ được trang bị
nghèo nàn, làm sao thắng được đội quân Anh hùng hậu. Sau chiến thắng này,
Winston Churchill đã có đủ kinh nghiệm và tài liệu để viết ra cuốn sách đầu tiên
với tên là "Câu chuyện của lực lượng dã chiến Malakand" (the Story of the
Malakand Field Force), mô tả về thành tích của Sir Bindon.
Cuốn sách do Winston Churchil viết ra, do nhiều đặc tính xuất sắc, đã khiến
cho các nhân vật cao cấp trong chính quyền Anh tại London phải chú ý. Trong
một lần đi về phép, Winston Churchill được mời gặp Thủ Tướng Anh là Lord

Salisbury và ông này đã hứa sẽ giúp đỡ Churchill khi cần. Vào mùa hè năm 1898,
một đoàn quân Anh khác đang hoạt động tại xứ Sudan thuộc châu Phi, để dẹp cuộc
nổi dậy địa phương có tên là Whirling Dervishes. Winston Churchill yêu cầu Thủ
Tướng Anh cho ông được theo đoàn quân Anh do Lord Earl Kitchener chỉ huy,
nhưng Lord Kitchener vì không ưa lời nói bộc trực của Churchill nên đã không
chấp nhận ông vào ban tham mưu. Trong trận đánh Omdurman, Winston Churchill
đi trong đội kỵ binh cuối cùng và bị quân Dervishes phục kích, giáp chiến. Trong
lần giao tranh này, ông đã phải dùng gươm và súng bắn hạ kẻ địch trong tầm tay,
rồi sau đó kết quả là cuốn sách "Trận Chiến Giòng Sông" (the River War) được
xuất bản, mang lại danh vọng cho Churchill là một nhà văn có tài và một nhà mạo
hiểm.
Nhờ đã có danh tiếng, Winston Churchill chọn con đường chính trị nên nạp
đơn xin phục vụ đảng Bảo Thủ, là đảng phái của cha mình khi trước, và được chỉ
định nói chuyện trước câu lạc bộ của đảng Bảo Thủ tại tỉnh Bath. Sau buổi nói
chuyện đó, nhà bình luận của tờ báo Daily Mail đã phải khen ngợi Winston
Churchill và một tờ báo khác lại tiên đoán ông có thể trở thành "một lãnh tụ bình
dân, một nhà báo danh tiếng hay một nhà sáng lập ra một cơ sở quảng cáo".
Buổi nói chuyện của Winston Churchill là bước đầu trong sự nghiệp chính trị
của ông. Nước Anh vào thời kỳ này cũng theo đuổi thể chế dân chủ nhưng Quốc
Hội Anh gồm hai Viện. Viện Dân Biểu được gọi tên là The British House of
Commons, tương đương với Hạ Viện Hoa Kỳ, còn Thượng Viện được gọi là The
House of Lord, ít có quyền hành hơn, gồm các nhân vật nhận lãnh chức tước theo
thừa kế hay do chỉ định bởi nhà Vua hoặc Nữ Hoàng. Nước Anh không có Tổng
Thống, quyền hành pháp thuộc về Thủ Tướng, là nhân vật của Viện Dân Biểu,
được bầu ra từ đảng chiếm đa số ghế. Vào mùa hè năm 1899, có hai ghế Dân Biểu
trống thuộc thành phố kỹ nghệ Oldham ở mạn tây bắc. Đảng Bảo Thủ đã chọn
Winston Churchill làm một ứng viên. Sau cuộc bỏ phiếu, Winston Churchill đã
gặp thất bại dù rằng ông có danh tiếng và đã vận động tranh cử tích cực. Nhưng
ông không nản lòng về kinh nghiệm ban đầu này.
Winston Churchill là một con người nhiều tham vọng và nghị lực. Sau lần

thất bại đầu tiên về tranh cử, ông trù liệu dấn thân vào các công tác khác. Hai cuốn
sách của ông đã được xuất bản và thuộc loại bán chạy nhất, nên đã mang về cho
ông một lợi tức vào khoảng 50,000 bảng Anh. Đây là một món tiền lớn đối với
thời bấy giờ. Vào năm 1899, Churchill xin ra khỏi quân đội Anh để chuẩn bị một
chuyến mạo hiểm khác.
