Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận: Trái phiếu chính phủ Việt Nam pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.59 KB, 28 trang )










Tiểu luận

Trái phiếu chính phủ
Việt Nam

















LỜI MỞ ĐẦU


Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải có vốn lớn để
đầu tư, tạo chuyển biến về chất trong quản lý, kỹ thuật - công nghệ, đổi mới
cơ cấu và chất lượng sản phẩm. Chính phủ đã và đang giúp các Doanh
Nghiệp khắc phục sự eo hẹp về vốn.
Không chỉ ở những nước đang phát triển, mà cả các cường quốc
kinh tế, Chính phủ đều quan tâm dành một phần đáng kể từ ngân sách Nhà
nước và nguồn vốn huy động (như trái phiếu) để hỗ trợ các Doanh Nghiệp
phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh, mở rộng
thị trường.
Nước ta hội nhập kinh tế quốc tế với điểm xuất phát thấp, thiếu
vốn đầu tư, các Doanh Nghiệp nói chung đều gặp khó khăn, trước các đối
thủ cạnh tranh, có bề dày kinh nghiệm và nhiều thuận lợi về tài chính - tín
dụng.
Thực trạng này phải có thời gian mới dần dần khắc phục được,
bởi vì nguồn vốn của nước ta còn nhỏ, hệ thống ngân hàng đang trong quá
trình đổi mới, công nghệ chưa tiên tiến, chi phí cao Cho nên, yêu cầu
khách quan phải có nguồn tài chính trợ giúp Doanh Nghiệp giảm bớt khó
khăn, thiệt thòi trong cuộc cạnh tranh không cân sức với Doanh Nghiệp
nước ngoài. Trên cơ sở đó Chính phủ đã phát hành trái phiếu chính phủ
Để hiểu thêm về công cụ công cụ tài chính quan trọng này em chọn đề
tài của mình là “Trái phiếu chính phủ Việt Nam”. Em xin chân thành cảm
ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy Huệ, người đã giúp em hoàn thành đề án
môn học này. Trong phạm vi môn học chắc chắn không thể tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn

Hà Nội, ngày 24 tháng 12 năm 2007

Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị

2 khoá 13
2

Phần I: Những vấn đề cơ bản về trái
phiếu chính phủ

1. Trái phiếu
1.1. Khái niệm:
- Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho
vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ
thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.2. Đặc điểm:
a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính:
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon)
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và
người đầu tư .
- Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành
vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ,
người nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo
cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào
những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
- Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ
thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương,
mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt
đó.
- Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi

Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
3

ro của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi
suất càng cao.
- Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.3. Phân loại trái phiếu.
* Căn cứ vào việc có ghi danh hay không
- Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên chứng
chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính
theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra
và mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó
mang chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
- Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ,
trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể
chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn
lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ.
Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác
nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
*Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó:
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn
cho những mục đích cụ thể
- Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn
dài hạn.
2. Trái phiếu chỉnh phủ:

2.1.Các loại Trái phiếu chính phủ
- Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
4

nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công
ích, hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
- Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán
và cũng là loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất
của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định
lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn.
- Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động
vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình
cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do
chính phủ trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành.
2.2. Lợi ích của đầu tư qua trái phiếu chính phủ:
- Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương được miễn
thuế thu nhập. Đối với những người có thu nhập cao, mua trái phiếu trên
vẫn có lợi.
- Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi
suất thị trường. Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn
có lợi.
- Khi mua bán trái phiếu, nhà đầu tư thường không phải trả hoa hồng
cho người môi giới như với cổ phiếu. Thay vào đó, người môi giới trái
phiếu được hưởng phần chênh lệch giá bán/mua.
- Giá cả trái phiếu biến động rất ít, thu nhập từ trái phiếu khá ổn định,
do đó, trái phiếu được coi là một tài sản tài chính có mức độ an toàn cao

4. Khi đầu tư trái phiếu cần chú ý gì?
* Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: chiều hướng lên xuống
của lãi suất và uy tín của nhà phát hành.
- Rủi ro chủ yếu mà người nắm giữ trái phiếu phải chịu là về mặt lãi
suất. Khi lãi suất bình quân trên thị trường tăng lên thì đương nhiên những
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
5

người cầm giữ các trái phiếu với lãi suất cố định là những người chịu thiệt
thòi.
- Vì trái phiếu là một khoản nợ, nên giá cả của nó phụ thuộc khá nhiều
vào độ tin cậy tín dụng của nhà phát hành
- Nên mua trái phiếu lúc lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang
trên đà giảm dần. Và nên mua trái phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi
suất cao trong một thời gian dài.
- Ngược lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán
trái phiếu dài hạn đi để mua vào trái phiếu trung hạn.
















Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
6



Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
7

Phần II: Trái phiếu chính phủ của
Việt Nam.

