Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Đề tài: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.66 KB, 32 trang )














Đề tài

Nội dung và mối quan hệ giữa
đầu tư vào tài sản hữu hình và
tài sản vô hình trong doanh
nghiệp










KINH TẾ ĐẦU TƯ


Đề tài : Đề tài: Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và tài
sản vô hình trong doanh nghiệp.


Nhóm 9: _ Giang Văn Phương
_ Đào Tuấn Trung
_ Vũ Trung Kiên
_ Nguyễn Quang Huy
_ Nguyễn Văn Học



A- MỞ ĐẦU
Sau hơn 11 năm ,với 200 cuộc đàm phán gia nhập WTO (tổ chức thương mại
thế giới) ,cuối cùng vào ngày 7-11 thì Việt Nam đã chính thức được công nhận là
thành viên thứ 150 của tổ chức này.Sự kiện này không chỉ mang lại thành công về
mặt thương mại ,ngoại giao mà còn đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế
Việt Nam kể từ sau khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.
Đóng góp vào sự tăng trưởng ngoạn mục đó, hoạt động đầu tư trong các doanh
nghiệp ở mọi thành phần kinh tế có vai trò quan trọng nhất. Tuy nhiên, trong những
năm qua, do tàn dư nhận thức của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
trước đây, hoạt động đầu tư trong các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế: tập
trung đầu tư hướng vào phát triển theo chiều rộng, hướng vào thị trường trong nước,
chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu, hướng về xuất khẩu. Đặc biệt cơ cấu đầu tư vào
tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong các doanh nghiệp còn nhiều điểm bất hợp lý và
mất cân đối. Trong mối tương quan với hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình, hoạt
động đầu tư vào tài sản vô hình chưa được quan tâm đúng mức. Thực trạng đó đã gây
nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập vào nền kinh
tế toàn cầu.Muốn cạnh tranh được với các thành viên khác trong WTO thì chúng ta cần
phải có những mục tiêu và hướng đi phù hợp.

Chúng tôi lựa chọn đề tài: “Nội dung và mối quan hệ giữa đầu tư vào tài sản hữu hình
và tài sản vô hình” mong muốn đóng góp, làm hoàn thiện hơn hệ thống tư duy lý luận
về hoạt động đầu tư phát triển trong nền kinh tế nói chung và trong các doanh nghiệp
nói riêng trong thời đại mới.
Trong quá trình nghiên cứu tất nhiên sẽ không tránh khỏi những thiếu sót.Mong thầy
cô đóng góp ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện hơn.






B - NỘI DUNG

CHƯƠNG I -NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ VAO
TSHH,TSVH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TSHH VÀ TSVH

1 ) ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN HỮU HÌNH (TSHH )
1.1 ) Lý luận chung về TSHH

 Khái niệm :Tài sản hữu hình là những tài sản có hinh thái vật chất,co đủ
điều kiện của tài sản cố định về giá trị và thời gian sử dụng theo quy định
trong chế độ quản lí tài chính hiện hành như các tài sản hiệm vật cụ thể như
là nhà xưởng,máy móc thiết bị ,phương tiện vận tải,vật liệu kiến trúc , đất
canh tác , đất xay dựng…

 Phân loại :Nhà cửa, vật kiến trúc: là tài sản cố định của doanh nghiệp hình thành
sau quá trình thi công xây dựng như: trụ sở làm việc, nhà xưởng, nhà kho, hàng
rào, bể, tháp nước, sân bãi, các công trình cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu
cống, đường sắt, cầu tàu, cầu cảng…

- Máy móc thiết bị: bao gồm các loại máy móc thiết bị dùng trong sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp như: máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây chuyền công
nghệ, những máy móc đơn lẻ…
- Phương tiện vận tải thiết bị truyền dẫn: là các phương tiện vận tải gồm phương tiện
vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị
truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải…
- Thiệt bị, dụng cụ dùng trong quản lý: gồm các thiết bị dụng cụ dùng cho công tác
quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thiết bị dụng cụ đo lường, kiểm tra
chất lượng, máy vi tính, máy photocopy, máy hút bụi, hút ẩ
- Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và cho sản phẩm như: vườn cà phê, vườn chè,
vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh…; súc vật làm việc ( voi, bò,
ngựa cày kéo…) và súc vật nuôi để lấy sản phẩm ( bò sữa, súc vật sinh sản…).
- Tài sản hữu hình khác: bao gồm những tài sản cố định mà chưa được quy định,
phản ánh vào các loại trên ( tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật, sách chuyên môn, kĩ
thuật…)
nghiệp
Tài sản hữu hình thường chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng tài sản của
doanh nghiệp đồng thời có ý nghĩa cực kì quan trọng. Nó tác động trực tiếp vào đối
tượng sản xuất để tạo ra sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy vấn đề đầu tư vào tài
sản cố định hữu hình trong doanh nghiệp là mục tiêu trước mắt và lâu dài cho quá
trình tồn tại và hoạt động của doanh nghiep