Vào thời đó, một trận chiến khác đang diễn ra tại xứ Nam Phi thuộc châu
Phi. Đây là một miền đất do người Anh và người Hòa Lan xâm chiếm. Người Hòa
Lan, được gọi là người Boers hay Dutch Afrikaaneers, đã tới miền cực nam của
châu Phi vào đầu thế kỷ 16 để tìm tự do tôn giáo và một đời sống mới, đồng thời
với nhóm người Pilgrims từ nước Anh dùng tầu thuyền qua Bắc Mỹ. Người Anh
đặt chân lên châu Phi trễ hơn, bắt đầu bằng một thuộc địa tại Cape Town. Khởi
đầu do Sir Cecil Rhodes, người Anh đã tìm thấy trong đất đai của xứ Nam Phi có
rất nhiều vàng và kim cương. Tại xứ Nam Phi này, hai sắc dân Hòa Lan và Anh đã
không hòa hợp được với nhau. Vào năm 1881, người Boers, hay sắc dân gốc Hòa
Lan, nắm giữ được chính quyền trong khi người Anh làm chủ nhiều nhà máy và
nhiều tiền đồn đóng quân. Trong thập niên 1890, người Anh bắt đầu phản đối
chính quyền địa phương vì họ bị đánh thuế mà không có đại diện và tranh chấp đã
diễn ra, giống như tại miền Bắc Mỹ. Tới năm 1899, quân đội của người Boers đã
bao vây các trại quân Anh đồn trú tại hai thành phố Mafeking và Ladysmith.
Cuộc xung đột tại xứ Nam Phi đã làm cho Winston Churchill chú ý. Winston xin
được chân phóng viên chiến trường của tờ báo The London Daily Mail và vào
ngày 11-10-1899, xuống tầu đi Nam Phi. Vào cuối tháng 10 năm đó, Winston cập
bến Cape Town thì trận chiến đang diễn ra tại Ladysmith, cách đó 700 dậm về
phía tây bắc. Phải mất nhiều ngày dùng xe lửa và đi xe, Winston tới được thành
phố Durban hiện do người Anh chiếm đóng. Ngày 14-11 năm đó, một chuyến xe
lửa bọc thép chạy từ Durban tới Ladysmith do Đại Uy John Haldane chỉ huy. Viên
đại úy này đã mời nhà báo danh tiếng là Churchill cùng đi nhưng không may, đoàn
tầu đã lọt vào ổ phục kích của người Boers. Đại úy Haldane, Churchill và toàn thể
đội quân Anh đều bị bắt rồi bị giải về Pretoria, thủ phủ của người Boers, cách đó
300 dậm về phía bắc. Tất cả 6 sĩ quan và các người hầu bị nhốt trong một ngôi

trường học có hàng rào kẽm gai, còn gần 2,000 binh lính Anh bị giữ trong một
doanh trại gần đó. Như vậy, vào ngày sinh nhật thứ 21, Winston Churchill là một
tù binh chiến tranh. Cùng với đại úy Haldane và hai người khác, Winston
Churchill bàn kế hoạch vượt ngục. Vào nửa đêm ngày 11 tháng 12, Winston đã
trèo được ra ngoài hàng rào nhưng các người kia không ra được, nên ông đành
phải trốn đi một mình. Ông đã đi trong đêm tối, nhẩy lên một chiếc xe lửa. Do
mạo hiểm và gặp may mắn trên đường lẩn trốn, Winston được một người Anh
định cư tại xứ Nam Phi giúp đỡ nên tới được thị trấn Laurenco Marques, là thủ đô
của thuộc địa Bồ Đào Nha, cách xa Pretoria 300 dậm.
Winston Churchill đã ở lại Nam Phi trong nhiều tháng để tường thuật về cuộc
chiến tranh với người Boers, về việc giải vây hai thành phố Mafeking và
Ladysmith. Các bài viết của ông đã hấp dẫn độc giả tại nước Anh và cả tại Hoa Kỳ
rồi sau này được xuất bản thành sách, thuộc loại bán chạy nhất, có tên là "Từ
London tới Ladysmith".
