Kinh tế phát triển Nhóm 9
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam những năm đầu tiên sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) được đánh giá là tiếp tục phát triển tốt. Tốc độ tăng trưởng GDP luôn ở
mức cao so với khu vực và thế giới. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã có những tác động
đầu tiên đến một số lĩnh vực của nền kinh tế, nhất là xuất nhập khẩu và đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI). Riêng việc nghiên cứu tình hình xuất khẩu của những tháng đầu năm
2007 cũng có thể hé mở một số dấu hiệu cho thấy tác động của việc thực hiện những
cam kết gia nhập WTO. Tuy những tác động này chưa thực sự rõ rệt nhưng cũng tiềm
ẩn cho thấy một số xu hướng mới rất đáng quan tâm. Một loạt vấn đề cần được đặt ra
để tìm những câu trả lời thoả đáng nhất. Chẳng hạn như, làm thế nào để nâng cao sức
cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam ở chính thị trường trong nước và bảo vệ sản xuất
trong nước trong điều kiện hàng rào thuế quan đã, đang và sẽ còn tiếp tục được cắt
giảm? Làm thế nào để đẩy mạnh xuất khẩu hơn nữa đề bù đắp vào khoản thị trường
trong nước bị buộc phải nhường chỗ cho hàng xuất khẩu? Làm thế nào để giảm nhập
khẩu để từng bước giảm nhập siêu và tiến tới xuất siêu vào cuối thập kỷ này như chiến
lược xuất nhập khẩu đã đề ra?... Để có câu trả lời thoả đáng nhất, điều mà chúng ta cần
làm trước hết là tìm hiểu những vấn đề về xuất nhập khẩu của Việt Nam.
Chương 1. Khái quát chung về tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay
1
Kinh tế phát triển Nhóm 9
1. Mục tiêu và quan điểm xuất nhập khẩu của VN
1.1.Mục tiêu
Mục tiêu chung
+ Nỗ lực gia tăng tốc độ tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ, chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng
cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các sản phẩm có hàm lượng công nghệ
và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ.
+ Về nhập khẩu chú trọng nhập khẩu thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ
tiên tiến, đảm bảo cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu.
+ Mở rộng và đa dạng hóa thị trường và phương thức kinh doanh, hội nhập thắng lợi vào kinh tế
khu vực và thế giới.
Mục tiêu cụ thể
+ Các chỉ tiêu cụ thể: GDP gấp đôi trong 10 năm trung bình 7,2% , trong đó NN 4%/năm (16-17%
GDP), CN 8-9% ( 40-41% GDP) CN chế tác chiếm 80% trị giá sản xuất công nghiệp.
+ Giai đoạn 2001-2010: XK gấp đôi GDP, 14,4%/năm, trong khi đó nhập khẩu chia hai giai đoạn
2001-2005: 15%/năm, 2005-2010: 13%/năm.
+ Chuyển dịch cơ cấu XNK giữa các mặt hàng:
→XK : tăng tỷ trọng đối với sản phẩm chế biến và chế tạo, trong đó hạt nhân là da giầy, may
mặc,... và gia tăng sản phẩm có hàm lượng công nghệ, chất xám, và khoa học kỹ thuật cao, gia
tăng XK dịch vụ.
→NK : gia tăng nhập khẩu các thiệt bị và công nghệ tiên tiến, mở rộng thị trường, phương thức
kinh doanh XNK đối với từng lĩnh vực, nhóm mặt hàng và khu vực cụ thể.
1.2.Quan điểm chỉ đạo
+ Tiếp tục dành ưu tiên cao cho XK để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao
động, và có thêm ngoại tệ.
+ Chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lâp chủ quyền và định
hướng XHCN, với kế hoặch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình
độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia.
+ Phát huy nội lực, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ
thống luật phát, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ
nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định với việc mở rộng kinh doanh XNK , hội
nhập quốc tế.
