Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Luận văn: Đầu tư đổi mới công nghệ ngành dệt may việt nam giai đoạn 2000- 2005 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.84 KB, 47 trang )



Luận văn tốt nghiệp

Đầu tư đổi mới công nghệ
ngành dệt may việt nam giai
đoạn 2000- 2005
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C
1

LỜI NÓI ĐẦU

Năm 2006, cùng với sự kiện Việt Nam gia nhập WTO, Đảng và nhà nước đã
có những thay đổi lớn trong chính sách kinh tế xã hội. Đồng hành với những cơ hội
khi tiếp cận với thị trường thế giới, Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều thách thức.
Để đáp ứng được nhu cầu đó, nước ta đã chú trọng ưu tiên một số ngành trong đó
có ngành Dệt may. Vì vậy, để giữ vững vai trò là một ngành mũi nhọn trong nền
kinh tế đất nước thì ngoài sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế
vĩ mô cần phải có sự thay đổi từ chính các doanh nghiệp trong ngành mà quan
trọng nhất là tăng cường đầu tư cho đổi mới công nghệ. Xuất phát từ nhu cầu đó,
em quyết định chọn đề tài :
“Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam giai đoạn
2000- 2005”.
Đề tài gồm ba phần:
Chương I: Cơ sở lý luận
Chương II: Thực trạng đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Th.s Đinh Đào Ánh Thủy đã tận tình
hướng dẫn em để em hoàn thành đề tài.
Đề án môn học


Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

2

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1. Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1. Khái niệm công nghệ
Theo Ngân hàng Thế giới (1985): “Công nghệ là phương pháp chuyển hoá
các nguồn thành sản phẩm, gồm ba yếu tố: (1) Thông tin về phương pháp; (2)
Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển hóa; (3) Sự
hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao”.
Theo UNIDO (Tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hợp Quốc): “Công nghệ
là việc áp dụng khoa học công nghệ vào công nghiệp, bằng cách sử dụng các kết
quả nghiên cứu và xử lý nó một cách chính xác, có hệ thống và có phương pháp”.
Theo Luật Khoa học công nghệ Việt Nam (2000): “Công nghệ là tập hợp các
phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi
các nguồn lực thành sản phẩm”.
1.2. Khái niệm Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là hoạt động nghiên cứu nhằm cải tiến, đổi mới công
nghệ đã có (trong và ngoài nước), góp phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Đổi mới công nghệ đóng vai trò quan trọng nhất chi phối nền kinh tế, nó có
tác dụng kích thích sự phát triển của sản xuất, nâng cao năng suất lao động và góp
phần giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội.
Đổi mới công nghệ gồm ba giai đoạn: phát minh, đổi mới và truyền bá. Phát
minh là giai đoạn đầu tiên tạo ra những tiến bộ công nghệ. Đây là quá trình tìm tòi,
nghiên cứu các ý tưởng mới, biến chúng thành các giải pháp kĩ thuật công nghệ cụ
thể phục vụ cho sản xuất và đời sống. Kết quả của nó là ý tưởng khoa học, những

Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

3

giải pháp về sản phẩm mới, phương pháp mới để thực hiện một số dịch vụ hoặc sản
xuất một sản phẩm.
Sau khi phát minh ra các ý tưởng, giải pháp mới đó thì việc tiếp theo là phải
biến các ý tưởng đó thành ứng dụng thực tiễn. Dựa trên các ý tưởng khoa học hoặc
các giải pháp kĩ thuật đã có để chế thử các mẫu đầu tiên, phát triển, sản xuất thử và
thử nghiệm việc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Cuối cùng là giai đoạn truyền bá sản phẩm nghĩa là phải đem sản phẩm đi
các nơi khác và quảng bá để nó được ứng dụng rộng rãi phục vụ đời sống và sản
xuất.
Nói tóm lại, đổi mới công nghệ là những tiến bộ về công nghệ dưới dạng
máy móc thiết bị hay phương pháp mới về sản xuất hay kỹ thuật, tổ chức, quản lý
hay marketing mà nhờ đó việc sản xuất ra sản phẩm sẽ đạt năng suất cao hơn, chi
phí thấp hơn, chất lượng cao hơn.
Như vậy có thể thấy , Đổi mới công nghệ là hoạt động bao gồm đổi mới sản
phẩm và đổi mới quy trình sản xuất. Đổi mới sản phẩm là việc tạo ra sản phẩm
hoàn toàn mới hoặc cải tiến các sản phẩm đã có của công ty mình hoặc công ty
khác. Điều này giúp công ty tiết kiệm nguyên vật liệu, tăng độ hấp dẫn của sản
phẩm. Đổi mới quy trình sản xuất là việc tạo ra một quy trình sản xuất mới hoặc đạt
được những tiến bộ đáng kể về mặt công nghiệp đối với quy trình sản xuất. Đổi
mới quy trình sản xuất chính là đổi mới máy móc thiết bị.
2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đổi mới công nghệ
2.1. Chỉ tiêu định lượng
2.1.1. Tỷ trọng máy móc thiết bị được hiện đại hóa (I
hd
):

I
hd
= Error! x 100%
G
hd
= G
hd1
- G
hd0
: mức gia tăng MMTB

Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

4

G
hd1
: Giá trị MMTB hiện đại kỳ báo cáo
G
hd0
: Giá trị MMTB hiện đại kỳ nghiên cứu
Chỉ tiêu này phản ánh giá trị máy móc thiết bị hiện đại gia tăng so với mỗi
đồng vốn đầu tư vào đổi mới công nghệ. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả đổi mới
công nghệ càng lớn.
2.1.2. Chỉ tiêu đánh giá mức tiết kiệm nguyên vật liệu khi đổi mới công nghệ
(I
nvl
):
I

nvl
= Error! x 100%
K
nvl
= Error!
G
nvl
: Giá trị nguyên vật liệu
G
sp
: Giá trị sản phẩm
Thể hiện khả năng tiết kiệm nguyên vật liệu do đổi mới công nghệ và được
đo bằng tỷ lệ giữa mức gia tăng hệ số chi phí cho nguyên vật liệu bình quân một
sản phẩm và một đơn vị vốn đầu tư đổi mới công nghệ trong kì.
2.1.3. Chỉ tiêu gia tăng năng suất lao động (Iw):
I
w
= Error! x 100%