Winston Churchill trở về nước Anh vào tháng 7-1900 và được đón mừng như một
vị anh hùng. Danh tiếng của Churchill được nhiều người biết tới nên đảng Bảo
Thủ Anh lại yêu cầu ông ra tranh cử tại thành phố Oldham, nơi mà trước kia ông
đã gặp thất bại. Trong cuộc vận động kỳ này, đảng Cấp Tiến (the Liberals) đã tìm
cách dèm pha ông nhưng chiến thuật của họ đã không có kết quả. Ngày 1-10-1900,
Winston Churchill được bầu vào Quốc Hội Anh.

3/ Hoạt động chính trị và lập gia đình.
Vào khoảng đầu thế kỷ 20, các đại biểu Quốc Hội không được trả lương, họ
phải sống bằng các nguồn lợi tức khác. Vì đã được coi là một anh hùng trong trận
chiến với người Boers, Winston Churchill được mời đi các nơi diễn thuyết và tại
mỗi địa điểm, ông được trả từ 500 tới 1,000 bảng Anh. Mỗi tuần lễ, Winston
Churchill đã nói trước khán giả 4 hay 5 lần và những người nghe đã hoan hô, cổ
võ ông như đối với các nhà vô địch thể thao.
Winston Churchill gặp một người Mỹ là thiếu tá Pond. Ông này thu xếp một
chuyến đi để Churchill qua Hoa Kỳ và Canada. Vào tháng 12 năm 1900, Winston

Churchill xuống tầu qua Bắc Mỹ để trình bày trước thính giả Hoa Kỳ về những
kinh nghiệm chiến tranh của ông. Churchill được thiếu tá Pond giới thiệu là "một
vị anh hùng trong 5 trận chiến, một tác giả của 6 cuốn sách và là thủ tướng tương
lai của nước Anh". Nhưng điều làm ông cảm động nhất là lời giới thiệu trong buổi
diễn thuyết tại thành phố New York bởi Đại Văn Hào danh tiếng Mark Twain, tác
giả các cuốn truyện kể về Tom Sawyers và Huckleberry Finn, mà độc giả Hoa Kỳ
ai cũng biết đến. Đại Văn Hào Mark Twain đã nói rằng ông Winston Churchill "có
cha người Anh và mẹ người Hoa Kỳ khiến cho ông là một người hoàn toàn". Khi
viếng thăm thủ đô Washington, Winston Churchill cũng được gặp Tổng Thống
McKinley và Phó Tổng Thống Theodore Roosevelt.
Tại thành phố New York, Winston còn gặp một người quen cũ, hiện nay là
một chính trị gia hàng đầu: ông Bourke Cochran. Cochran gốc người Ái Nhĩ Lan,
được giáo dục tại Pháp, di cư qua Hoa Kỳ lúc còn trẻ. Ông là một luật sư thành
công, một nhân vật có uy tín và một diễn giả hữu hạng. Cochran đã giúp đỡ và đối
xử với Winston Churchill như một người con, đã chỉ dạy cho Churchill các bí
quyết của tài hùng biện. Về chính trị, ông Cochran là một nhà cấp tiến, chủ trương
tự do mậu dịch giữa các quốc gia và chính quyền phải giúp đỡ dân nghèo. Ông
Cochran cũng cho rằng chính quyền Anh đối xử với người Boers tại Nam Phi là
sai nhầm và sắc dân Ái Nhĩ Lan đứng về phía các người Boers. Tư tưởng của ông
Bourke Cochran đã ảnh hưởng tới Winston
Churchill về sau này.
Vào ngày 22-1-1901, Nữ Hoàng Victoria
qua đời sau khi đã trị vì 64 năm, lâu nhất trong
lịch sử vương quyền của thế giới. Vị Vua mới
của nước Anh là Edward VII kêu gọi Quốc Hội
họp vào giữa tháng 2. Ngày 2 tháng này là ngày
An Táng của Nữ Hoàng và cũng là ngày
Winston Churchill xuống tầu từ hải cảng Boston
để trở về nước Anh. Ngày 14-2, lần đầu tiên
Churchill tham dự Quốc Hội Anh, ông đã lên tiếng trên diễn đàn Quốc Hội, yêu

cầu cách đối xử tử tế đối với người Boers tại Nam Phi. Lời nói của Churchill đã
được cả hai đảng Bảo Thủ và Cấp Tiến cũng như giới báo chí Anh khen ngợi mặc
dù Winston Churchill không đồng ý với đường lối của đảng Bảo Thủ.