1.Thực trạng trái phiếu chính phủ Việt Nam:
1.1. Các quy định của chính phủ Việt Nam về việc phát hành trái
phiếu
- Ở Việt Nam hiện nay, tương tự như trên thế giới, luật pháp qui định
về phát hành trái phiếu lại khá nghiêm ngặt. Trái phiếu Chính phủ được
phát hành trên thị trường sơ cấp và phát hành theo phương pháp đấu thầu.
1.1.1 Quyết định của chính phủ về việc phát hành và sử dụng trái
phiếu chính phủ giai đoạn 2003-2010:

“Phát hành và sử dụng trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2003 - 2010 -
Theo Quyết định số 171/2006/QĐ-TTg ban hành ngày 24/7/2006, Thủ
tướng Chính phủ quyết định: tổng mức trái phiếu Chính phủ phát hành là
110.000 tỷ đồng. Mức phát hành và thời điểm phát hành hàng năm được
xác định trên cơ sở nhu cầu vốn và tiến độ thực hiện của các dự án
Nguyên tắc phân bổ nguồn vốn: Bảo đảm bố trí vốn không vượt quá tổng
mức đã được thông báo giao chỉ tiêu theo ngành, lĩnh vực, Tập trung vốn
đầu tư cho các dự án theo thứ tự ưu tiên, đảm bảo bố trí đủ vốn để hoàn
thành dứt điểm dự án, đáp ứng yêu cầu bức thiết của dự án.
Riêng đối với đường giao thông ô tô đến trung tâm các xã chưa có đường ô
tô, ngoài nguồn vốn trái phiếu Chính phủ, các địa phương cần bố từ ngân
sách địa phương và huy động thêm các nguồn vốn hợp pháp khác, kể cả
việc huy động từ đóng góp của cộng đồng dân cư để đầu tư
Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 24/7/2006.”
1.1.2 Quy trình đấu thầu trái phiếu:
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
8

Bước 1: Thông báo đấu thầu:
Trước ngày tổ chức đấu thầu 04 ngày làm việc, Ban đấu thầu trái
phiếu thực hiện việc thông báo đấu thầu trái phiếu tại Trung tâm (mẫu
02/ĐTTP) cho các thành viên qua mạng máy tính và Fax, đồng thời công
bố trên các phương tiện thông tin đại chúng và trên các phương tiện thông
tin hiện có của Trung tâm. Nội dung thông báo theo quy định tại Điểm 8.2
Thông tư 21/TT-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Tài chính.
Bước 2: Lập phiếu dự thầu:
Thành viên tham gia đấu thầu cho chính mình sử dụng mẫu

03A/ĐTTP. Các tổ chức, cá nhân không phải là thành viên sử dụng mẫu
03B/ĐTTP. Mỗi thành viên/ tổ chức, cá nhân chỉ được bỏ một phiếu dự
thầu cho một đợt đấu thầu.
- Đối với một phiếu dự thầu thì phần đặt thầu cạnh tranh được ghi
tối đa 05 mức lãi suất khác nhau; phần đặt thầu không cạnh tranh chỉ được
ghi khối lượng.
- Khối lượng đặt thầu:
+ Khối lượng đặt thầu tính theo mệnh giá trái phiếu; khối lượng tối
thiểu đối với các thành viên tham gia đấu thầu là 100.000.000 đồng (trong
trường hợp tham gia dự thầu với nhiều mức lãi suất thì khối lượng tối thiểu
của mỗi mức lãi suất là 100.000.000đ); khối lượng đặt thầu tối đa là khối
lượng trái phiếu thông báo đấu thầu (trong trường hợp tham gia dự thầu với
nhiều mức lãi suất thì tổng khối lượng đặt thầu của các mức lãi suất không
được vượt quá khối lượng trái phiếu đấu thầu)
+ Phần chữ và phần số của khối lượng đặt thầu phải khớp nhau
- Lãi suất đăng ký đấu thầu ghi theo tỷ lệ % /năm, phần thập phân tối
đa là 02 con số sau dấu phảy.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
9

- Phiếu dự thầu phải được điền đầy đủ, rõ ràng, không tẩy xoá,
không viết bằng mực đỏ hoặc bút chì và có chữ ký của giám đốc / tổng
giám đốc hoặc người được giám đốc uỷ quyền đã đăng ký tại Đơn xin tham
gia thành viên đấu thầu.
- Đối với phiếu dự thầu của tổ chức, cá nhân không phải là thành
viên: các nội dung về khối lượng, lãi suất đặt thầu (cả phần số và phần chữ)
do tổ chức, cá nhân ghi và phải có chữ ký và đóng dấu (nếu là tổ chức)

hoặc chữ ký (nếu là cá nhân).
- Mỗi phiếu dự thầu được bỏ trong một phong bì niêm phong kín có
đóng dấu của thành viên tại một góc phong bì. Đối với phiếu dự thầu của
khách hàng thì ngoài phong bì phải được đóng thêm dấu của khách hàng
(nếu là tổ chức) hoặc có chữ ký của khách hàng (nếu là cá nhân).
Các phiếu dự thầu không đúng và đầy đủ các nội dung theo mẫu
03A/ĐTTP và 03B/ĐTTP và các quy định trên đây là không hợp lệ
Bước 3: Gửi và tiếp nhận phiếu dự thầu:
Các thành viên/tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu bỏ phiếu dự thầu
vào hòm phiếu tại Trung tâm và phải ký xác nhận vào danh sách tham gia
đấu thầu. Thời gian bỏ phiếu trong vòng 60 phút trước giờ mở thầu.
Trường hợp gửi qua bưu điện thì Trung tâm phải nhận được trước giờ mở
thầu 15 phút (căn cứ vào thời điểm ký nhận giữa Trung tâm và bưu điện)
Bước 4: Tổ chức xét thầu:
4.1 Mở thầu
Vào thời điểm bắt đầu đấu thầu, Thư ký Ban đấu thầu kiểm tra dấu
niêm phong và mở hòm phiếu dưới sự chứng kiến của đại diện các thành
viên (nếu có).
4.2 Kiểm tra tính hợp lệ của phiếu dự thầu
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
10