W
= W
1
- W
0
: Mức gia tăng năng suất lao động
Chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng trưởng về năng suất lao động của doanh
nghiệp nhờ đổi mới công nghệ. Nó cho biết một đồng vốn đầu tư cho đổi mới công
nghệ sẽ làm tăng năng suất lao động lên bao nhiêu. Chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu
quả đổi mới công nghệ càng cao.
2.1.4. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đổi mới công nghệ tác động đến mức tăng

lợi nhuận (I
ln
):
I
ln
=Error! x 100%

LN
= LN
1
- LN
0

LN
1
: Lợi nhuận kỳ báo cáo
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

5

LN
0
: Lợi nhuận kỳ nghiên cứu
Ý nghĩa của chỉ tiêu này là mỗi đồng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ tạo
ra bao nhiêu lợi nhuận tăng thêm.
2.2. Chỉ tiêu định tính:
Chỉ tiêu này phản ánh những biến đổi quan trọng về chất đối với xã hội,
doanh nghiệp, cơ cấu lao động, trình độ lao động do đổi mới công nghệ mang lại.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng là:

- Tác động tới việc làm của người lao động
- Tác động tới trình độ quản lý, cơ cấu sản xuất, phương pháp lao động, điều
kiện lao động, kỹ thuật lao động.
- Góp phần tăng thị phần do giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm
của đổi mới công nghệ.
- Đóng góp của đổi mới công nghệ trong việc thực hiện các chiến lược kinh
tế xã hội của doanh nghiệp, của ngành, đất nước.
II. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ NGÀNH DỆT MAY
VIỆT NAM
1. Đặc trưng công nghệ ngành Dệt may Việt Nam
1.1. Tính đồng bộ về trình độ công nghệ trong ngành Dệt may còn thấp
Trong ngành Dệt may có rất nhiều công đoạn: kéo sợi, dệt, in, nhuộm, hoàn
tất, may, công đoạn phụ. Các công đoạn này mang tính liên tục, sản phẩm của công
đoạn trước là đầu vào của công đoạn sau. Vì thế, nếu như có một sản phẩm tồi sẽ
dẫn đến sản phẩm cuối là phế phẩm. Điều này đòi hỏi công nghệ ngành Dệt may
phải đồng bộ. Nhưng thực tế thì trong lĩnh vực dệt, trang thiết bị còn quá lạc hậu,
mới đổi mới 40% số thiết bị, còn lại phần lớn là máy móc thiết bị thuộc những năm
60-70. Trong khi đó, lĩnh vực may đã được đổi mới 90% trang thiết bị, trình độ
công nghệ thiết bị khá so với khu vực. Do vậy, khâu dệt không đáp ứng được đầu
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

6

vào cho khâu may, sản xuất dệt trong nước mới đáp ứng được 70-80% nhu cầu tiêu
dùng trong nước và hàng Dệt may Việt Nam chưa đủ sức cạnh tranh với sản phẩm
nước ngoài. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do sự đầu tư theo nhiều giai
đoạn, theo nhiều loại công nghệ và công nghệ của nhiều nước khác nhau dẫn tới
hiệu quả sản xuất toàn ngành không cao.
1.2. Trình độ công nghệ lạc hậu

Ngành Dệt may là một trong những ngành công nghiệp ra đời sớm nhất nước
ta và có nhu cầu về lao động rất lớn. Một kết quả thống kê cho thấy, ở miền Bắc
vẫn còn nhiều cơ sở Dệt may sử dụng thiết bị từ thập kỷ 60-70 , còn ở miền Nam
cũng còn nhiều nơi sử dụng máy móc của thập kỷ 70 . Thậm chí vẫn còn máy móc
thiết bị được sản xuất từ những năm 30-40. Mặc dù vậy, trên thực tế có một khó
khăn rất lớn là hầu hết các công ty đều có vốn nhỏ, hạn hẹp. Điều này là trở ngại
lớn cho việc đầu tư thay thế máy móc thiết bị.
2. Sự cần thiết phải đầu tư đổi mới công nghệ
Tổng công ty Dệt may Việt Nam nay là Tập đoàn Dệt may Việt Nam
(Vinatex) đặt ra mục tiêu phát triển đến năm 2010: “Hướng ra xuất khẩu nhằm tăng
nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo trả nợ và tái sản xuất mở rộng các cơ sở sản xuất của
ngành, đồng thời chiếm lĩnh thị trường tiêu dùng trong nước với những sản phẩm
phù hợp, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối
CNH-HĐH đất nước”. Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra, Tập đoàn Dệt
may nói riêng và các doanh nghiệp Dệt may nói chung cần phải đề ra các giải pháp
thích hợp để từng bước vươn lên đáp ứng yêu cầu hội nhập mà quan trọng nhất là
đầu tư đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hiện có và tạo ra
những sản phẩm mới có tính cạnh tranh cao trên thị trường.
2.1. Đổi mới công nghệ nhằm phát huy vai trò của ngành Dệt may Việt
Nam với sự phát triển kinh tế xã hội
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

7

2.1.1. Góp phần tăng tích luỹ vốn cho quá trình CNH-HĐH đất nước
Trong giai đoạn hiện nay, giá trị sản xuất của ngành Dệt may chiếm 9% giá
trị toàn ngành công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu 12-15% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nước. Dệt may là ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai (sau xuất khẩu
dầu thô) với tổng giá trị xuất khẩu là 4,4 tỷ USD (2004); 5,2 tỷ USD (2005). Vì vậy

ngành đã đóng góp một lượng ngoại tệ đáng kể cho ngân sách quốc gia.
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may Việt Nam qua các năm
Ch


s


2000

2001

2002

2003

2004

2005

Giá tr


xu

t kh

u (t



USD)