1.2 )Lý luận chung về đầu tư vào TSHH

 Khái niệm đầu tư : Đầu tư là việc bỏ vốn hoặc chi dùng vốn cùng với
các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó(tạo
ra hoặc khai thác một tài sản) nhằm thu về các kết quả có lợi trong
tương lai



 Khái niệm về đầu tư vao TSHH:Là việc tập trung nguồn lực của doanh
nghiệp vào TSHH nhằm đạt được mục đích của doanh nghiệp trong
tương lai
 Nội dung đầu tư vào TSHH :
 Xây dựng hệ thống kho tàng,nhà xưởng:
Nếu căn cứ vào công dụng của kho tàng sẽ có kho nhập,kho chuẩn bị,kho trung
gian và kho xuất.Thường thường doanh nghiệp phải xây dưng không chỉ kho nhập
mà phỉa xây dựng cả kho chuẩn bị,kho trung gian và kho xuất nguyên vật liệu.Kho
nhập chứa các loại nguyên vật liệu mua vào và cần thiết được bố trí ở vị trí trước
và gần với khâu sản xuất.Kho chuẩn bị được bố trí như những nơi làm việc nhất
định hoàn toàn phụ thuộc vào yêu cầu sơ chế nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản
xuất.Kho trung gian cần cho các loại sản phẩm dở dang và bán thành phẩm ở mức
độ khác nhau nằm trên dây chuyền sản xuất.Kho xuất thành phẩm chuẩn bị thành
phẩm xuất cho nơi sử dụng.Kho xuất nằm ở cuối dây chuyền sản xuất và thường
gắn với bộ phận tiêu thụ.
Doanh nghiệp căn cứ vào không gian phân bố.Căn cứ vào không gian phân bố có
hình thức kho tập trung và phân tán.Kho tập trung là hình thức tổ chức ở một
doanh nghiệp một kho lớn cho mọi nghuyên vật liệu lưu kho .Với hình thức xây
dựng kho tập trung sẽ giảm được chi phí kinh doanh xây dựng .quản trị kho táng so
với hình thức xây dựng kho phân tán nhờ giảm khối lượng công việc xây dựng.lao
động quản trị và hợp lí hoá khâu bố trí hang hoá trong kho cũng như sử dụng thiết
bị vận chuyển bảo vệ kho tàng…
Xác định lượng kho cũng như địa điểm đặt kho tối ưư trong hệ thống kho tàng
phân tán sẽ đặc biệt có ý nghĩa với các doanh nghiệp thương mại ,các doanh
nghiệp sản xuất đòi hỏi phải mua nguyên vật liệu và tổ chức sản xuất bán hàng
trên địa bàn rộng.

 Đầu tư vào cở vật chất kỹ thuật và ứng dụng thiết bị kỹ thuật:
Công cụ lao động là phương tiện mà con người sử dụng để tác động vào đối
tượng lao động .Quá trình phát triển sản xuất luôn gắn liền với quá trình phát triển

công cụ lao động .Sự phát triển của công cụ lao động gắn bó chặt chẽ với quá trình
tăng năng suất lao động ,tăng sản lượng ,chất lượng sản phẩm và hạ giá thành .Như
thế cơ sở vật chất kỹ thuật là nhân tố hết sức quan trọng tạo ra tiềm năng tăng năng
suất lao động ,chất lượng và tăng hiệu quả kinh doanh.Chất lượng hoạt động của
các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ kỹ thuật ,cơ cấu ,tính động
bộ của máy móc thiết bị.
Nhiều doanh nghiệp nước ta hiện nay có cơ sở vật chất kỹ thuật ,trang thiết bị còn
hết sức yếu kém ,máy móc thiết bị sản xuất vừa lạc hậu vừa không đồng bộ. Đồng
thời trong những năm qua việc quản trị sử dụng cơ sở vật chất kỹ thuật cũng không
được chú trọng nên nhiều doanh nghiệp không sử dụng và phát huy hết năng lực
sản xuất hiện có của mình.
 Bảo dưỡng và sửa chữa:
Là hoạt động càn thiết cho mọi doanh nghiệp vừa mới xây dựng và còn đang hoạt
động.Mọi yếu tố cấu thành doanh nghiệp bao gồm mặt bằng ,nhà xưởng ,vật kiến
trúc ,máy móc thiết bị,phương tiện vận tải ,hệ thống xử lý chất thải ….cần được
bảo dưỡng và sửa chữa.