+ Gắn kết thị trường trong nước với thị trường nước ngoài, vừa chú trọng thị trường trong nước
vừa ra sức mở rộng và đa dạng hóa thị trường ngoài nước.
2
Kinh tế phát triển Nhóm 9
+ Kiên trì chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia hoạt động XNK, trong đó kinh
tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong thực hiện chiến lược XNK.
1.2. Tình hình xuất khẩu
1.2.1. Quy mô và tốc độ.
Tháng 10/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 5,03 tỷ USD, tăng 10,6% so với
tháng 9/2009. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 2,35 tỷ USD, tăng
12% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này 10 tháng lên 19 tỷ USD
và chiếm 40,8% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
1.2.2. Một số mặt hàng xuất khẩu chính.
- Hàng dệt may: tháng 10/2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam là 791
triệu USD, giảm 2,3% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhóm hàng này 10 tháng năm
2009 lên 7,46 tỷ USD, giảm 1,6% so với cùng kỳ năm 2008.
Hết tháng 10/2009, trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sụt giảm
sang hai thị trường chính là Hoa Kỳ (kim ngạch là 4,12 tỷ USD, giảm 4,2%) và EU (1,35 tỷ USD,
giảm 3,4%) thì trị giá xuất khẩu nhóm hàng này sang Nhật Bản đạt 778 triệu USD, tăng 15,1% so
với cùng kỳ năm trước. Dự báo cả năm 2009, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường
Nhật Bản có thể lên đến 1 tỷ USD.
- Giày dép các loại: Tháng 10/2009, kim ngạch xuất khẩu hàng giầy dép đã tăng trở lại
(đạt 313 triệu USD,tăng 37% so với tháng 9) theo tính thời vụ hàng năm sau khi giảm sâu vào hai
tháng trước đó, nâng tổng trị giá xuất khẩu trong 10 tháng/2009 lên 3,25 tỷ USD. Trị giá xuất
khẩu nhóm hàng này sang EU trong tháng 10/2009 là 149 triệu USD, tăng gần 64% so với tháng
trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này trong 10 tháng/2009 lên 1,56 tỷ USD.
- Hàng thuỷ sản: tháng 10, kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam là 448 triệu
USD, tăng 5,3% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu 10 tháng năm 2009 lên 3,49
tỷ USD, giảm 8,7% so với cùng kỳ năm 2008.
Đối tác nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhiều nhất trong 10 tháng qua là EU với 929
triệu USD, giảm 4,8%; Nhật Bản: 621 triệu USD, giảm 10,6% và Hoa Kỳ: 596 triệu USD, giảm
3,8%.
- Dầu thô: xuất khẩu trong tháng là 1,09 triệu tấn, đạt trị giá 630 triệu USD. Hết tháng
10/2009, lượng dầu thô xuất khẩu của cả nước đạt 12 triệu tấn, tăng 7,1% nhưng trị giá đạt gần
5,36 tỷ USD, giảm 43,2% so với cùng kỳ năm trước do giá dầu xuất khẩu giảm 47% (tương ứng
giảm 395 USD/tấn).
Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của nước ta trong 10 tháng qua chủ yếu là
Ôxtrâylia: 3,06 triệu tấn, Singapore: 2 triệu tấn, Malaysia: 1,68 triệu tấn, Hoa Kỳ: 928 nghìn tấn,
Trung Quốc: 857 nghìn tấn, Nhật Bản, 847 nghìn tấn, Hàn Quốc: 840 nghìn tấn, Thái Lan: 731
nghìn tấn ,…
- Gạo: dẫn đầu về kim ngạch trong nhóm hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam với kim
ngạchđạt gần 2,39 tỷ USD trong 10 tháng. So với cùng kỳ năm 2008, mặc dù lượng gạo xuất
3
Kinh tế phát triển Nhóm 9
khẩu đã đạt 5,35 triệu tấn, tăng tới trên 33% nhưng do giá xuất khẩu bình quân giảm 30,4%
(tương ứng giảm 195USD/tấn) nên trị giá vẫn giảm 7,3%.