Winston Churchill xuất thân từ giai cấp quý tộc của nước Anh nhưng ông lại
lo lắng về các điều kiện làm việc và gia cư của giới công nhân, của giới dân
nghèo. Ông cũng nhớ lại người mẹ nuôi khi trước, bà Everest, nay đã già và loại
người này không được chính quyền giúp đỡ khi tuổi cao không cho phép họ làm
việc như trước kia. Vì vậy, ông hô hào lập nên quỹ an sinh xã hội. Thời gian bị
cầm tù ngắn hạn tại Pretoria cũng làm cho Winston Churchill suy nghĩ về tình
trạng nhà tù và ông tìm kiếm các đạo luật cải thiện các nhà giam. Vào tháng 3 năm
1904, Winston Churchill chỉ trích chính quyền Anh, cho rằng họ phí phạm ngân
quỹ khi đòi hỏi chi tiêu nhiều hơn về Lục Quân và để phản đối bài diễn văn của
ông, Thủ Tướng Anh thời đó và vài nhân vật đã bước ra khỏi phòng họp của Quốc
Hội. Một tháng sau, ông lại ủng hộ quyền của công nhân được thành lập nghiệp
đoàn, khiến cho các báo chí của phe bảo thủ gọi ông là "cấp tiến" (radical).
Winston Churchill luôn luôn lên tiếng bênh vực cho những gì ông tin là có lợi cho
đất nước Anh.
Tới ngày 31-5-1904, trong phòng họp Quốc Hội, Winston Churchill đã bỏ
chỗ ngồi bên phe Bảo Thủ để qua phía Cấp Tiến, ngồi cạnh ông David Lloyd
George. Tới năm sau, Winston Churchill đắc cử Dân Biểu từ thành phố
Manchester, một nơi đa số người dân thuộc đảng Bảo Thủ. Vào năm này, đảng
Cấp Tiến thắng lớn trong cuộc bầu cử và Tân Thủ Tướng là Sir Henry Campbell
Bannerman đã mời Winston Churchill giữ một chân trong Nội Các: Thứ Trưởng
Bộ Thuộc Địa. Nhưng khi ông Thủ Tướng bất ngờ qua đời, Herbert Asquith trở
nên Thủ Tướng và Lloyd George trở thành Bộ Trưởng Ngân Khố, thì Winston
Churchill được thăng chức lên làm Bộ Trưởng Thương Mại. Tới lúc này, bởi vì
Winston Churchill đã thay đổi từ đảng Bảo Thủ sang đảng Cấp Tiến, nên theo nội
quy, ông phải tranh cử lại và kỳ này, ông đã đắc cử dễ dàng tại thành phố Dundee,
thuộc xứ Tô Cách Lan.
Trong cuộc vận động

tranh cử tại thành phố
Dundee, Winston
Churchill đã gặp cô
Clementine Hozier, một
thiếu nữ thuộc gia đình Tô
Cách Lan thượng lưu
nhưng không giàu có, nên
phải làm nghề dạy trẻ. Vào
lúc này, Winston 33 tuổi
và cô Clementine 23, vóc người cao, có sắc đẹp và bệ vệ. Họ tìm thấy ở nhau
nhiều điều hợp ý, không phải chỉ về các quan điểm chính trị. Vào ngày 12-9-1908,
họ làm lễ cưới tại Westminster Abbey, ngôi giáo đường danh tiếng nhất của thành
phố London và bà Clementine luôn luôn đứng cạnh chồng trong những giờ phút
khó khăn nhất. Họ đã sống hạnh phúc bên nhau trong các năm trước Thế Chiến
Thứ Nhất với hai đứa con chào đời: Diana sinh năm 1910 và Randolph năm 1912.
Gia đình Churchill này có người con thứ ba là Sarah vài tháng sau khi Thế Chiến
bùng nổ, rồi Marigold là người con gái thứ tư chào đời vào năm 1918 và cuối cùng
là cô gái Mary sinh năm 1922.