1,892

1,975

2,732

3,687

4,4

5,2

Tăng trư

ng (%)


4

38

35

19

17,4



Nguồn: Niên giám thống kê 2005
2.1.2. Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may sẽ làm cho ngành phát triển hơn,
từ đó không những làm biến đổi cơ cấu cây trồng ở vùng trồng nguyên liệu (như
cây đay, cây bông, cây dâu…) mà còn thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển theo
hướng phá vỡ thế độc canh khi chỉ trồng cây lương thực, hoa màu sang trồng cây
công nghiệp. Mặt khác, ngành Dệt may phát triển còn kéo theo sự phát triển các
ngành nghề sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành Dệt may, ngành hoá chất cung cấp
thuốc nhuộm cho ngành Dệt may, ngành cơ khí cung cấp máy móc thiết bị. Ngoài
ra còn tác động đến sự phát triển những ngành sử dụng sản phẩm của ngành Dệt
may như: giày da, nội thất… từ đó làm tăng tỷ trọng ngành công nghiệp trong cơ
cấu kinh tế.
2.1.3. Đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước
Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều mặt hàng Dệt may của nước ngoài nên
sản phẩm của nước ta phải cạnh tranh gay gắt với hàng Dệt may các nước đặc biệt
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

8

là Trung Quốc và Đài Loan. Sự cạnh tranh này sẽ càng khốc liệt hơn khi Việt Nam
gia nhập WTO bởi sự tràn vào ồ ạt của các doanh nghiệp nước ngoài. Trước đây,
vải sản xuất trong nước tiêu thụ chậm, ở thành phố lớn hàng sản xuất trong nước
không được ưa chuộng, ở nông thôn tiêu thụ chậm vì chất lượng thua kém, giá cao
hơn hàng Trung Quốc, mẫu mã kém phong phú hơn. Trong vài năm trở lại đây, do
nắm bắt nhu cầu người tiêu dùng nên ngành Dệt may đã có nhiều đổi mới. Hàng
Dệt may Việt Nam đang dần khẳng định vị trí trong lòng người tiêu dùng trong và
ngoài nước. Nhiều sản phẩm của các công ty Dệt may như May 10, Việt Tiến, Nhà
Bè, May Đức Giang… đang ngày càng trở nên quen thuộc với người dân và thoả
mãn về số lượng cũng như chất lượng, được nhiều người ưa thích và đoạt được giải

thưởng tại Hội chợ thời trang tháng 12/2005 tổ chức tại Hà Nội.
2.2. Đáp ứng nhu cầu công nghệ của ngành
Với tình trạng công nghệ hiện nay thì nhu cầu công nghệ của ngành là rất lớn
và rất cấp thiết. Để ngành Dệt may tiếp tục giữ vững vai trò của mình thì việc đáp
ứng nhu cầu về công nghệ là hết sức cần thiết.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp đều
nhận ra tầm quan trọng của đầu tư đổi mới công nghệ để đứng vững trên thị trường.
Điều này thể hiện trong điều tra của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW ở 65
doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.

Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

9

Bảng 2: Mức độ cần thiết tiến hành đổi mới công nghệ
của các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam

Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đầu tư đổi mới công nghệ tại các doanh
nghiệp Dệt may Việt Nam.
Đổi mới công nghệ là xu hướng tất yếu của ngành Dệt may Việt Nam để
khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường trong và ngoài nước. Nhìn vào kết
quả điều tra trên có thể thấy rằng các doanh nghiệp đã đánh giá cao vai trò của việc
đầu tư đổi mới công nghệ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng hứa hẹn việc đầu tư
trong tương lai sẽ được các doanh nghiệp xúc tiến.
Từ những lý do trên, chúng ta đã thấy được sự cần thiết của việc đầu tư đổi
mới công nghệ nhưng trên thực tế thì ở nước ta, tình hình đầu tư diễn ra như thế
nào? Chúng ta đi vào phân tích thực trạng của đầu tư đổi mới công nghệ.
Các hoạt động


T


l


doanh
nghiệp đánh giá là rất
cần thiết (%)
Điểm số trung
bình
C

i ti
ế
n các dây
chuyền công nghệ hiện đại
49 2,4
Đ

u tư m

i DCCN,
MMTB
45 2,3
Nghiên c

u thi
ế
t k

ế

và sản xuất sản phẩm mới
55 2,5
Nâng cao ngu

n nhân
lực công nghệ
38 2,3
B


trí l

i t


ch

c s

n
xuất
38 2,3
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

10



CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ

I. KHỐI LƯỢNG VỐN ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
1. Khối lượng vốn đầu tư
Khối lượng vốn đầu tư toàn ngành trong những năm qua có xu hướng tăng
và vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu vốn đầu tư,
thường là 40-60%. Theo kết quả thống kê cho bảng sau:
Bảng 3: Khối lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ Tổng công ty Dệt may
Việt Nam giai đoạn 2000-2005
Năm

T

ng m

c đ

u tư

(tỷ đồng)
V

n đ

u tư đ

i m

i công ngh



(tỷ đồng)
T


tr

ng

(%)
2000

2.066,8

1.126,0

54,48

2001

3.157,0

1.774,0

56,19

2002

2.111,8


1.036,0

48,89

2003

1.245,3

598,0

48,02

2004

1.514,6

709,6

46,85

2005

1.863,4

808,9

43,41

T


ng

11.948,9

6.052,5

TB:50,65


Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam (Vinatex)

Tuy vốn đầu tư giai đoạn 2000-2005 có tăng so với giai đoạn trước nhưng
xét về tỷ trọng vốn đầu tư dành cho đổi mới công nghệ thì có giảm. Nếu tỷ trọng
vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ giai đoạn 1996-2000 là 81,1 % thì sang đến giai
đoạn này chỉ còn trên 50% trên tổng vốn đầu tư. Có sự giảm tỷ trọng như trên là do
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