- Hai thành viên của Ban đấu thầu kiểm tra tính hợp lệ của phiếu dự
thầu và ký xác nhận đã kiểm tra.
- Các phiếu dự thầu không hợp lệ bị loại bỏ, Ban đấu thầu có trách
nhiệm thông báo cho thành viên liên quan ngay trong ngày (mẫu

04/ĐTTP).
4.3 Nhập số liệu vào hệ thống
Ban đấu thầu nhập nội dung các phiếu dự thầu hợp lệ vào hệ thống.
Thông tin về nội dung phiếu dự thầu được hiển thị trực tuyến lên bảng điện
tử của Trung tâm.
4.4 Xét thầu
Hệ thống đấu thầu xác định lãi suất trúng thầu và khối lượng trúng
thầu theo quy định tại Điểm 8.4 Mục II Thông tư 21/TT-BTC ngày
24/3/2004 của Bộ Tài chính. Giá bán trái phiếu được xác định theo quy
định tại Điểm 8.5 Mục II Thông tư 21/TT-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Tài
chính.
Bước 5: Thông báo kết quả đấu thầu:
Ngay sau khi kết thúc việc đấu thầu, Ban đấu thầu thực hiện việc
thông báo kết quả đấu thầu như sau:
- Lập Báo cáo kết quả đấu thầu trái phiếu (mẫu 05/ĐTTP) gửi cho tổ
chức phát hành, Bộ Tài chính (UBCKNN, Vụ Tài chính các ngân hàng và
tổ chức tài chính), UBND tỉnh, thành phố (nếu là trái phiếu Chính quyền
địa phương).
- Lập và gửi Thông báo kết quả đấu thầu trái phiếu (mẫu 06/ĐTTP)
cho các thành viên tham gia đấu thầu và Ngân hàng nơi Trung tâm mở tài
khoản.
- Công bố kết quả đấu thầu trên phương tiện thông tin đại chúng và
trên phương tiện thông tin hiện có Trung tâm.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
11



Bước 6: Thanh toán tiền mua và chuyển giao trái phiếu
- Ngày phát hành trái phiếu được ấn định vào ngày làm việc thứ hai
kể từ ngày đấu thầu. Trong phạm vi 02 ngày làm việc tiếp theo ngày đấu
thầu, các thành viên trúng thầu phải chuyển toàn bộ tiền mua trái phiếu
theo giá bán đã được xác định trong thông báo trúng thầu vào tài khoản
của tổ chức phát hành. Thành viên có trách nhiệm thu tiền đối với phần
trúng thầu trái phiếu của khách hàng đấu thầu qua mình để nộp cho tổ chức
phát hành.
- Ngân hàng nơi mở tài khoản của tổ chức phát hành sau khi nhận
được tiền sẽ báo Có cho tổ chức phát hành đồng thời thông báo cho Trung
tâm để làm thủ tục ghi sổ trái phiếu cho tổ chức, cá nhân trúng thầu.
- Trên cơ sở thông báo của ngân hàng nơi tổ chức phát hành mở tài
khoản về việc thanh toán của tiền mua trái phiếu và bảng tổng hợp kết quả
đấu thầu, Trung tâm (Phòng ĐK-LK-TTBT) hạch toán khối lượng trái
phiếu trúng thầu như sau:
+ Đối với những tổ chức có tài khoản lưu ký tại Trung tâm: Phòng
ĐK-LK-TTBT hạch toán trực tiếp vào tài khoản của tổ chức và thông báo
cho tổ chức đó.
+ Đối với tổ chức, cá nhân mở tài khoản lưu ký tại một thành viên
lưu ký: Phòng ĐK-LK-TTBT hạch toán vào tài khoản của thành viên lưu
ký liên quan và thông báo cho thành viên đó. Căn cứ thông báo của Trung
tâm, thành viên lưu ký này hạch toán số trái phiếu trúng thầu và thông báo
cho khách hàng của mình.
- Nếu tổ chức, cá nhân trúng thầu muốn rút chứng chỉ trái phiếu thì
phải làm thủ tục rút chứng chỉ trái phiếu theo quy định.
Bước 7: Xử lý các trường hợp vi phạm thanh toán
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13