Kể từ năm 1908 tới khi Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ, Winston Churchill đã
nắm giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền Anh, ông luôn luôn tìm các đạo luật
tăng lương cho công nhân và giảm thời gian làm việc, nhưng đây là giai đoạn căng
thẳng tại châu Âu. Nước Đức vào lúc này đang tăng cường lực lượng quân sự. Các
đạo quân Đức đang đe dọa miền Bắc Phi và Kênh Đào Suez, khi đó dưới quyền
kiểm soát của nước Anh. Vào năm 1911, tầu chiến Đức đã biểu dương sức mạnh
tại Morocco và hai chính phủ Pháp và Anh phải lên tiếng phản đối. Tại nước Anh,
một số nhân vật cao cấp hô hào nên tăng cường ngân quỹ cho quân lực và giảm
bớt việc trợ giúp dân nghèo. Hoàn cảnh này đã làm cho Winston Churchill bối rối.
Tới năm 1913, khi ông Herbert Asquith trở nên Thủ Tướng, Winston Churchill
được mời giữ Bộ Trưởng Hải Quân. Từ nay, ông Churchill có cơ hội thi hành các
quyền lực dành cho mình.


4/ Winston Churchill và Thế Chiến Thứ Nhất.
Vào cuối thế kỷ 19, nước Đức trước kia gồm nhiều vương quốc, đã được
thống nhất thành một quốc gia hùng mạnh đặt dưới quyền cai trị của Hoàng Đế
Wilhelm II. Giống như nước Anh và nước Pháp, nước Đức cũng sở hữu nhiều
miền đất thuộc địa tại châu Phi và châu Á, trong khi đó người Đức đang lo tăng
cường sức mạnh quân sự. Nước Đức đã liên kết với Đế Quốc Áo-Hung, với vài
quốc gia tại miền Balkan và với nước Thổ Nhĩ Kỳ. Đối nghịch với khối quân sự
này là liên minh các nước Anh, Pháp, Nga và Ý.
Trước đe dọa của chiến tranh, Winston Churchill phải lo lắng cải tiến ngành
Hải Quân. Ông đi xem xét từng chiến hạm, đề nghị cải tiến loại tầu chiến dùng
than thành loại dùng dầu nhờ vậy các tầu chiến có thể nhận tiếp liệu trên mặt biển.
Các đại pháo đặt trên tầu chiến cũng được thay từ loại 13 inches sang loại 15
inches có tầm bắn xa hơn và sức công phá mạnh hơn. Winston Churchill cũng tìm
cách cải thiện đời sống của các binh sĩ trên tầu, ra lệnh cho họ tập dượt để sẵn
sàng ứng phó khi cuộc chiến diễn ra. Vào năm 1912, Winston Churchill đã tiên
liệu vai trò quan trọng của máy bay trong các cuộc chiến tương lai, nên ông đã cho
thành lập một ngành Không Quân trong Bộ Hải Quân "để bảo vệ các hải cảng và
tầu dầu của nước Anh".
Ngày 18-6-1914 tại Sarajevo thuộc xứ Serbia, ngày nay là Nam Tư, một
thanh niên 17 tuổi đã ám sát ông Hoàng Ferdinand Charles và bà vợ Katharine.
Biến cố này đã gây nên Thế Chiến Thứ Nhất. Do sự việc kể trên, nước Áo tuyên
chiến với xứ Serbia. Xứ Serbia này được nước Nga bảo vệ cùng với đồng minh
của Nga là nước Pháp. Nước Đức là kẻ thù của nước Pháp và là đồng minh của
nước Áo, bèn tuyên chiến với hai nước Nga và Pháp trong khi đó, nước Anh cũng
chống lại nước Đức.