Có thể phân loại kỹ thuật bảo dưỡng và sửa chữa thành các nhiệm vụ chính và phụ
:
 Nhiệm vụ chính : bảo dưỡng và sửa chữa mặt bằng ,nhà xưởng ,vật
kiến trúc …
 Bảo dưỡng và sửa chữa các thiết bị hiện có ,kiểm tra vệ sinh và tra
dầu mỡ máy móc thiết bị ,thay đổi và lắp đặt mới ,phân phối năng
lượng
 Các nhiệm vụ là bảo đảm an toàn cho doanh nghiệp ,kho tàng ,giải
quyết phế thải ,chống ô nhiễm và tiếng ồn , đảm bảo vệ sinh công
cộng .
Doanh nghiệp cần xác định chính xác số lượng lao động và thời gian ngừng sản
xuất để sửa chữa theo từng đối tượng sửa chữa .Các phương pháp là phương pháp

thông kê kinh nghiệm hoặc dựa vào định mức thời gian sửa chữa chia thành 2 loại :
công vẹec nguội và công việc máy
Các công việc nguội phải thực hiện trực tiếp tại đối tượng cần sửa chữa như tháo
lắp ,gia công nguội …nên cần có điều kiện là đối tượng sửa chữa ngừng hoạt động
công việc máy không thao tác tại đối tượng sửa chữa được xác định trên cơ sở thời
gian cần thiết để thực hiện nguội ,mức huy động lực lượng lao động sửa chữa hiện
có và thời gian làm việc của bộ phận sửa chữa .Có thể xác định thời gian ngừng
hoạt động để sửa chữa cho mỗi đối tượng theo công thức :

Nngừng =T nguội /(Cn*Ca*Gi*Hđm)
Trong đó :
Nngừng :số ngày đối tượng ngừng hoạt động để sửa chữa
Tnguội : thời gian cần thiết để hoàn thành công việc nguội
Lnguội : số lao động cùng làm việc trong ca
Ca : số ca làm việc trong ngày
Gi : số giờ làm việc trong ca
Hđm : hệ số hoàn thành định mức thời gian
Tăng cường công tác kiểm tra .Hoạt động bảo dưỡng và sửa chữa phải được kiểm
tra . Để nâng cao chất lượng kiểm tra phải từng bước ứng dụng kỹ thuật phần mềm
máy tính và công tác thống kê theo dõi hoạt động kiểm tra.

2 ) ĐẦU TƯ VÀO TSVH
2.1 ) Lý luận chung về TSVH
 Khái niệm : Theo Ủy ban Tiêu chuẩn Thẩm định giá quốc tế “Tài sản vô
hình là những tài sản thể hiện ra bằng những lợi ích kinh tế, chúng không
có cấu tạo vật chất, mà tạo ra những quyền và những ưu thế đối với người
sở hữu và thường sinh ra thu nhập cho người sở hữu chúng”.
 Phân loại : theo luật thuế thu nhập của Mỹ có 6 loại cơ bản:
- Các sáng chế, phát minh, công thức tính, quy trình, mô hình, kỹ năng.
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.

- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
-Thương quyền, giấy phép, hợp đồng.


- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, nghiên cứu, dự báo, dự toán, danh
sách khách hàng, các số liệu kỹ thuật.
- Các thứ “tương tự” khác. Một thứ được gọi là tương tự nếu nó tạo ra giá trị không
phải nhờ vào các thuộc tính vật chất mà nhờ vào nội dung trí tuệ hoặc các quyền
tài sản vô hình khác của nó.
 Cách tính : Hiện nay có 2 cách tiếp cận chính trong việc xác định giá trị
của tài sản vô hình trong doanh nghiệp: thứ nhất, trực tiếp đi vào đánh giá
giá trị của tài sản vô hình; thứ hai, bằng phương pháp gián tiếp, tính toán
thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp tổng thể sau đó trừ đi giá trị
của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó, cụ thể:
Hướng thứ nhất - trực tiếp đi vào đánh giá giá trị của tài sản vô hình. Theo hướng
này có phương pháp cơ bản sau:
Thứ nhất: Các phương pháp chi phí: các phương pháp này dựa trên cơ sở cho rằng
giá trị của một tài sản được đo bằng chi phí để làm ra tài sản đó. Và hiện tại, có 2
phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình dựa trên chi phí: một là, phương pháp
chi phí quá khứ và hai là, phương pháp chi phí tái tạo.
Phương pháp chi phí quá khứ: để xác định giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp,
người ta đi vào trực tiếp xác định và tổng hợp các chi phí đã phát sinh trong quá
trình xây dựng tài sản vô hình đó. Phương pháp này có ưu điểm, chỉ ra được những
chi phí cụ thể để tạo ra tài sản vô hình. Tuy nhiên, nó lại chứa đựng nhược điểm
lớn, đó là chi phí không phản ánh giá trị thị trường hiện tại của tài sản vô hình,
đồng thời phương pháp này không tính đến những lợi ích mà tài sản vô hình mang
lại trong tương lai.
Phương pháp chi phí tái tạo: phương pháp này đi vào tính toán tất cả các chi phí
cần thiết hiện nay để tạo dựng tài sản vô hình như hiện tại. Như vậy, phương pháp
chi phí tái tạo cho phép xác định giá trị tài sản vô hình với giá trị thị trường hơn,

nhưng một trong những khó khăn của phương pháp này là khó khăn khi xác định
các chi phí hiện tại tương đương để hình thành ra tài sản, đặc biệt khi tài sản đó lại
là tài sản vô hình.
Thứ hai: Phương pháp tính siêu lợi nhuận: phương pháp này dựa trên cơ sở cho
rằng 1 doanh nghiệp có thể đạt tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận trung
bình của ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động, bởi vì doanh nghiệp đó có
tài sản vô hình. Cho nên, giá trị tài sản vô hình của doanh nghiệp chính là giá trị
hiện tại của dòng siêu lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong tương lai.
n SLN
t

V =


t=1 (1+i)
t

Trong đó:
V: giá trị tài sản vô hình
SLN
t:
siêu lợi nhuận năm t


i: tỷ lệ chiết khấu
n: năm
Cách tiếp cận này cũng tương tự như cách tiếp cận trong việc xác định lợi thế
thương mại, được nêu ra trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của
Bộ Tài chính.
Việc xác định giá trị tài sản theo phương pháp này có ưu điểm nổi trội đó là đã tính

đến khả năng đóng góp và lợi ích mà tài sản vô hình mang lại trong tương lai, từ
đó, giá trị tính toán ra có tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, phương pháp này gặp
khó khăn trong việc lập luận về dòng siêu lợi nhuận trong tương lai, cũng như khó
khăn trong việc xác định các tham số như: n, i
Hướng thứ hai – gián tiếp tính toán thông qua việc xác định giá trị doanh nghiệp
tổng thể sau đó trừ đi giá trị của tài sản hữu hình trong doanh nghiệp đó. Theo
hướng này, trước hết chúng ta đi vào xác định tổng thể giá trị doanh nghiệp (bao
gồm cả giá trị sản sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình) bằng các phương pháp
khác nhau, như các phương pháp chiết khấu dòng tiền sau đó đi vào đánh giá
trực tiếp giá trị của các tài sản hữu hình trong doanh nghiệp bằng phương pháp tài
sản (nếu công tác kế toán ở đình độ cao, chung ta có thể lấy trực tiếp kết quả trong
bảng cân đối kế toán, còn không thì phải đi vào đánh giá lại toàn bộ giá trị của các
tài sản hữu hình trong doanh nghiệp theo giá thị trường – như phương pháp tài sản
trong Thông tư 126/2004/TT-BTC, ngày 24/12/2004 của Bộ Tài chính). Khi đã xác
định được 2 đại lượng nêu trên, chúng ta nhanh chóng tìm ra được giá trị của tài
sản vô hình trong doanh nghiệp bằng cách lấy giá trị tổng thể của doanh nghiệp trừ
đi giá trị của tài sản hữu hình đã đánh giá lại theo giá thị trường của doanh nghiệp
đó.
Đóng góp của phương pháp này chính là sự thuận lợi hơn trong kỹ thuật tính toán
giá trị doanh nghiệp tổng thể, cũng như giá trị tài sản hữu hình, và nếu 2 đại lượng
đó được xác định đáng tin cậy, thì giá trị tài sản vô hình tính ra có độ chính xác rất
cao. Tuy vậy, phương pháp này cũng chứa đựng nhược điểm là khó khăn khi dự
báo về dòng tiền tương lai mà doanh nghiệp tạo ra, cũng như khó khăn trong việc
xác định các tham số n, i và việc tổng hợp chuẩn xác giá trị thị trường của các tài
sản hữu hình trong doanh nghiệp cũng không phải là điều dễ dàng.