12


- Trường hợp các tổ chức, cá nhân trúng thầu làm thủ tục thanh toán
chậm so với ngày quy định, tổ chức phát hành thông báo cho Trung tâm tên
tổ chức trúng thầu và thời gian chậm thanh toán.
- Trên cơ sở thông báo của tổ chức phát hành, Trung tâm yêu cầu
ngân hàng nơi thành viên liên quan mở tài khoản trích tài khoản tiền gửi
chuyển cho tổ chức phát hành. Số tiền được trích chuyển bao gồm tiền
chậm trả của chính thành viên và của khách hàng của thành viên. Thành
viên có trách nhiệm thu hồi tiền chậm trả của khách hàng
- Tổ chức, cá nhân thanh toán chậm sẽ bị phạt chậm thanh toán. Số
tiền phạt chậm thanh toán được trích từ tài khoản tiền gửi của thành viên.
Thành viên phải chịu trách nhiệm nộp tiền phạt đối với cả phần chậm thanh
toán của khách hàng và có quyền thu hồi số tiền phạt từ khách hàng.
- Việc xác định số tiền phạt và nộp vào các cơ quan liên quan được
thực hiện theo quy định tại Điểm 9.2 Thông tư 21/TT-BTC ngày 24/3/2004
của Bộ Tài chính.
- Trường hợp quá 5 ngày so với thời gian thanh toán quy định, số dư
trên tài khoản tiền gửi của các thành viên liên quan vẫn không đủ để thanh
toán, ngân hàng nơi thành viên liên quan tổ chức, cá nhân vi phạm mở tài
khoản có trách nhiệm thông báo cho Trung tâm. Trên cơ sở đó, Trung tâm
huỷ bỏ phần kết quả trúng thầu chưa được thanh toán và yêu cầu ngân hàng
trích tài khoản tiền gửi của thành viên liên quan nộp phạt 5% trên số tiền
bị huỷ bỏ để nộp vào các cơ quan theo quy định tại Điểm 9.2 Thông tư
21/TT-BTC ngày 24/3/2004 của Bộ Tài chính
- Trung tâm thực hiện thông báo về kết quả xử lý cho tổ chức phát
hành, Bộ tài chính (UBCKNN, Vụ Tài chính các ngân hàng và tổ chức tài
chính), UBND tỉnh, thành phố (nếu là trái phiếu Chính quyền địa phương)
và thành viên

Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
13


1.2. Thực trạng trái phiếu chính phủ của Việt Nam :
1.2.1 Trái phiếu chính phủ trên thị trương trong nước
- Ở thị trường vốn trong nước, Chính phủ Việt Nam đã phát hành
thành công nhiều đợt trái phiếu theo phương thức đấu giá lãi suất. Trung
tuần tháng 3/2007, 300 tỷ đồng trái phiếu Chính phủ lần đầu tiên được phát
hành đấu thầu theo lô lớn (lô 100, 200, 300 tỷ đồng) đã được các nhà đầu
tư nước ngoài mua hết với mức lãi suất thấp nhất trong vòng ba năm trở lại
đây 6,8%/năm. Từ sau lần này, những đợt phát hành tiếp theo lãi suất trái
phiếu sẽ cố định, nhưng mệnh giá sẽ thay đổi. Giá trái phiếu sẽ không là
100.000 đồng nữa, mà có thể xuống 99.000-98.000 đồng hay lên 101.000-
102.000 đồng. Sức hấp dẫn của trái phiếu càng cao, thì giá trúng thầu sẽ
càng thấp hơn mệnh giá và ngược lại.
- Theo số liệu của Kho Bạc Nhà Nước:
+ Tổng số tiền thu được từ phát hành TPCP đợt I (năm 2003) và đợt II
(năm 2004) là 8228 tỷ đồng và 77,392 triệu USD. Nếu quy đổi ngoại tệ ra
nội tệ thì tổng số phát hành trái phiếu tương đương 10.066 tỷ đồng/9.500 tỷ
đồng, đạt hơn 105% kế hoạch huy động
+ TPCP do Kho bạc Nhà nước phát hành, năm 2006 và 6 tháng đầu
năm 2007 thông qua gần 30 phiên đấu thầu TPCP tại HASTC, đã huy động
được 12.695 tỷ đồng cho ngân sách nhà nước. Hơn nữa, lãi suất đấu thầu
trái phiếu giảm dần (lần đầu tiên lãi suất TPCP đã giảm xuống mức thấp
hơn lãi suất ngân hàng, cụ thể lãi suất cơ bản vào ngày 1/6/2007 là 8,25%
theo Quyết định 1143/QĐ-NHNN ngày 29/5/2007, trong khi đó lãi suất

trúng thầu TPCP kỳ hạn 5 năm vào ngày 11/6/2007 là 7,15%), dẫn đến lãi
suất bảo lãnh phát hành cũng giảm. Điều này đã giúp làm giảm đáng kể
gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong việc huy động vốn cho đầu tư
phát triển, góp phần bình ổn lãi suất cho vay của ngân hàng, từ đó góp phần
bình ổn kinh tế vĩ mô.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
14


+ Tuy nhiên, phiên đấu thầu 200 tỷ đồng TPCP (kỳ hạn 15 năm, phát
hành ngày 27/9/2007 dưới hình thức ghi sổ) do Ngân hàng Phát triển Việt
Nam phát hành diễn ra vào chiều 25/9/2007 tại HASTC với khối lượng
trúng thầu bằng 0! Và mới đây nhất, phiên đấu thầu TPCP do Kho bạc Nhà
nước phát hành đợt 16/2007 loại kỳ hạn 5 năm diễn ra vào chiều 4/10/2007
kết quả cũng lại như phiên đấu thầu TPCP hôm 25/9, toàn bộ 500 tỷ đồng
cũng không phát hành được.
1.2.2 Trái phiếu chính phủ Việt Nam trên thị trường quốc tế
- Trái phiếu Chính phủ Việt Nam chào bán lần đầu tiên trên thị trường
vốn quốc tế ngày 27/10/2005
- Đề án phát hành trái phiếu quốc tế đã được Bộ Tài chính “thai
nghén” từ cách đây hơn 10 năm. Năm 1994, ngay sau khi Trung Quốc phát
hành trái phiếu lần đầu tiên ra thị trường thế giới, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ
Tài chính bắt tay vào nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm để xây dựng đề án
này. Tuy nhiên do những biến động của thị trường tài chính-tiền tệ thế giới,
đề án đã nhiều lần bị trì hoãn vì chưa hội đủ các điều kiện thuận lợi. Năm
2005, Kinh tế trong nước phát triển, nợ nước ngoài ở mức an toàn, thị
trường tài chính thế giới ổn định cộng với nhu cầu vốn cho đầu tư phát