Xuất khẩu gạo sang Philiipin trong tháng vẫn rất thấp, chỉ là 0,7 nghìn tấn nhưng 10 tháng
thị trường này vẫn dẫn đầu với 1,6 triệu tấn, sau đó là Malaixia: 464 nghìn tấn; Cuba: 432 nghìn
tấn,…
- Cao su: lượng cao su xuất khẩu trong 10 tháng là 557 nghìn tấn, tăng 5,8%, trị giá là 862
triệu USD, giảm 38,4% so với cùng kỳ năm trước. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này
trong năm 2009 sẽ đạt trên 1 tỷ USD. Trung Quốc vẫn là đối tác chính nhập khẩu cao su của Việt
Nam với 381 nghìn tấn, chiếm tới 68% lượng cao su xuất khẩu của cả nước.
- Cà phê: lượng xuất khẩu cà phê trong tháng đạt gần 55 nghìn tấn, tăng 13,5% so với
tháng 9, nâng tổng lượng xuất khẩu trong 10 tháng lên 942 nghìn tấn, tăng 16,1% so với cùng kỳ
năm 2008. Do đơn giá xuất khẩu bình quân giảm 29% nên trị giá chỉ là 1,39 tỷ USD, giảm 18% so
với cùng kỳ năm trước.
Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 10 tháng là Bỉ: đạt 123,7 nghìn
tấn, tăng 172%; Đức: đạt 105 nghìn tấn, tăng 2,4%; Hoa Kỳ: đạt 97,5 nghìn tấn, tăng 23%; Italia:
đạt 86,7 nghìn tấn, tăng 40%;…
- Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 10/2009, xuất khẩu mặt hàng này đạt 254 triệu USD, tăng
18,5% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của Việt Nam 10
tháng/2009 lên 2,02 tỷ USD, giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2008.
Hết tháng 10, Hoa Kỳ tiếp tục là thị trường nhập khẩu nhóm hàng này nhiều nhất của Việt
Nam với 874 triệu USD, giảm 1,4%, tiếp theo là thị trường EU: 418,5 triệu USD, giảm mạnh
32,3%; Nhật Bản: 293 triệu USD, giảm 4,2%, Trung Quốc: 144 triệu USD, tăng 6,2%…
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: trong tháng xuất khẩu đạt 283 triệu USD,
tăng 4,0% so với tháng 9, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này trong 10 tháng năm
2009 lên 2,23 tỷ USD.
Dẫn đầu về nhập khẩu nhóm hàng này của Việt Nam trong 10 tháng qua vẫn là thị trường
Hoa Kỳ với gần 359 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 304 triệu USD, Thái Lan: 238 triệu USD,
Trung Quốc: 217 triệu USD, Singapore: gần 157 triệu USD, Hà Lan: 144 triệu USD,…
1.3. Tình hình nhập khẩu
1.3.1. Quy mô và tốc độ.
Tháng 10/2009, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 6,62 tỷ USD, tăng 3,9% so với tháng
trước và là tháng có kim ngạch nhập khẩu cao nhất kể từ tháng 7/2008. Trong đó, xuất khẩu của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt gần 2,5 tỷ USD, tăng 5,1% so với tháng 9.
Biểu đồ 1: Kim ngạch nhập khẩu một số nhóm hàng so với cùng kỳ năm 2008
4
Kinh tế phát triển Nhóm 9
Hết tháng 10/2009, tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước là 55,05 tỷ USD, giảm 15,31 tỷ USD
so với cùng kỳ năm trước, nhưng so với cùng kỳ năm 2007, thì kim ngạch nhập khẩu cả nước tăng
12,5% (tương ứng tăng 6,1 tỷ USD). Sự giảm sút của kim ngạch nhập khẩu so với cùng kỳ năm
trước chủ yếu là do yếu tố giá giảm mạnh trong khi lượng nhiều nhóm hàng nhập khẩu chính đã
tăng.