2.2 ) Lý luận chung về đầu tư vào TSVH.
 Khái niệm :là việc tập trung các nguồn lực của mình vào TSVH nhằm mục
đích cảu chủ đầu tư trong tương lai
 Nội dung :

* Đầu tư vào chi phí thành lập doanh nghiệp.
Chi phí thành lập doanh nghiệp được coi là một loại tài sản vô hình cần được đầu
tư ngay từ giai đoạn đầu và được tính khấu hao vào giá thành sản phẩm sau này. Đầu tư
vào chi phí thành lập doanh nghiệp là phải chi tiền cho các chứng từ, giấy phép kinh
doanh, giấy phép thành lập doanh nghiệp chi cho việc thuê luật sư tư vấn trong lĩnh vực


thành lập doanh nghiệp nếu như chủ đầu tư chưa am hiểu về các bước để thành lập một
doanh nghiệp …các khoản chi phí phải trả cho quá trình đi lại, xin chứng nhận chờ
quyết định của cơ quan có thẩm quyền, chi phí cơ hội trong thời gian chờ đợi, chi phí
tuyển nhân sự đầu tiên khi doanh nghiệp chưa đi vào hoạt động, chi phí phải bỏ ra để tổ
chức các cuộc họp, đàm phán để đi đến quyết định thành lập doanh nghiệp ….Tất cả
những khoản đó cần phải được tính vào vốn đầu tư vào chi phí thành lập doanh
nghiệp(là tài sản vô hình của dự án sản xuất kinh doanh).
* Đ ầu tư vào thương hiệu :
Việc xây dựng thương hiệu đã trở thành một sự sùng bái ở hầu hết các công
ty, và khó có thể thayđổi điều đó vì mọi người tin rằng bản thân thương hiệu là một
thứ tạo nên hành vi tiêu dùng.Chúng ta có khuynh hướng cho rằng việc xây dựng
thương hiệu phải đi trước kéo theo sự thànhcông của công ty. Sự thật là khi bạn
quan sát hầu hết các công ty thì sản phẩm luôn được chàođời đầu tiên, nó xây dựng
nên những yếu tố cơ bản của một tổ chức, và thương hiệu của nó sẽđược phát triển
cùng với sự thành công của sản phẩm và dịch vụ sau hàng năm trời. Hãy lấy Coca-
Cola làm một ví dụ. Mỗi ngày trên thế giới có khỏang 1 tỷ người mua một sản
phẩm của Coca -Cola. Bây giờ hãy bỏ đi chai Coca - Cola, bỏ đi hệ thống phân
phối của nó, bỏ đi những trung tâmbán hàng, bỏ đi 130 năm lịch sử, và thử tạo ra
một sản phẩm hoàn tòan mới với cái tên Coca -Cola. Quảng cáo của nó sẽ không
thể sử dụng được. Người ta vẫn tin rằng ngày nay bạn có thểtạo ra hình ảnh Coke
chỉ bằng quảng cáo. Và tôi nói với bạn rằng, không thể, bạn phải xây dựngnhững
yếu tố cơ bản làm nền móng cho một công ty, điều đó không đơn giản chút nào.
Nó rất tốn kém, và tốn nhiều thời gian để phát triển để trở thành một phần của đời