triển ngày một lớn tháng 10/2005 chính phủ Việt Nam đã phát hành trái
phiếu chính phủ trên thị trường chứng khoán Singapore.
- Lần đầu tiên Chính phủ VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị
trường quốc tế đã thành công rực rỡ. Số lượng các nhà đầu tư quốc tế tham
gia mua trái phiếu đạt mức kỷ lục trên thị trường vốn trong nhiều năm trở
lại đây. Có tới trên 255 nhà đầu tư lớn mua trái phiếu của Chính phủ VN
(so với 150 nhà đầu tư mua trái phiếu của Chính phủ Indonesia đầu tháng
10/2005).
- Tổng số lượng nhu cầu các nhà đầu tư đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD,
gấp 6 lần lượng trái phiếu Chính phủ VN phát hành. Ngày 03/11/2005 giờ
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
15


Mỹ, tức ngày 04/11/2005 (sau 12 tiếng giờ Việt Nam) số tiền trái phiếu
Chính phủ 750 triệu USD sẽ chính thức chuyển về VN.Theo Thứ trưởng
Bộ Tài chính LêThị Băng Tâm, chúng ta phải chia ra bán cho các nhà đầu
tư và phần lớn chỉ đáp ứng 20% nhu cầu đặt mua, thậm chí có nhà đầu tư
đặt mua nhưng không có để bán. Ngay ngày đầu tiên tại Hồng Kông, số
lượng các nhà đầu tư đặt mua khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái
phiếu Chính phủ VN định phát hành. Chính phủ quyết định tăng khối
lượng phát hành thêm 250 triệu USD (tổng phát hành 750 triệu USD), số
lượng các nhà đầu tư đặt mua đã tăng lên hơn gấp 3 lần từ mức 1 tỷ USD
lên mức khoảng 3 tỷ USD. Ngày 29/10/2005 là ngày định giá trái phiếu
Chính phủ VN trên thị trường tài chính thế giới thì số lượng các nhà đầu tư
đặt mua lên tới 4,5 tỷ USD.
- Tất cả các nhà đầu tư quan trọng, có uy tín lớn trên thị trường tài

chính thế giới từ Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ đều quan tâm tham gia đặt
mua trái phiếu của Chính phủ VN với số lượng lớn. Đặc biệt lần này một
số Ngân hàng trung ương và các tổ chức đầu tư của Chính phủ các nước
trong khu vực Châu Á đặt mua tới 50 - 100 triệu USD. Trong đó có Ngân
hàng dự trữ quốc gia Malaysia tính đến nay chưa từng mua trái phiếu
Chính phủ của quốc gia nào thì nay đã đặt mua trái phiếu của Chính phủ
VN.
- Cũng theo bà Tâm, lãi suất trái phiếu Chính phủ VN phát hành rất
hiệu quả, thấp hơn lãi suất trái phiếu của các nước trong khu vực có cùng
hệ số tín nhiệm. Lãi suất trái phiếu loại 10 năm của VN thực trả là
7,125%/năm. Trong khi, mức lãi suất trái phiếu Chính phủ Philippines loại
10 năm giao dịch ở mức 8,1%/năm, còn trái phiếu Chính phủ Indonesia loại
10 năm giao dịch ở mức 7,8%/năm
- Trong bài báo của tác giả Beth Thomas trên tờ Bloomberg số ra ngày
23/3/2007, công ty Pacific Investment Management Co. and HSBC
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
16


Holdings Plc cho rằng nếu Việt Nam nới lỏng các hạn chế về phát hành trái
phiếu bằng ngoại tệ thì có thể khai thác tốt hơn nhu cầu của các nhà đầu tư
quốc tế cũng như cắt giảm chi phí vay nợ.
- Còn tại hội nghị do Tổng Công ty Đầu tư vốn Nhà nước và
Euromoney phối hợp tổ chức tại Hà Nội, ông Brian Baker, CEO của Pimco
Asia Ltm đã phát biểu: "Các bạn đang có một thị trường nước ngoài rất hấp
dẫn, thật đáng tiếc là vẫn còn quá nhiều thủ tục phải thông qua để phát
hành được trái phiếu."