1.3.2. Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
- Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này là
1,18 tỷ USD (mức cao nhất từ đầu năm 2009), tăng 13,6% so với tháng trước. Nâng tổng kim
ngạch nhập khẩu 10 tháng/2009 lên 9,51 tỷ USD, giảm 13% so với cùng kỳ 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt Nam trong 10
tháng/2009 có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 3,2 tỷ USD, chiếm 33,7% kim ngạch nhập khẩu
nhóm hàng này của cả nước, tăng nhẹ (0,1%) so với cùng kỳ năm trước; từ Nhật Bản: 1,83 tỷ
USD, giảm 18,5%; Hàn Quốc: 640 triệu USD; giảm 22,8%; Đức: 570 triệu USD, giảm 27,2%;
Hoa Kỳ: 555 triệu USD, tăng 3,3%; ..
- Sắt thép các loại: Tháng 10, cả nước nhập khẩu gần 911 nghìn tấn sắt thép các loại, giảm
9,7% so với tháng trước. Hết 10 tháng/2009, lượng sắt thép nhập khẩu của cả nước là 8,05 triệu
tấn, tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2008 với trị giá đạt được là 4,32 tỷ USD.
Nhóm hàng sắt thép các loại nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất xứ từ Nga: 1,49 triệu
tấn; Nhật Bản: 1,18 triệu tấn; Trung Quốc: 996,7 nghìn tấn;…
- Sản phẩm từ sắt thép: kim ngạch nhập khẩu trong tháng là 132 triệu USD, tăng 20% so
với tháng trước, nâng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 10 tháng/2009 lên 1,07 tỷ USD, giảm
8,3% so với cùng kỳ năm trước.
Các đối tác chính cung cấp mặt hàng này cho nước ta trong 10 tháng qua là: Trung Quốc:
305 triệu USD, Nhật Bản: 201 triệu USD, Hàn Quốc: 133 triệu USD, Đài Loan: 73,6 triệu USD,
Thái Lan: 52,6 triệu USD,…
- Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng 10, nhập khẩu nhóm hàng này có trị giá là
112 triệu USD, giảm 4,4% so với tháng trước, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này
trong 10 tháng là 1,51 tỷ USD, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2008.
5
Kinh tế phát triển Nhóm 9
Hết 10 tháng/2009, thức ăn gia súc & nguyên liệu được nhập khẩu từ Achentina đạt hơn
433 triệu USD, tăng 121%; Ấn Độ : 368 triệu USD, giảm 47%; Hoa Kỳ: 136,4 triệu USD, giảm
3,3%; Trung Quốc: 119 triệu USD, tăng 33,2%;… so với 10 tháng 2008.
- Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày: trong tháng nhập khẩu đạt 685 triệu
USD, tăng 9,3% so với tháng 9/2009. Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 394 triệu USD, tăng
13,2%; nguyên phụ liệu dệt may da giày 180 triệu USD, tăng 14,8%; xơ sợi dệt 71,7 triệu USD,
giảm 5,4% và bông 39,5 triệu USD, giảm 10,6%.
Hết tháng 10/2009, nhập khẩu nguyên phụ liệu ngành dệt may da giày đạt kim ngạch là
5,95 tỷ USD, giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nhóm hàng
này cho Việt Nam trong 10 tháng qua là: Trung Quốc: 1,67 tỷ USD, Đài Loan: 1,21 tỷ USD, Hàn
Quốc: 1,17 tỷ USD, Nhật Bản: 374 triệu USD, Hồng Kông: 337 triệu USD,…
- Xăng dầu: trong tháng, cả nước nhập khẩu 1,11 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm 4,2% so
với tháng trước, đạt trị giá là 615 triệu USD.