Khi quân đội Đức tràn qua nước Bỉ trung lập để tiến đánh sang nước Pháp,
quân đội Anh đã được chuẩn bị sẵn sàng. Winston Churchill do tiên liệu cuộc
chiến, nên đã chuẩn bị Hải Quân Anh và ông đã tiên đoán quân Đức sẽ đánh bại
quân Pháp tại giòng sông Meuse thuộc phía đông, và rồi người Đức sẽ thất bại tại

giòng sông Marne. Các lời tiên đoán của Winston Churchill đã rất chính xác,
nhưng ông Churchill không phải là không gặp thất bại. Khi quân đội Đức tràn vào
thành phố Antwerp của nước Bỉ, ông Churchill đã đích thân dẫn một toán lính
thủy Anh tới Antwerp để ngăn chặn quân Đức và ông đã mặc bộ quân phục Đề
Đốc Anh lộng lẫy, trông giống như đi đại hội hơn là ra chiến trường, và kết quả là
đoàn quân Anh và ông Churchill đã đại bại, phải bỏ chạy về hải cảng Dunkirk của
nước Pháp. Các báo chí Anh và các người chống đối ông Churchill đã chỉ trích sự
thất bại này, gọi đoàn quân Anh là "Đoàn Xiếc Antwerp".
Ông Churchill còn chịu trách nhiệm về một thảm cảnh chiến tranh nặng nề hơn.
Trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất, nước Thổ Nhĩ Kỳ đã đứng về phe Đức bằng
cách tấn công nước Hy Lạp. Khi đó người Thổ đang kiểm soát eo biển
Dardanelles, gần thành phố Constantinople (ngày nay gọi là Istanbul). Bởi vì
Dardanelles là cửa ngõ dẫn vào Biển Đen (the Black Sea) và nước Nga, nên muốn
cho các đồ tiếp liệu quân sự được chở tới nước Nga, các nước đồng minh Anh
Pháp phải tấn công Thổ Nhĩ Kỳ. Tư lệnh của lực lượng Anh thời đó là Lord
Kitchener đề nghị một chiến lược hành quân tấn công vào Dardanelles trong khi
các chuyên viên quân sự Anh cho rằng việc đánh bại quân Thổ và tăng cường cho
nước Nga sẽ làm cho chiến cuộc mau chấm dứt. Winston Churchill nghiên cứu kế
hoạch oanh tạc phối hợp với việc đổ bộ lên bờ biển. Thế nhưng, cuộc oanh tạc của
Hải Quân Anh tuy kéo dài, đã không tiêu diệt được quân Thổ Nhĩ Kỳ cố thủ tại
Dardanelles, trong khi quân tăng cường Đức được gửi tới. Trên bờ biển của bán
đảo Gallipoli, đoàn quân Thổ với võ khí tối tân, nằm trong các công sự phòng thủ
kiên cố, đã tàn sát hàng ngàn binh lính đổ bộ người Anh và người Uc trong 9
tháng trường của năm 1915. Winston Churchill đã nhận lãnh trách nhiệm về thảm
bại này. Để tránh cho đảng Cấp Tiến (the Liberal Party) không bị sụp đổ, các nhà
lãnh đạo đảng này đã mời đảng Bảo Thủ tham gia chính quyền nhưng đảng Bảo
Thủ đã ra điều kiện là ông Churchill phải bị gạt ra khỏi Nội Các mới. Vào tháng
11 năm 1915, Winston Churchill từ chức trong cảnh cay đắng nhưng ông vẫn còn
là một Dân Biểu trong Quốc Hội. Trong thời gian thất vọng này, Winston
Churchill tìm an ủi bên gia đình và ông đã khám phá ra một hoạt động tiêu khiển

mới, đó là bộ môn Hội Họa.
Thế Chiến Thứ Nhất vẫn tiếp diễn. Không bên nào thắng thế. Hàng triệu người
lính của hai phe Đức-Áo và đồng minh Anh-Pháp đã sống trong các chiến hào,
trong các hầm hố, bên trên có các bÁo cát và dây kẽm gai chằng chịt. Tháng 11
năm 1915, Winston Churchill tình nguyện tham chiến với cấp bậc Thiếu Tá, phục
vụ tại mặt trận của nước Pháp và ông đã nhiều lần thoát hiểm. Churchill đã mô tả
cuộc chiến là "tàn bạo và dữ tợn".