- Theo ông Joshua Matthews, thuộc HSBC: Chính phủ Việt Nam có
thể huy động hàng tỷ USD trên thị trường quốc tế nếu họ thực sự muốn,
hiện đang có một số lượng ngoại tệ quá lớn tìm kiếm một số lượng trái
phiếu quá ít ỏi.
1.2.3 Nguyên nhân có sự thành công của trái phiếu chính phủ của
Việt Nam trên thị trường vốn:
- Hãng đánh giá đầu tư và kinh tế Moody"s vừa nâng mức xếp hạng từ
"ổn định" lên "tích cực" đối với trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ của
Việt Nam.
- Ông Tom Byrne, Phó chủ tịch Moody"s, cho biết sự điều chỉnh này
là do "thành công liên tục của chính sách phát triển hướng ra bên ngoài của
Việt Nam và sự ổn định chung của tình hình tài chính chính phủ".
- Trong năm nay, VND đã tăng giá 0,3% so với USD, hiện đang ở
mức khoảng 16.000 VND/USD, VN Index đã tăng 48%, những con số hấp
dẫn với nhà đầu tư quốc tế. Gần đây còn có thông tin trên kênh tài chính
Blooberg của Mỹ cho thấy định mức tín nhiệm của Việt Nam được nâng
lên. Tập đoàn Standard & Poor (S&P) nâng tín nhiệm của mình từ BB - lên
BB (cao hơn nữa là BB+).
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
17


1.2.4 Những tác động tích cực khi phát hành trái phiếu chính phủ
ra thị trường quốc tế :
- Cầu nối giữa thị trường vốn trong nước với thị trường tài chính quốc
tế, việc phát hành trái phiếu quốc tế mở ra một kênh huy động vốn có khả
năng đáp ứng các dự án có quy mô lớn, thời gian dài và nguồn lực hầu như

không hạn chế. Trong bối cảnh các nước đang phát triển có giới hạn về
nguồn vốn tiết kiệm, thì nguồn vốn huy động từ hoạt động phát hành trái
phiếu ra thị trường tài chính quốc tế có một ý nghĩa to lớn.
- Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển, ngân sách nhà
nước thặng dư, trái phiếu quốc tế còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện
chính sách quản lý nợ quốc gia. Thông qua việc phát hành mới trái phiếu ra
thị trường quốc tế, chính phủ có thể chủ động điều tiết danh mục tài sản nợ
chính phủ để thực hiện các chính sách tài chính tiền tệ.
1.2.5Những thách thức đối với kế hoạch phát hành trái phiếu chính
phủ ra thị trường tài chính quốc tế:
+ Tuân thủ các nguyên tắc và thủ tục pháp lý quốc tế.
+ Phải xây dựng kế hoạch sử dụng có hiệu quả ngay tiền thu được từ
phát hành trái phiếu, tránh gây lãng phí trong đầu tư.
+ Có kế hoạch cụ thể trong thanh toán nợ gốc và lãi trái phiếu khi đáo
hạn: Chính phủ cần phải có kế hoạch cân đối nguồn thu và chuẩn bị nguồn
ngoại tệ đủ để thanh toán lãi và vốn gốc khi đáo hạn. Nếu việc thanh toán
không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng đến uy tín của VN trên trường quốc tế,
và đến các đợt phát hành tiếp sau.
2. Giải pháp đẩy mạnh hiệu quả phát hành trái
phiếu chính phủ của Việt Nam trên thị trường vốn
2.1. Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu chính phủ
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
18


- Quy trình đấu thầu: Sở giao dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
làm đại lý cho Bộ tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại kỳ

hạn dưới một năm. Khách hàng thương mại và các công ty bảo hiểm, ai
trong số các khách hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái phiếu
mua cao nhất sẽ trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu có những điểm
không hợp lý. Bộ Tài Chính là cơ quan phát hành đáng lẽ phải công bố lãi
suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu
lãi suất. Nhưng đấu thầu đã làm ngược lại: khách hàng tuyên bố lãi suất và
mức mua của họ, sau đó bộ tài chính mới công bố lãi suất phát hành. Lãi
suất của khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài Chính sẽ trúng
thầu.
- Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được
vốn với lãi suất thi trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất tiển gửi và
lãi suất cho vay của Ngân hàng đã được hạ thấp, nhưng lãi suất trái phiếu
kho bạc vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách Nhà nước cần tiền
gấp để đầu tư cho một công trình dự án nào đó, phải phát hành trái phiếu,
nhưng khách hàng câu kết với nhau, bỏ thầu lãi suất cao, thì các phiên đấu
giá sẽ thất bại. Và trên thực tế có những lần Nhà nước tổ chức đấu thầu mà
không có một trái phiếu nào được phát hành.
- Tóm lại chúng ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu: Bộ Tài Chính
là cơ quan phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các Ngân
hàng và công ty Bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng.
2.2. Tăng tính thanh khoản và tập trung phát hành TPCP theo lô
lớn
- Để TPCP thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư đòi hỏi phải tăng tính thanh
khoản cho TPCP. Muốn làm được điều đó, trước hết cần phải thực hiện tốt
việc kế hoạch hoá công tác phát hành và công khai hoá thông tin; đa dạng
hoá kỳ hạn phát hành TPCP (từ 90 ngày đến 15 năm) và hình thành các kỳ
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13