11

giai đoạn 1996-2000 có sự tập trung đầu tư hiện đại hóa máy móc thiết bị, nâng cao
năng lực sản xuất nhằm tạo ra bước nhảy vọt trong toàn ngành. Chính vì vậy từ
năm 2000 đến nay ngành không phải đầu tư nhiều cho công nghệ nữa mà chủ yếu
tập trung đầu tư theo chiều rộng. Trung bình mỗi doanh nghiệp Dệt may giành
2,9% doanh thu để đầu tư để cho đổi mới công nghệ.
Giai đoạn 2006-2010, Vinatex dự kiến triển khai 24 dự án đầu tư trọng điểm
cho ngành với tổng vốn đầu tư khoảng 16.000 tỷ đồng. Lĩnh vực tập trung nhiều
nhất là ngành dệt với mục tiêu đến năm 2010 sẽ sản xuất 302 triệu m
2
vải dệt thoi

và 106 triệu m
2
vải dệt kim. Dự án sản xuất xơ sợi tổng hợp có công suất 140.000
tấn/năm, đầu tư 300.000 cọc sợi cao cấp tại các khu công nghiệp ở đồng bằng Bắc
Bộ, miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long.
2. Nguồn vốn đầu tư đổi mới công nghệ
Nếu với các nước phát triển trên thế giới thì kênh huy động vốn hiệu quả là
thị trường chứng khoán thì ở Việt Nam, do thị trường chứng khoán chưa phát triển
nên chủ yếu chúng ta huy động thông qua nguồn tích lũy trong nước và vốn đầu tư
nước ngoài. Vì vậy cần xem xét các kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp Dệt
may bao gồm nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong
nước gồm có vốn từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước, vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn nước ngoài gồm có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), vốn tín
dụng từ các ngân hàng thương mại.
2.1. Nguồn vốn trong nước
2.1.1. Nguồn vốn ngân sách nhà nước
Nguồn vốn ngân sách nhà nước là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho
những dự án đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội quốc gia.
Trong lĩnh vực Dệt may nó bao gồm:
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

12

-Vốn cấp cho doanh nghiệp nhà nước Dệt may để đầu tư chiều sâu, mở
rộng các cơ sở sản xuất
-Vốn nhà nước đầu tư mới các cơ sở Dệt may
-Vốn nhà nước liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài
Tuy nhiên, ở nước ta do nguồn thu cho vốn ngân sách chưa đáp ứng được

các khoản chi tiêu, ngân sách thường xuyên phải đi vay nước ngoài nên đây chưa
phải là nguồn chính để giúp các doanh nghiệp Dệt may đầu tư đổi mới công nghệ.
Theo Bộ Công Nghiệp thì tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành đến năm 2006 cần
900 nghìn tỷ đồng nhưng huy động ngân sách chỉ chiếm 7%, còn lại phải do các
doanh nghiệp tự tìm kiếm. Như vậy, mặc dù Dệt may Việt Nam nằm trong chiến
lược phát triển kinh tế xã hội nhưng vốn đầu tư từ ngân sách còn rất thiếu thốn. Dù
đã có sự gia tăng giữa các năm nhưng xét về mặt tỷ trọng thì tỷ trọng hiện nay
không vượt quá 0,6% lượng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ.
2.1.2. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước
Đây là hình thức cho vay vốn với lãi suất ưu đãi, được áp dụng cho các dự án
trong lĩnh vực ưu tiên của kế hoạch ngân sách nhà nước. Do lãi suất vay thấp và
thời gian vay dài nên nguồn vốn này ngày càng tăng và có vị trí quan trọng. Đây
được xem là nguồn vốn nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp Dệt may đổi mới
công nghệ.
Thực tế cho thấy nguồn vốn này biến động mạnh và khó dự đoán. Giai đoạn
1991-1997 là 236 tỷ đồng, trung bình là 26,2 tỷ/năm. Giai đoạn 2000-2005, nguồn
vốn này đạt cao nhất là vào năm 2002 là 224,0. Nhưng vào năm 2004 lại giảm đột
ngột xuống còn 135,4 tỷ đồng. Có thể thấy là qua các năm, nguồn vốn tín dụng này
đã tăng lên đáng kể, nếu duy trì được tốc độ như những năm 2001, 2002 thì chắc
chắn sẽ đảm bảo được nhu cầu về vốn cho ngành
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

13

Bảng 4: Vốn trong nước đầu tư đổi mới công nghệ của Vinatex
Đơn vị: Tỷ đồng






Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
2.1.3. Nguồn vốn tự có và khấu hao của doanh nghiệp
Nguồn vốn tự có là nguồn do các chủ sở hữu đóng góp hoặc từ lợi nhuận
chưa phân phối. Vốn khấu hao là toàn bộ số tiền trích khấu hao được tích lũy lại.
Vốn khấu hao không thuộc sản xuất kinh doanh mà là nguồn vốn để tái sản xuất
giản đơn tài sản cố định. Ở Việt Nam, đối với mỗi doanh nghiệp thì tỷ lệ vốn khấu
hao được quy định khác nhau và luôn được đề cao nhằm phát huy đổi mới tính tự
chủ của doanh nghiệp trong ngành và nâng cao hiệu quả đầu tư. Các doanh nghiệp
nhà nước luôn có ưu thế hơn các doanh nghiệp tư nhân vì ngay từ đầu đã được nhà
nước hỗ trợ.
Để huy động vốn trong nước phục vụ cho đầu tư đổi mới công nghệ, các
doanh nghiệp phải có sự lựa chọn cho riêng mình: dựa vào tiềm lực của mình là
vốn tự có và khấu hao, vay tín dụng nhà nước hay ngân sách nhà nước. Đây là câu
hỏi lớn mà các doanh nghiệp phải tìm ra hướng giải quyết để phù hợp với tiềm lực
và tình hình của doanh nghiệp mình.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp vẫn có thể hy vọng vào nguồn khác triển vọng
hơn là nguồn vốn từ nước ngoài.
2.2. Nguồn vốn nước ngoài
Đây là nguồn vốn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với các nước đang phát
triển. Một mặt nó giải quyết tình trạng thiếu vốn cản trở quá trình đổi mới công
nghệ, mặt khác nước nhận đầu tư sẽ thu được lợi ích từ việc chuyển giao công nghệ.
Ch


tiêu

2000 2001 2002 2003 2004 2005
Tín d


ng nhà nư

c

81,2 224,0 224,5 220,2 135,4 144,6
Ngân sách nhà nư

c

4,9 9,3 3,9 4,2 4,7 5,0
Ngu

n khác

68,1 75,3 70,7 96 73,5 74,6
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