Sau 6 tháng ngoài trận tuyến, Winston Churchill xin từ chức và trở về London bởi
vì tiểu đoàn của ông được sát nhập với một đơn vị khác và ông không còn nắm
quyền chỉ huy nữa, đồng thời Lloyd George và vài chính khách khác cũng cho
rằng ông Churchill hữu ích hơn trong chính quyền. Từ các kinh nghiệm ngoài mặt
trận, Winston Churchill đã viết ra các bài chỉ trích các chiến lược của quân đội
Anh và ông cũng đề nghị nên phát triển loại "xe tăng" (the tank) để bảo vệ mạng
sống của các binh sĩ. Thực ra, ông Churchill không phải là người phát minh ra xe
tăng, nhưng ông đã đề nghị cách dùng dây xích để xe tăng leo qua được các hầm
hố, vượt qua các hàng rào kẽm gai và được dùng như một thứ pháo đài di chuyển
của bộ binh.
Vào tháng 4-1917, Hoa Kỳ tham chiến bên cạnh phe Đồng Minh, sự kiện này đã
làm gia tăng cơ hội chiến thắng. Cũng vào thời gian này, David Lloyd George đã
thay thế ông Herbert Asquith làm Thủ Tướng và các nhà lãnh đạo đảng Cấp Tiến
đề nghị Winston Churchill lãnh chức Bộ Trưởng Đạn Dược (minister of
munitions) và với nhiệm vụ này, ông Churchill sẽ làm việc gần gũi với ông
Bernard Baruch, vị bộ trưởng tương tự của Hoa Kỳ. Trong thời gian này, do các
việc làm cần mẫn và tốt đẹp, cộng tác với lực lượng quân sự Mỹ, ông Winston
Churchill được ân thưởng "Bội Tinh Phục Vụ Đặc Biệt" (the Distinguished
Service Cross) của Hoa Kỳ, do Tướng John Pershing, Tham Mưu Trưởng Hoa Kỳ,
trÁo lại.
Việc tham chiến của lực lượng quân sự Hoa Kỳ chống lại quân đội Đức đã có kết
quả, mặc dù quân Đức đã dùng tới võ khí hơi ngạt, gây tử vong khủng khiếp cho
phe đồng minh. Ngày 11-11-1918, nước Đức thua trận.


5/ Winston Churchill sau Thế Chiến Thứ Nhất.
Sau khi chiến tranh chấm dứt, Winston Churchill cùng một số người khác
nhận lãnh trách nhiệm mang hàng triệu binh lính từ mặt trận trở về đời sống dân
sự. Ong cũng giúp các đạo quân đồng minh trú đóng tại các nước Đức, Thổ Nhĩ
Kỳ và tại miền Trung Đông xây dựng lại từ các đổ nát do chiến tranh.
Một vấn đề khác đã làm bận tâm Winston Churchill là "vấn đề Ái Nhĩ Lan".
Xứ sở này đang bị phân hóa. Đa số người dân Ái Nhĩ Lan theo đạo Catholic đang
đòi hỏi một quốc gia độc lập nhưng các người theo đạo Tin Lành thuộc 5 hạt phía
bắc, được gọi là Miền Ulster, lại muốn địa phương của họ tiếp tục là một phần của
nước Anh. Để giữ cho "sân sau của nước Anh" được ổn định, Winston Churchill
đã giúp công vào thỏa ước nhờ đó xứ Ái Nhĩ Lan không bị xáo trộn trong thời kỳ
Thế Chiến Thứ Nhất, dù cho có xẩy ra một cuộc nổi loạn của các người Catholic
vào năm 1916.
Vào năm 1920, là Bộ Trưởng Thuộc Địa, ông Churchill đã tìm cách thương
thảo với ông Michael Collins, một người cương quyết bảo vệ chủ trương Catholic.
Lúc đầu, hai người đã coi nhau như kẻ thù nhưng dần dần, họ đã trở thành hai
người bạn. Churchill và Collins đồng ý về một thỏa ước chuyển xứ Ái Nhĩ Lan
thành một miền đất có một phần độc lập, giống như hai xứ Canada và Australia,
và nền độc lập của xứ Ái Nhĩ Lan đã trở thành sự thực vào năm 1923 trong khi
cho tới ngày nay, tại miền Ulster vẫn còn các xung đột giữa hai sắc dân Tin Lành
đa số, và Catholic thiểu số.
