Cận thị có nên phẫu thuật?
Tật cận thị thường xuất hiện ở lứa tuổi học đường.
Người ta đánh giá độ cận theo các mức độ: cận nhẹ
(từ 1,5 điop trở xuống); cận trung bình (từ 1,5 - 6
điop); cận nặng (trên 6 điop). Nguyên nhân gây cận thị
chưa được biết rõ, nhưng người ta nhận thấy có hai
yếu tố làm gia tăng nguy cơ bị cận thị, đó là di truyền
và môi trường
Cận thị là một dạng tật khúc xạ
rất thường gặp. Hiện nhiều người
cứ nghĩ rằng, để giảm gánh nặng
"bốn mắt" trở về "hai mắt" cho gọn nhẹ, thì cứ đi mổ là
xong. Vậy cận thị có nên phẫu thuật?
Cận thị thường được chia làm hai loại, tật cận thị và bệnh
cận thị. Nguyên tắc chung về quang học như nhau, nhưng
bệnh cận thị là trường hợp bệnh bẩm sinh, có yếu tố di
truyền, độ cận thường cao, thậm chí rất cao (có trường
hợp trên 20 điop), mức độ cận tăng nhanh, nhiều, ngay cả
khi đã đến tuổi trưởng thành.
Người bị bệnh cận thị thường có nhiều biến chứng như:
thoái hóa hắc võng mạc, bong pha lê thể, xuất huyết
hoàng điểm, xuất huyết pha lê thể, rách võng mạc, bong
võng mạc Tiên lượng điều trị những biến chứng này
kém, khả năng phục hồi thị lực thấp.
Cận thị học đường, cận thị mắc phải. Bệnh thường bắt
đầu ở lứa tuổi học trò, đôi khi ở thanh niên, mức độ cận
nhẹ và trung bình (6 điop trở xuống), cận tiến triển chậm,
tăng độ ít, độ cận thường ổn định khi đến tuổi trưởng
thành (18 - 20 tuổi).
Lứa tuổi học sinh dễ bị cận do nhãn cầu của trẻ còn phát
triển; trẻ chưa tự phân bổ thời gian học, các hoạt động
nhìn gần với các hoạt động ngoài trời một cách hợp lý;
học tập, đọc sách, máy tính cũng là những yếu tố làm
cho trẻ bị cận. Một số điểm lưu ý để phát hiện trẻ có dấu
hiệu bị cận thị đó là: trẻ xem tivi hay chạy lại gần hoặc
nhắm một mắt lại; ở lớp trẻ phải chạy lại gần bảng mới
thấy chữ, thường chép đề bài sai, đọc chữ hay nhảy
hàng; thường nheo mắt, nghiêng đầu khi xem tivi hoặc
nhìn vật ở xa; thường hay dụi mắt, dù không buồn ngủ; sợ
ánh sáng hoặc chói mắt; hay kêu nhức đầu, mỏi mắt, chảy
nước mắt
Một số phương pháp điều trị cận thị: Phổ biến và rẻ tiền
nhất là đeo kính gọng; kế đó là đeo kính sát tròng; và hiện
đại nhất hiện nay là mổ bằng tia laser (phương pháp
lasik). Đeo kính gọng rẻ tiền và an toàn nhất, còn đeo kính
sát tròng, giải quyết được một số bất tiện của kính gọng,
nhưng phải giữ gìn vệ sinh tốt, đặc biệt trong môi trường
nóng, ẩm, nhiều bụi như ở Việt Nam; không đeo được khi
bơi, tắm biển; chi phí dung dịch ngâm kính, thay kính cao;
cần kiểm tra giác mạc 3 tháng một lần.
Bên cạnh đó còn có phương pháp mổ lasik chữa tật khúc
xạ, trong đó có cận thị, chi phí mổ khá cao: 11 - 12 triệu
đồng/hai mắt. Thực tế không phải ai bị cận cũng có thể
tiến hành phẫu thuật được, một số trường hợp không
được mổ cận thị như: có bệnh lý cấp tính, mạn tính tại
mắt (glaucoma, viêm màng bồ đào, viêm giác mạc, loạn
dưỡng giác mạc, bệnh giác mạc chóp, xuất huyết võng
mạc ); những người không nên mổ gồm: độ cận chưa ổn
định, đang dùng thuốc ngừa thai, đang mang thai, khô
mắt
Lasik là phương pháp mổ hiện đại (dùng dao vi phẫu tạo
một vạt giác mạc, rồi chiếu tia laser để chỉnh độ cận ), có
nhiều ưu điểm, tuy nhiên người bệnh cần được khám
sàng lọc kỹ càng từ bác sĩ có chuyên môn trước khi mổ,
để loại trừ một số bệnh, yếu tố chống chỉ định, cũng như
một số nguy cơ gây biến chứng. Rất nhiều người thắc
mắc là: "Sau mổ cận thị bằng lasik có nguy cơ tái cận
không?". Theo các nhà chuyên môn điều này có thể xảy
ra, mức độ tái phát tùy trường hợp.
Để có thể lựa chọn phương pháp phẫu thuật tối ưu, người
bệnh cần được khám kỹ lưỡng, dựa trên những thông số,
bác sĩ sẽ tư vấn cụ thể cho từng trường hợp về dự báo
kết quả, những nguy cơ rủi ro nếu có.