14

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài
mà chủ đầu tư trực tiếp quản lý và sử dụng vốn, đầu tư cho sản xuất, kinh doanh,
dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận với ba hình thức: hợp đồng hợp tác kinh doanh,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Nếu chúng ta kêu
gọi và khuyến khích đầu tư FDI đúng hướng sẽ phục vụ cho phát triển kinh tế xã
hội nước ta, phát huy được lợi thế so sánh của nước ta và tạo điều kiện tiếp thu
những công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại của thế
giới.
Hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) là khoản viện trợ không hoàn lại hoặc

các khoản vay với các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng
vay lớn của các chính phủ, tổ chức tài chính tiền tệ thế giới. Đây là hình thức đầu
tư mà người bỏ vốn và người sử dụng vốn là hai chủ thể khác nhau. ODA cho
ngành Dệt may thời gian qua chủ yếu là dành cho xây dựng, cải tạo cơ sở hạ tầng
cho ngành và hỗ trợ công tác xuất khẩu.
Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại là nguồn vốn các doanh
nghiệp vay từ các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài lãi suất cao, thời hạn trả
nợ nhanh đáp ứng mục tiêu đầu tư ngắn hạn như: hỗ trợ nhập khẩu hàng hoá,
nguyên liệu nước ngoài, thâm nhập thị trường, nhập khẩu máy móc thiết bị…
Giai đoạn 1991-1996, đầu tư nước ngoài đạt 985,76 triệu USD; trong đó hình
thức liên doanh liên kết có tổng vốn đầu tư là 126,77 triệu USD chiếm 87,14%.
Đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt may có 88 dự án với tổng vốn đầu tư là 189,46
triệu USD; hình thức liên doanh liên kết chiếm 35,13%, loại hình doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài chiếm 64,87%.
Trong năm 2006 hứa hẹn sẽ có rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
ngành Dệt may Việt Nam. Điển hình là hội nghị tài trợ và đầu tư cho ngành Dệt
may lần đầu tiên tổ chức vào 2/6/2006 tại thành phố Hồ Chí Minh với sự tham gia
của 30 ngân hàng, tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, 150 doanh nghiệp Dệt
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

15

may Việt Nam và các nhà cung cấp thiết bị nước ngoài với mục đích chính là xúc
tiến đầu tư vào Dệt may Việt Nam.
Theo hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas), Tập đoàn Pamatex Berhad
(Malaixia) với vốn đầu tư hơn 100 triệu USD đã được cấp phép đầu tư vào khu
kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam), Công ty Daewon (Hàn Quốc) quyết định đầu tư
xây dựng 1 nhà máy may xuất khẩu trị giá 8 triệu USD tại khu công nghiệp Hòa
Khánh (Đà Nẵng) sau khi đã đầu tư 1 nhà máy may tại khu công nghiệp Vĩnh Lộc

( thành phố Hồ Chí Minh) và một nhà máy dệt tại khu công nghiệp Nhơn Trạch I
(Đồng Nai). Qua các sự kiện trên cho thấy triển vọng huy động vốn cho ngành từ
đầu tư nước ngoài là rất lớn.
Hiện nay, trong tất cả các nguồn vốn trong và ngoài nước thì vốn tín dụng
đầu tư phát triển của nhà nước chiếm tỷ trọng cao nhất, vốn tín dụng thương mại
chiếm 30%, ODA là 20%, vốn tự có và ngân sách là thấp nhất.
II. PHƯƠNG THỨC ĐẦU TƯ CHO ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Đa số các doanh nghiệp sử dụng kết hợp nhiều phương thức, rất ít doanh
nghiệp chỉ sử dụng một phương thức đổi mới công nghệ. Trong đó, tự tổ chức
nghiên cứu được tiến hành song song với việc mua công nghệ mới nhằm mục đích
tăng hiệu quả ứng dụng và vận hành công nghệ.
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

16

Bảng 5: Phương thức đầu tư đổi mới công nghệ
của 64 doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.

Phương th

c đ

u tư

T


l



(%)

T


t


ch

c nghiên c

u và thi
ế
t k
ế

trong n

i b


doanh nghi

p

32

H


p tác v

i cơ quan khoa h

c nư

c ngoài

26

H

p tác v

i cơ quan khoa h

c trong nư

c


5

B

t chư

c thi
ế

t k
ế

l

i theo m

u

54

Mua công ngh


t


trong nư

c

20

Mua công ngh


t





c ngoài

54

Liên doanh liên k
ế
t v

i doanh nghi

p trong nư

c

20

Liên doanh
liên k
ế
t v

i doanh nghi

p nư

c ngoài

23


Thuê tư v

n trong nư

c

18

Thuê tư v

n nư

c ngoài


3


Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát về đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp công
nghiệp Việt Nam.
Từ kết quả nghiên cứu trên thấy rằng đa số các doanh nghiệp lựa chọn hình
thức khép kín, ít có sự giao lưu hợp tác với nước ngoài. Phương thức được áp dụng
nhiều nhất là mua công nghệ từ nước ngoài và bắt chước thiết kế lại theo mẫu đều
được 54% doanh nghiệp áp dụng. Hai phương thức này có chung một ưu điểm là
đều tiết kiệm được thời gian và chi phí nghiên cứu. Đặc biệt với phương thức mua
công nghệ từ nước ngoài thì có thêm một số ưu điểm như:
Tạo được sự tiến bộ đáng kể về thương mại và kỹ thuật thông qua việc mua
công nghệ từ nước ngoài: Khi mua công nghệ thì các doanh nghiệp sẽ có cơ hội
nhận được sự cung cấp tài liệu và huấn luyện đầy đủ để nâng cao kiến thức của
Đề án môn học

Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

17

mình trong vận hành và sử dụng công nghệ, từ đó tăng khả năng sản xuất của máy
móc thiết bị và áp dụng quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm một cách thành
công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên
cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho các doanh nghiệp của chúng ta.
Được tiếp xúc, trao đổi thông tin và kinh nghiệm với bên cung cấp công
nghệ nhằm phục vụ cho lợi ích của mình: Ngoài khả năng có những tiến bộ trực
tiếp về thương mại và công nghệ, sự hợp tác này còn đem lại cho các doanh nghiệp
Dệt may sự tiếp xúc và đối thoại thường xuyên với nhà cung cấp nước ngoài. Các
doanh nghiệp sẽ có địa chỉ của nhà cung cấp để giải đáp những thắc mắc của mình
và có nguồn thông tin để giải quyết những vấn đề khác, được phổ biến tình hình
thực tế về những cải tiến và sáng kiến, các thị trường và xu hướng phát triển. Các
doanh nghiệp nên tận dụng những thông tin có giá trị đó. Ngoài ra bên nhận công
nghệ còn có thể sử dụng kinh nghiệm của bên cung cấp để sử dụng công nghệ có
hiệu quả.
Có thể có được những điều khoản hợp đồng có lợi: Việc đàm phán hợp đồng
tiếp nhận công nghệ có thể tạo ra nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, việc mua công nghệ từ nước ngoài cũng có nhiều hạn chế, có thể
gây cho các doanh nghiệp Dệt may nhiều rủi ro.
Thứ nhất, bên nhận công nghệ sẽ trở nên thụ động, bị lệ thuộc vào cơ quan
nước ngoài đến khi nào nắm vững đầy đủ và thích ứng tới mức cần thiết công nghệ
với điều kiện của mình. Mua công nghệ đồng nghĩa với việc doanh nghiệp không
tự nghiên cứu trong nội bộ và như vậy thì doanh nghiệp sẽ đánh mất sự chủ động
sáng tạo, công tác tổ chức nghiên cứu sẽ không thể phát triển được. Thậm chí còn
xảy ra tình trạng doanh nghiệp phải thay đổi điều kiện của mình để có thể tiếp nhận
công nghệ.
Đề án môn học

Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

18

Thứ hai, có thể có rủi ro, thất bại về kỹ thuật khi được chuyển giao: Với
trường hợp mua công nghệ đã qua sử dụng thì rủi ro mua phải công nghệ đã quá lạc
hậu là rất lớn. Còn đối với công nghệ mới thì mặc dù đã được xem xét cẩn thận vẫn
còn có những rủi ro do những thiếu sót trong công nghệ. Các doanh nghiệp phải hết
sức thận trọng khi đánh giá năng lực sở tại hiện có và khả năng của mình để tiếp
nhận và làm chủ công nghệ được chuyển giao. Chỉ có sự đánh giá đầy đủ ưu, nhược
điểm của công nghệ và bên cung cấp kỹ thuật mới có thể giúp đỡ để hạn chế thấp
nhất rủi ro.
Thứ ba là rủi ro xuất phát từ bản thân bên cung cấp công nghệ về kiến thức,
kinh nghiệm
Thứ tư là rủi ro do các điều khoản bất lợi trong hợp đồng: Trước khi đi đến
kết luận cuối cùng, bên nhận phải nhận định xem các điều khoản đàm phán có lợi
cho mình không. Việc giữ bí mật về các vấn đề đã thảo luận này thường cản trở các
nhà kinh doanh nhận công nghệ tham khảo ý kiến của luật sư, cố vấn.
III. NỘI DUNG ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
Nói đến đầu tư đổi mới công nghệ luôn bao gồm cả phần cứng và phần mềm.
Phần cứng là các máy móc thiết bị ngành Dệt may còn phần mềm là nguồn nhân
lực để vận hành máy móc đó. Các doanh nghiệp nên chú trọng cả hai vấn đề này thì
việc đầu tư đổi mới công nghệ mới có kết quả.
Trước hết chúng ta xem xét về phần cứng. Trong 5 năm 2000-2005, số lượng
máy móc thiết bị của toàn ngành và Vinatex có sự thay đổi đáng kể được trình bày
ở bảng sau.

Danh mục

Đơn vị

Năm 2000 Năm 2005
Toàn ngành

Vinatex

Toàn ngành

Vinatex
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

19

Bảng 6: Nội dung đầu tư đổi mới công nghệ ngành Dệt may và Vinatex


Nguồn: Tổng công ty Dệt may Việt Nam
1. Thiết bị kéo sợi
Thiết bị kéo sợi được đầu tư theo từng giai đoạn và mỗi giai đoạn có số vốn
khác nhau. Giai đoạn 1991-1995, ngành dệt mua mới 201.906 cọc sợi. Ngoài ra còn
đầu tư 39,96 triệu USD để thay mới, thay thế đồng bộ và cục bộ các máy cũ của
Tây Âu và nâng cấp cải tạo các cọc sợi. Do đó sợi dệt công nghệ mới đạt chất
lượng cao. Giai đoạn 1996-2004 đánh dấu một giai đoạn mà thiết bị kéo sợi được
đầu tư lớn, với tổng vốn đầu tư là 1.976,5 triệu USD nhằm đáp ứng yêu cầu của
ngành. Các thiết bị này có xuất xứ rất đa dạng, nhiều chủng loại: xuất xứ từ Tây Âu,
Nhật Bản…20,2% thiết bị từ Italy; 19,97% từ Thụy Sỹ; 18,25% từ Trung Quốc;
16,65% từ Đức… Năm 2005, ngành dệt có 2.487.000 cọc sợi (17.870 rôto) trong
đó đầu tư mới 502.000 cọc sợi, sản xuất 260.000 tấn sợi một năm. Tuy nhiên theo
Năng lực sản xuất