Winston Churchilll cũng giữ một vai trò quan trọng trong các chính sách
được thi hành tại miền Trung Đông. Đây là một miền đất do người Thổ Nhĩ Kỳ
kiểm soát trong nhiều thế kỷ. Đây cũng là cái nôi của ba tôn giáo lớn: đạo Thiên
Chúa, đạo Hồi và đạo Do Thái. Trước khi Thế Chiến Thứ Nhất kết thúc, nước Anh
đã hứa hẹn sẽ giúp đỡ các quốc gia Ả Rập, kể cả Ai Cập, giành lại độc lập từ tay
người Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng một điều rắc rối khác đồng thời cũng xẩy ra : vào năm
1917, chính quyền Anh đã công bố "Bản Tuyên Cáo Balfour", hứa hẹn xây dựng
tại Palestine một xứ sở dành cho người Do Thái. Người ủng hộ mạnh mẽ nhất

chính sách này là ông Winston Churchill. Ông Churchill tin tưởng rằng sắc dân Do
Thái đã bị lưu lạc trong gần 2,000 năm, nên cần có một mảnh đất quê hương và
ông cũng tin rằng quốc gia Do Thái trên miền đất chiến lược này sẽ là một lợi
điểm quân sự cho nước Anh.
Năm 1921, Winston Churchill và một số viên chức cao cấp của chính quyền Anh
đã tạo dựng nên các quốc gia Iraq và Trans-Jordan cắt ra từ lãnh thổ cũ của đế
quốc Thổ Nhĩ Kỳ. Hai nhân vật hoàng gia Ả Rập, giòng họ Feisals, được người
Anh đặt lên ngai vàng và ông Churchill hy vọng rằng cách xếp đặt này sẽ làm vừa
lòng người dân Ả Rập đồng thời cũng sẽ cho phép lập nên một quốc gia Do Thái
mà không gây ra xung đột. Trong khi các chính sách kể trên đang được thi hành
thì tại gia đình, ông Churchill đã gặp phải hai điều bất hạnh. Tháng 6 năm đó, bà
mẹ của ông bị ngã và qua đời rồi tới tháng 8, đứa con gái trẻ nhất, Marigold mới 3
tuổi, đã chết một cách bất ngờ. Hai tin buồn này đã khiến cho ông bà Churchill
hủy bỏ tất cả các hoạt động công cộng và lui về sống ẩn dật tại miền Tô Cách Lan.
Winston Churchill đã tìm quên trong bộ môn Hội Họa.
Năm 1922, các điều kiện không ổn định tại nước Anh đã khiến cho đảng Cấp Tiến
phải tổ chức một cuộc bầu cử mới. Trong kỳ này, Winston Churchill ra tranh chức
Dân Biểu Cấp Tiến tại thành phố Dundee, nhưng bệnh đau ruột dư đã không cho
phép ông vận động tích cực. Ông Churchill đã bị thất cử và đây là lần đầu tiên
trong 20 năm, ông trở về với cuộc sống gia đình. Tháng 11 năm 1922, Winston
Churchill mua một lâu đài nhỏ tại Chartwell, thuộc miền Kent. Cũng chính tại nơi
cư ngụ mới này, ông Churchill bắt đầu một chương trình biên khảo lớn, đó là Bộ
Sách Lịch Sử Thế Chiến Thứ Nhất, gồm 6 cuốn với nhan đề là "Cuộc Khủng
Hoảng Thế Giới" (The World Crisis). Ông Churchill đã làm việc hàng giờ với
nhiều người thư ký thay phiên nhau đánh máy các bản thảo. Trong hai năm bận
rộn với công việc viết Sử, Winston Churchill vẫn chú ý tới các hoạt động chính trị.
Năm 1923, ông Churchill lại bị thất cử tại địa điểm West Leicester rồi sau đó, do
không được đảng Bảo Thủ ủng hộ, Winston Churchill đã khởi đầu một đảng phái
mới có tên là đảng Hiến Pháp (the Constitutionalists) và ông Churchill ra tranh cử
với tư cách độc lập.

Việc tạo ra một đảng phái thứ ba là điều trái ngược với các truyền thống cũ của
nước Anh và đã theo nền nếp của nền chính trị Hoa Kỳ. Ông Winston Churchill đã

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×