19


hạn chuẩn; thực hiện tái cơ cấu lại các loại TPCP đã phát hành; nâng cấp hệ
thống giao dịch, lưu ký, thanh toán bù trừ theo hướng tự động hoá và rút
ngắn thời gian thanh toán; hình thành và phát triển các tổ chức định mức tín
nhiệm.
- Tiến hành đổi mới phương thức phát hành bằng cách hạn chế bán lẻ
TPCP, giảm bớt tần suất phát hành và chủ yếu tập trung vào phát hành trái
phiếu theo lô lớn. Chẳng hạn như thay vì phát hành liên tục TPCP theo lô
nhỏ vài trăm tỷ đồng thì nên để dồn lại và phát hành lô 1.000 – 2.000 tỷ
đồng, có cùng ngày thanh toán, cùng một lãi suất. Việc phát hành TPCP lô
lớn sẽ giảm số lượng các loại TPCP lưu hành trên thị trường, giúp các nhà
đầu tư cũng như các tổ chức trung gian dễ theo dõi, nắm bắt diễn biến về
giá của các loại TPCP
- Theo ông Nhâm Hà Hải (Giám đốc Phân tích, Công ty Tài chính
FPT): Chỉ vài năm nữa thôi, thị trường trái phiếu ở Việt Nam chắc chắn sẽ
tiếp tục tăng trưởng và diễn ra sôi động như thị trường cổ phiếu. Tuy nhiên,
mức độ tăng trưởng của thị trường này đến đâu phụ thuộc nhiều vào chính
sách của nhà nước để tạo lập một thị trường đủ minh bạch, đủ thanh khoản.
Hơn nữa, sự tham gia ngày một nhiều của các ngân hàng, các quỹ và nhà
đầu tư sẽ làm cho giao dịch trái phiếu sôi động hơn. Nhưng quan trọng hơn
cả là Nhà nước nên sớm tạo lập và phát triển thị trường thứ cấp để giao
dịch trái phiếu đạt hiệu quả cao hơn và kích thích thị trường phát triển.
2.3 Cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia:
- Hệ số tín nhiệm là đánh giá khả năng về tài chính cũng như khả năng
hoàn trả tiền gốc và lãi của chính phủ phát hành. Hệ số tín nhiệm không chỉ
cần thiết đối với việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường tài chính
quốc tế mà còn ảnh hưởng đến việc thực hiện các khoản vay thương mại.
Với các nước phát triển hệ số tín nhiệm cao có tác dụng tạo điều kiện thuận

lợi cho các khoản vay thương mại. Còn đối với các nước đang phát triển,
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
20


đang được hưởng ưu đãi qua các khoản vay ODA nên việc đưa ra hệ số tín
nhiệm thấp có thể gây khó khăn cho các khoản vay thương mại, còn nếu
càng cao thì thuận lợi cho vay thương mại nhưng ngược lại sẽ giảm đi
những ưu đãi về vay ODA. Công tác đáng giá về hệ số tín nhiệm quốc gia
được thực hiện bởi công ty xếp hạn tín nhiệm do Chính phủ lựa chọn thuê.
- Kết quả xếp hạng tín nhiệm có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công
của các đợt phát hành, cũng như lãi suất của trái phiếu. Đối với các nước
đang phát triển như Việt nam, giai đoạn đầu khi tiếp cận với kênh huy động
vốn này, nên cần phải được một công ty xếp hạng có huy tín trên thế giới
thực hiện. Điều này, nhằm tạo niềm tin tưởng cho các nhà đầu tư. Vì vậy,
Chính phủ có thể chọn thuê các những công ty như: CBRS ( Tổ chức xếp
hạng trái phiếu Canada- Canadian Bond Service), JBRI (Tổ chức xếp hạng
trái phiếu Nhật- Japanese Bond Intitute), Standard&Poor’s, Moody’s hoặc
Fitch’s. Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện các biện
pháp nhằm nâng cao hạng mức tín nhiệm như:
+ Điều hành chính sách tài khoá chủ động, hạn chế thâm hụt ngân
sách dưới 5% GDP, kiềm chế và kiểm soát lạm phát trong giới hạn hợp lý
dưới hai con số.
+ Tiếp tục đổi mới về cơ chế quản lý điều hành theo định hướng kinh
tế thị trường, đặc biệt là chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoái. Đây là những
nhân tố ảnh hưởng đến các đánh giá về xếp hạng tín nhiệm, thông qua các
chỉ số về lãi suất và tỷ giá sẽ phản ánh thực trạng về cung cầu vốn, về năng

lực cạnh tranh của hàng hóa VN trên thị trường thế giới.
+ Đổi mới hình thức hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và hệ
thống ngân hàng thương mại quốc doanh thích ứng với tiến trình phát triển
hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Xây dựng dự trữ ngoại tệ quốc gia vững mạnh, mức dự trữ ngoại tệ
là một yếu tố quan trọng làm cơ sở đánh giá rủi ro về khả năng thanh toán.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
21


+ Trong lĩnh vực quản lý nhà nước: Đẩy mạnh tiến trình cải cách hành
chính, nâng cao hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Trong các cơ quan
nhà nước hiện nay nạn quan liêu, tham nhũng đang có dấu hiệu gia tăng,
điều này ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, chất lượng các công trình đầu tư
giảm, làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư. Đồng thời, từng bước hoàn
thiện hệ thống luật pháp, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các hoạt
động kinh doanh, cũng như bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư trong và
ngoài nước
2.4. Lựa chọn đối tác bảo lãnh phát hành:
- Để nâng cao mức tín nhiệm của chủ thể phát hành trong quá trình
tiếp cận nguồn vốn, cần thiết phải có người bảo lãnh phát hành. Thông
thường có thể là một tập đoàn tài chính hoặc một ngân hàng đầu tư có uy
tín, có kinh nghiệm trên thị trường vốn quốc tế, đã từng giúp một số quốc
gia trong khu vực phát hành. Việc lựa chọn sẽ thông qua phương thức đấu
thầu cạnh tranh để đảm bảo có lợi nhất cho chính phủ phát hành. Vì vậy
các định chế tài chính quốc tế, hoặc các ngân hàng lớn sẽ là tổ chức mà
chúng ta lựa chọn làm nhà bảo lãnh phát hành.