Hết tháng 10/2009, cả nước nhập khẩu 11,06 triệu tấn xăng dầu các loại, tăng 0,8% so với
cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng này giảm mạnh (48,1%) so với cùng kỳ
2008 nên kim ngạch nhập khẩu là 5,3 tỷ USD, giảm tới 47,7%.
Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 10 tháng qua chủ yếu có xuất xứ từ
Singapore với 4,4 triệu tấn, tiếp theo là Trung Quốc: 2,07 triệu tấn, Đài Loan: 1,89 triệu tấn, Hàn
Quốc: 1,06 triệu tấn, Nga: 552 nghìn tấn, Thái Lan: 521 nghìn tấn...
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng là 402 triệu USD,
tăng 1,2% so với tháng trước, nâng tổng trị giá nhập khẩu nhóm hàng này 10 tháng/2009 lên 3,08
tỷ USD, giảm nhẹ (0,4%) so với cùng kỳ 2008.
Hết 10 tháng/2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung cấp nhóm hàng này cho
nước ta với 1,13 tỷ USD, tăng 6,5% so với 10 tháng/2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 665 triệu USD,
giảm 7,2%; Đài Loan: 247 triệu USD, tăng 3,9%; Hàn Quốc: 228 triệu USD, tăng 11,6%,
Malaysia: 225 triệu USD, giảm nhẹ 1,2%; … …
- Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng nhập khẩu hơn 181 nghìn tấn, giảm 2,5% so với
tháng trước và đạt trị giá là 262 triệu USD. Hết tháng 10/2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo
nguyên liệu của cả nước là 1,81 triệu tấn, tăng 25,2% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là
2,26 tỷ USD.
Hết 10 tháng năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có
xuất xứ từ: Hàn Quốc: 333 nghìn tấn, tăng 45% so với cùng kỳ 2008; Đài Loan: 267 nghìn tấn,
tăng 1,5%; Thái Lan: 233 nghìn tấn, tăng 6,6%, A rập Xê út: 200 nghìn tấn, tăng 90,2%;
Singapore: 126 nghìn tấn, tăng 7,9%; …
- Phân bón: Trong tháng, cả nước nhập khẩu 275 nghìn tấn phân bón các loại, trị giá là
81,1 triệu USD. Trong đó, phân Urê là 102 nghìn tấn, giảm 54,7%; phân SA là 64,5 nghìn tấn,
giảm 59,7%, phân DAP là 31,8 nghìn tấn, giảm 64,9%,…so với tháng 9. Tính đến hết tháng
10/2009, lượng phân bón các loại nhập khẩu là 3,64 triệu tấn, tăng 29,2% so với cùng kỳ năm
2008, đạt trị giá là 1,14 tỷ USD.
6
Kinh tế phát triển Nhóm 9
Mặt hàng phân bón nhập khẩu vào Việt Nam 10 tháng/2009 chủ yếu có xuất xứ từ Trung
Quốc với 1,63 triệu tấn, chiếm 44,7% tổng lượng phân bón nhập khẩu của cả nước. Tiếp theo là
Nga: 328 nghìn tấn, Hàn Quốc: 261 nghìn tấn, Philippin: 243 nghìn tấn, Ucraina: 165 nghìn tấn,
Đài Loan: 107 nghìn tấn,…
- Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: Lượng nhập khẩu ô tô nguyên chiếc
trong tháng là 9,69 nghìn chiếc, trị giá 141 triệu USD. Trong đó, số lượng ôtô 9 chỗ ngồi trở
xuống nhập khẩu là 6,54 nghìn chiếc, tăng 43,4% so với tháng 9, với trị giá là 64,9 triệu USD.
Biểu đồ 2: Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2009
Hết tháng 10, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu là 57,3 nghìn chiếc tăng 22,3% so với cùng kỳ
năm 2008, đạt trị giá 905 triệu USD. Trong đó, lượng xe ôtô 9 chỗ ngồi trở xuống xấp xỉ 31 nghìn
chiếc, chiếm 54,1% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước.
Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong tháng 10 đạt 221,5 triệu USD, tăng 7,5% so với
tháng 9, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này 10 tháng/2009 lên 1,36 tỷ USD, giảm
16,8% so với cùng kỳ năm 2008.
Chương II: Quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ cấu thành phần kinh tế
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng phát huy tiềm năng các thành phần
kinh tế và đan xen với hình thức sở hữu. Khu vực kinh tế nhà nước đang được tổ chức lại, đổi mới
và chiếm 38,4% GDP vào năm 2005, chi phối nhiều ngành kinh tế then chốt và tập trung hơn
7
Kinh tế phát triển Nhóm 9
vàonhững lĩnh vực chủ yếu của nền kinh tế. Kinh tế dân doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có
hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiêm 45,7% GDP, đóng vai trò quan trọng cho phát triển kinh tế -
xã hội, nhất là giải quyết việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Trong đó, kinh tế hợp tác và
hợp tác xã phát triển khá đa dạng (đóng góp 6,8% GDP). Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc
độ tăng trưởng tương đối cao,chiếm 15,9% GDP, là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển
giao công nghệ, giao thương quốc tế.
Trong những năm trở lại đây, trong cơ cấu thành phần kinh tế kinh tế tư nhân được phát triển
không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm.
Từ những định hướng đó, khung pháp lý ngày càng được đổi mới. thuận lợi cho việc chuyển dần
từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường, nhằm giải phóng
sức sản xuất, huy động và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả, tạo đã cho tăng trưởng và phát triển
kinh tế.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ cấu công nghiệp hoá - hiện đại hoá
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã được Đảng và
nhà nước ta xác định là con đường tất yếu để Việt Nam thoát khỏi tình trạng lạc hậu, chậm phát
triển để trở thành một quốc gia văn minh, phát triển và hiện đại.
Nội dung cơ bản và chủ yếu của chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là tăngtỷ trọng giá trị GDP của các ngành công nghiệp, xây dựng và
thương mai - dịch vụ (dịchvụ), đồng thời giảm dần tỷ trọng của các ngành nông – lâm – ngư
nghiệp. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến những biến đổi kinh tế
và xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoa của cơ cấu các vùng kinh tế, các thành phần
kinh tế, các lực lượng lao động xã hội…
2.2.1. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ cấu vùng, lãnh thổ
Trong những năm qua cơ cấu vùng kinh tế cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng
góp vào quá trình phát triển kinh tế. Trên toàn quốc đã hình thành 6 vùng kinh tế: vùngtrung du
miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung Du và vùng Duyên Hải miền
Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Trong đó, có
3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế của cả nước.
2.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ cấu ngành:
Cùng với tốc độ tăng cao và khá liên tục và ổn định của GDP, cơ cấu ngành kinh tế đã có sự
thay đổi đáng kể theo hướng tích cực. Đó là tỷ trọng trong GDP của ngành nông nghiệp đã giảm
nhanh từ 38,1% năm 1990 xuống 27,2% năm 1995, 24,5% năm 2000, 20,9% năm 2005, và đến
năm 2008 là 20,6%. Tỷ trọng công nghiệp trong GDP đã tăng nhanh, năm 1990 là 22,7%, năm
1995 lên 28,8%, năm 2000 là 36,7%, năm 2005 là 41%, đến năm 2008 tăng lên 41,6%. Tỷ trọng
dịch vụ trong GDP chưa biến động nhiều, năm 1990 là 38,6%, năm 1995 là 44,0%, năm 2000 tăng
lên 38,7%, năm 2005 lả 38,1% và năm 2008 là 38,7%.
Trong nội bộ cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn cũng đã chuyển dịch ngày càng tích cực
hơn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực
nông thôn đã tăng từ 17,3% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Trên cơ sở này, đã tác động tích cực
8