-Bông
-Sợi
-Vải
-Khăn
-Sản phẩm may

tấn
tấn
triệu m
tấn
triệu sp

8.000

85.000

304

25.000

400


6.400

75.000

139

5.200


110


16.750

260.000

800

32.000

1.200


16.000

118.700

205.000

8.500

360

Trang thiết bị
-Kéo sợi nồi cọc
-Kéo sợi OE
-Dệt vải
-Dệt kim

-May

cọc sợi
rôto
máy dệt
máy dệt kim

máy may

1.050.000

3.520

14.000

1.110

190.000


900.000

2.000

6.320

130

28.000



2.487.000

17.870

17.437

4.972

145.300


1.274.000

11.300

5.015

720

41.460

Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

20

các chuyên gia về công nghệ, kỹ thuật nước ta thì trình độ công nghệ của tiểu
ngành vẫn ở mức trung bình và lạc hậu, đòi hỏi phải đầu tư hơn nữa.
2. Thiết bị, công nghệ dệt thoi

Giai đoạn 1991-1995, các thiết bị dệt thoi đã quá cũ và lạc hậu so với khu
vực và thế giới được đầu tư nâng cấp và thay mới với vốn đầu tư là 14,09 triệu
USD, đầu tư nâng cấp những thiết bị đã qua sử dụng nhưng năng lực thực tế vẫn
chấp nhận được. Thiết bị dệt thoi mà ngành mua về chủ yếu từ Hàn Quốc, Nhật
Bản…Từ năm 1996 đến nay, với lượng vốn đầu tư khoảng 78,5 triệu USD, toàn
ngành có 6000 thiết bị dệt thoi mới. Hiện nay có 17.437 máy dệt với công suất là
800 triệu m vải, 32.000 tấn khăn bông nhưng chất lượng vải còn hạn chế. Vải dệt
thoi xuất khẩu và cung cấp cho may xuất khẩu chỉ khoảng 13-14%. Nguyên nhân là
do trình độ công nghệ ở mức trung bình không đáp ứng được yêu cầu vải xuất khẩu.
Vì vậy, trong thời gian tới, ngành nên đầu tư cho thiết bị dệt thoi để đáp ứng nhu
cầu về vải xuất khẩu và vải cho ngành may.
3. Thiết bị, công nghệ dệt kim
Vào giai đoạn 1996-2000, cùng với đầu tư sửa chữa và nâng cấp máy móc đã
qua sử dụng, các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam đã đầu tư dây chuyền công nghệ
dệt kim mới của châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc, làm tăng hiệu quả và năng lực sản
xuất với 1.110 máy dệt kim, đạt hơn 70.000 tấn sản phẩm mỗi năm. Từ năm 2000
đến nay, trước đòi hỏi về chất lượng hàng hoá xuất khẩu ngày càng cao của thị
trường thế giới, tiểu ngành dệt kim đã tăng tốc trong việc cải thiện trình độ công
nghệ. Đến năm 2005, toàn ngành có tới 4.972 máy dệt kim và được đánh giá là
trình độ công nghệ trung bình khá và đã cải thiện được rất nhiều vấn đề về công
nghệ như giảm tỷ lệ tiêu hao nguyên liệu, sản xuất các loại vải mật độ cao, ổn định
kích thước, ít lỗi, thay đổi mặt hàng…

Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

21

4. Thiết bị, công nghệ ở khâu in nhuộm, hoàn tất
Giai đoạn 2000-2004, các doanh nghiệp thành viên của VINATEX đã đầu tư

khoảng 1.208,67 tỷ đồng cho việc thay mới và bổ sung, nâng cấp thiết bị công nghệ
in, nhuộm, hoàn tất. Trong đó, hầu hết các thiết bị được mua từ các nước Tây Âu
với tổng giá trị 321,5 tỷ đồng; tiếp đó là máy móc từ Đài Loan với tổng giá trị
102,4 tỷ đồng, chiếm 16% và Nhật Bản với tổng vốn đầu tư khoảng 68,2 tỷ đồng,
chiếm 14% Các thiết bị công nghệ mua ở thị trường trong nước rất ít, chỉ khoảng
1,984 tỷ đồng chiếm 0,3% tổng vốn đầu tư mới.
5. Đầu tư cho thiết bị, công nghệ ngành may
Nếu như ngành dệt chủ yếu sản xuất đầu vào cho ngành may thi ngành may
lại là ngành trực tiếp tạo ra sản phẩm tiêu dùng và xuất khẩu. Vì vậy vấn đề nâng
cao tính cạnh tranh của sản phẩm là hết sức cần thiết. Vào giai đoạn 1996-2005,
toàn ngành đã đầu tư cho máy móc thiết bị ngành may. Trong giai đoạn này,
Vinatex đã giành 28,7% tổng vốn đầu tư của mình để đầu tư cho thiết bị công nghệ
ngành may, tương đương với 356,8 tỷ đồng ; trong đó, tổng đầu tư của các doanh
nghiệp may là 260,2 tỷ đồng, chiếm 87% tổng vốn đầu tư cho thiết bị công nghệ
may mặc và các doanh nghiệp dệt đầu tư cho may là 50,3 tỷ đồng, chiếm 13%.
Hiện nay, việc đầu tư máy móc thiết bị ngành may dịch chuyển theo hướng
chủ yếu sản xuất các sản phẩm chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong
các thị trường tiềm năng, những doanh nghiệp đi đầu trong việc đầu tư đổi mới
công nghệ phải kể đến doanh nghiệp may Việt Tiến, May 10, may Nhà Bè …
Nhìn vào các con số thống kê có thể thấy rằng, các doanh nghiệp Dệt may đã
tập trung một lượng vốn lớn cho đầu tư hiện đại hoá và đổi mới trang thiết bị công
nghệ của ngành. Những nỗ lực đó đã mang lại nhiều kết quả khả quan như năng lực
sản xuất tăng lên, công nghệ và thiết bị được hiện đại hóa, cải thiện kim ngạch xuất
khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm Dệt may trên thị trường quốc tế.
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