2.5. Phân tích diễn biến thị trường tài chính quốc tế:
- Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến giá cả của trái
phiếu phát hành là tình hình lãi suất thực tế trên thị trường tài chính quốc tế
tại thời điểm phát hành. Thông thường giá trái phiếu được tính dựa trên trái
phiếu kho bạc của Mỹ, mà một trong những yếu tố cấu thành lãi suất trái
phiếu kho bạc Mỹ là mức lãi suất cơ bản do Cục dự trữ liên bang Mỹ công
bố.
- Ngoài ra, chính phủ phát hành còn phải tìm hiểu về quy mô, giá cả
của các loại trái phiếu mới phát hành, cũng như dự tính quy mô của các đợt
phát hành tiếp theo để có thể đánh giá chính xác mức cung trái phiếu trên
thị trường.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
22


2.6Chuẩn bị các tài liệu có liên quan đến việc phát hành trái phiếu:
Yêu cầu về các loại tài liệu thông thường gắn với hình thức phát hành.
Trong trường hợp phát hành rộng rãi ra công chúng gồm cả các nhà đầu tư
tư nhân, thì các yêu cầu về thủ tục đăng ký, niêm yết cũng như các tài liệu
có liên quan rất khắt khe, bắt buộc phải cung cấp.
Những tài liệu liên quan đến việc phát hành, bảo lãnh, lệ phí và phân
phối trái phiếu:
- Bảng cáo bạch, bao gồm các nội dung:
+ Các báo cáo tài chính.
+ Tên trái phiếu và các điều kiện cơ bản.
+ Ngày phát hành trái phiếu.
+ Giới thiệu các bên tham gia phát hành trái phiếu.

+ Các chi tiết về hạn chế đối với việc bán trái phiếu.
+ Thông tin chung về những tài liệu cần kiểm tra.
Bảng cáo bạch là một tập tài liệu công khai, được cung cấp cho các
nhà đầu tư, đồng thời trình lên trung tâm chứng khoán nơi có trái phiếu
niêm yết.
- Thỏa thuận của các nhà quản lý trái phiếu, gồm:
+ Thỏa thuận bảo lãnh phát hành, tho? thuận giữa tổ chức phát hành
và nhà phát hành, trong đó, phải liệt kê các thủ tục, trách nhiệm của từng
chủ thể trong từng điều kiện cụ thể.
+ Thỏa thuận với đại lý thanh toán, đại lý niêm yết, đại lý in ấn…
- Ý kiến pháp lý:
+ Tư vấn pháp lý của chính phủ phát hành đưa ra ý kiến về việc phát
hành trái phiếu chính phủ là tuân thủ pháp luật trong nước hiện hành.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
23


+ Tư vấn pháp lý của nhà bảo lãnh phát hành đưa ra ý kiến về việc
phát hành trái phiếu là tuân thủ theo luật quốc tế.
Những tài liệu có liên quan khác:
- Thỏa thuận của cơ quan tài chính.
- Chứng thư bảo đảm, chứng thư bảo lãnh….
- Thực hiện chiến dịch quảng bá, xúc tiến với các nhà đầu tư.
Quá trình quảng bá xúc tiến việc phát hành trái phiếu với các nhà đầu
tư được thực hiện qua các phương thức:
- Quảng bá qua nhà bảo lãnh phát hành.
- Hướng dẫn nội bộ cho bộ phận bán trái phiếu: bộ phận nghiên cứu

của nhà bảo lãnh phát hành sẽ có chương trình nội bộ hướng dẫn bộ phận
bán trái phiếu, trong đó nhấn mạnh thế mạnh của trái phiếu, truyền tải đến
nhà đầu tư. Việc này phải đảm bảo tính chính xác, thống nhất khi với thiệu
trái phiếu đến nhà đầu tư.
- Các chuyên gia nghiên cứu của người bảo lãnh sẽ liên tục xuất bản
những ấn phẩm nghiên cứu về tình hình phát triển kinh tế, các bước tiến
tích cực của quốc gia phát hành để duy trì thường xuyên sự quan tâm của
các nhà đầu tư.
- Kết hợp giữa chính phủ phát hành và nhà bảo lãnh.
Chiến dịch quảng bá được tổ chức dưới nhiều hình thức như:
- Tổ chức đoàn xúc tiến đầu tư tới các trung tâm tài chính lớn để giới
thiệu trái phiếu. Các nhà lãnh đạo chính phủ trực tiếp tiếp xúc với các nhà
đầu tư, đây là cách hiệu quả nhất.
- Tổ chức các diễn đàn đầu tư tại các trung tâm tài chính quan trọng.
Đề An Môn Học Khoa Kinh tế và
quản trị kinh doanh
Phạm Thu Trang Quản trị
2 khoá 13
24


- Sử dụng các phương tiện điện tử viễn thông để cung cấp các thông
tin cần thiết đến cho các nhà đầu tư không có điều kiện tiếp xúc gặp gỡ với
đoàn xúc tiến có được những thông tin về phát hành trái phiếu.



















×