22

Trong năm 2005, toàn ngành dệt may đã tiến hành triển khai nhiều dự án đổi

mới công nghệ như: dự án mua mới và mở rộng sản xuất tại công ty Dệt Đông Á,
Công ty Dệt may Hà Nội đầu tư mua mới trang thiết bị nhằm tăng năng suất lao
động thêm 2.494 tấn sợi/năm; công ty May 10 đã đầu tư thêm máy móc thiết bị
hiện đại để tăng năng lực thêm 200.000 bộ veston/năm, ngoài ra còn có các dự án
của công ty Dệt may Hòa Thọ, đầu tư máy móc thiết bị mới tại Công ty dệt Phong
Phú, dệt Thành Công, Dệt may Nha Trang…
Năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam dành 1.773 tỷ đồng cho đầu tư đổi
mới công nghệ Dệt may. Trong đó, nội dung đầu tư gồm đầu tư nâng cấp và mở
rộng khâu hoàn tất vải dệt thoi như nâng cấp và mở rộng các nhà máy nhuộm của
Dệt Nam Định, Dệt may Thắng Lợi, Dệt Việt Thắng trên cơ sở cổ phần hóa hoặc
liên doanh với các đối tác nước ngoài. Đẩy nhanh tiến độ di dời kết hợp hiện đại
hóa các công ty Dệt 8/3, Dệt Nam Định, Dệt kim Đông Xuân,…Nghiên cứu sản
xuất sản phẩm mới và sản phẩm dệt thoi trên cơ sở vải cotton CLC, vải spandex,
vải thời trang; các sản phẩm dệt đa chức năng, kỹ thuật và nhóm sản phẩm nội thất:
vải bọc, đồ dùng gia đình, xe hơi, thảm trải sàn,…Tập đoàn Dệt may Việt Nam
cũng đầu tư nâng cao năng suất lao động trọng tâm vào khâu kéo sợi, dệt thoi, may
mặc với chỉ tiêu tăng 20-30% so với hiện nay.
Cùng với việc đầu tư vào máy móc thiết bị thì các doanh nghiệp cũng không quên
đầu tư vào đội ngũ công nhân kĩ thuật là những người vận hành máy móc thiết bị
đó.
6. Đầu tư nguồn nhân lực ngành Dệt may
Ngành Dệt may Việt Nam hiện đang huy động và sử dụng hơn 1 triệu lao
động trong các dây chuyền công nghệ (riêng ngành may là trên 900.000 người).
Ngoài ra còn khoảng 1 triệu lao động đang tham gia trong các hộ gia đình và hợp
tác xã. Bên cạnh lực lượng đông đảo đó còn phải kể đến số lao động trong ngành
Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

23


trồng bông và dâu tơ tằm. Tuy nhiên, chất lượng lao động lại đặt ra nhiều vấn đề
đối với doanh nghiệp Dệt may, nguồn nhân lực hiện đại trình độ rất thấp nhưng khả
năng đào tạo nguồn nhân lực cho ngành lại rất hạn chế.
Do đặc trưng lao động của ngành là cần cù, khéo léo và tỉ mỉ nên lao động
nữ chiếm số đông. Trong toàn ngành Dệt may, lao động nam ngành dệt chiếm
5,72%, lao động nam ngành may chiếm 17,3%; lao động nữ ngành dệt chiếm
12,28%, lao động nữ ngành may chiếm 64,7%. Tỷ lệ lao động nữ ngành dệt gấp đôi
nam; ngành may thì sự chênh lệch này còn lớn hơn là gấp 3 lần. Điều này đặt ra
một nhu cầu đối với các doanh nghiệp phải tổ chức làm việc hợp lý, phù hợp với
sức khỏe nữ giới.
Với số lượng lao động có thể nói là rất lớn như vậy nhưng trình độ của họ
chủ yếu vẫn là lao động thủ công. Trong ngành dệt, lượng lao động qua đào tạo chỉ
chiếm 35,1%; trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học chỉ chiếm 7%. Trong
ngành may, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp hơn, chiếm 18,24% tổng số lao
động; trình độ cao đẳng, đại học và sau đại học chỉ dừng lại ở mức 4,16%.
Bảng 7: Trình độ lao động trong các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam.
Trình độ lao động
T


l


trong các doanh
nghiệp dệt (%)
T


l



trong các doanh
nghiệp may (%)
Lao đ

ng ph


thông

65,9

81,76

Công nhân

19,2

6,53

K


thu

t viên

3,3

3,92


Trung c

p

4,6

3,63

Đ

i h

c
và cao đ

ng

6,9

4,15

Trên đ

i h

c

0,1


0,01


Đề án môn học
Đoàn Thị Thu Trang - Kinh tế Đầu tư 45C

24

Lao động quản lý trình độ thấp nhưng lao động sản xuất cũng không khá hơn
là mấy. Phần lớn lao động là người ngoại tỉnh, chủ yếu là xuất thân nông dân ra
thành thị kiếm việc làm nên chưa được trang bị bất cứ kỹ năng nào, khi vào doanh
nghiệp trình độ là dưới cơ bản. Khi các doanh nghiệp tuyển dụng họ thì phải chấp
nhận đào tạo lại trước khi đưa họ vào các dây chuyền sản xuất. Điều này làm doanh
nghiệp tốn thời gian, công sức và chi phí. Ngoài ra, nó còn gây khó khăn cho doanh
nghiệp về quản lý do:
- Trình độ nhận thức về pháp luật, về nội qui kỉ luật, chính sách lao động và
tiền lương là không có.
- Trình độ văn hóa và tay nghề của cán bộ quản lý hạn chế dẫn tới việc tổ
chức sản xuất kém hiệu quả, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm kém. Điều này
dẫn tới thu nhập của người lao động thấp, lại phải tăng giờ tăng ca để kịp hợp đồng.
- Không có quỹ thời gian cho việc tổ chức sinh hoạt định kỳ và tuyên truyền
các vấn đề xã hội cho công nhân.
Sau đây là bảng một số đặc điểm lao động của ngành dệt may thành phố Hồ
Chí Minh.

×