sống người tiêu dùng.
Thương hiệu là uy tín, là sự biết đến rộng rãi về doanh nghiệp ở trong nước
cũng như trên thị trường quốc tế Để tạo dựng một thương hiệu mạnh là kết quả cuối
cùng của mọi nỗ lực về đầu tư vào các khoản chi phí, đầu tư vào nhãn hiệu, đầu tư vào
công nghệ kĩ thuật, vào kiểu dáng công nghiêp.Tất cả những cái đó kết hợp lại thành
một thương hiệu mạnh có sức cạnh tranh lớn trên thị tr Công ty có thể không trực
tiếp mua uy tín từ một công ty khác, nhưng để có được uy tín trên thường họ cũng phải
bỏ ra các chi phí để giữ uy tín với khách hàng về chất lượng sản phẩm thời hạn giao
hàng và thanh toán…việc bỏ ra các chi phí để thực hiện chế độ hậu mãi hoàn hảo cũng
chính là sự đầu tư nhằm phát triển uy tín của doanh nghiệp. Giá trị của uy tín ở đây là
tổng cộng các chi phí tăng thêm ngoài các chi phí để giữ sản phẩm ở chất lượng bình
thường hoặc chi phí tăng thêm do phải giao hàng đúng hạn, hay lợi tức bị mất của số
tiền phải thanh toán đúng hạn. Ở đây uy tín không phải là đối tượng mua bán trực tiếp
mà nó được tự động hình thành thông qua các hành vi của doanh nghiệp, do vậy những
chi phí tăng thêm này không được tình vào giá của uy tín vì chúng đã được hạch toán
vào chi phí kinh doanh.
* Đầu tư vào nghiên cứu sáng chế, phát minh, giải pháp hữu hiệu
Để tạo ra được một giải pháp kĩ thuật mới so với trình độ kĩ thuật trên thế giới
mang tính sáng tạo, có khả năng áp dụng vào sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp cần
phải bỏ vốn ra để thuê các nhà nghiên cứu khoa học tìm ra một cách có hiệu quả nhất
trong quá trình tạo ra sản phẩm, doanh nghiệp cũng có thể mua bằng sáng chế phát
minh …Bằng cách này hay cách khác thì lượng vốn phải bỏ ra cho cho loại tài sản vô
hình này là tương đối lớn và ngày càng quan trọng trong doanh nghiệp bởi vì: nó quyết


định nhiều đến quá trình sản xuất, năng suất lao động, công suất làm việc cũng như chất
lượng sản phẩm và từ đó quyết định đến giá bán của sản phẩm. Nếu có được một phát
minh sáng chế mới thì nó sẽ mang lại một khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp vì giảm
được năng suất lao động, sản phẩm có tính mới trên thị trường ,thu hút được nhiều
“khách sộp” tới mua hàng, “hớt phần ngọn của thị trường” thu được lợi nhuận cao và

tiếp tục đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, những nhà quản lý doanh nghiệp
cũng phải quản lý, kiểm soát quá trình làm việc của các chuyên gia tránh gây lãng phí
nguồn vốn cũng như hiệu quả làm việc của các nhà nghiên cứu.
*Đầu tư vào khoa học công nghệ.
Đầu tư vào khoa học công nghệ cho doanh nghiệp có thể là đầu tư nghiên cứu
công nghệ mới hoặc đầu tư mua sắm công nghệ từ nước ngoài. Trong sản xuất kinh
doanh bí quyết công nghệ luôn luôn là yếu tố quan trọng hàng đầu, vì vậy cần phải đầu
tư vào công nghệ để tìm ra những công nghệ phù hợp với điều kiện sản xuất của doanh
nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để đầu tư
nhằm tiếp cận, cập nhật những thông tin về thị trường công nghệ. Thêm vào đó cũng
cần phải đầu tư vốn để tiếp cận được với những dịch vụ tư vấn có tính chất hỗ trợ trong
việc xác định công nghệ thích hợp và hiệu quả giúp họ cải tiến sản xuất và nâng cao sức
cạnh tranh.Như vậy, công nghệ mới cho doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết giúp họ
có chỗ đứng vững chắc trên thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh với các đối thủ
khác.
* Đầu tư vào nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực cần phải được đầu tư thường xuyên cả về số lượng và chất
lượng. Doanh nghiệp không chỉ đầu tư vốn để trả cho việc tuyển dụng công nhân viên
mà còn phải đầu tư chi phí để đào tạo nâng cao tay nghê, trình độ quản lý
3 ) Mối quan hệ giữa đầu tư vào TSHH VÀ TSVH trong doanh nghiệp
Nhìn chung, hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong
doanh nghiệp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nếu doanh nghiệp xác định được
một cơ cấu đầu tư hợp lý, hướng đầu tư đúng đắn thì 2 bộ phận đầu tư này sẽ có
tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh nói chung và hoạt động đầu tư nói riêng trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối
với từng ngành, từng lĩnh vực, vai trò của từng hoạt động đầu tư đối với các hoạt
động đầu tư khác cũng như tác động của đầu tư đối với sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp là rất khác nhau. Điều đó đặt ra nhiều khó khăn đối với các doanh
nghiệp trong việc xác định một cơ cấu đầu tư hợp lý. Interband đã thực hiện một
nghiên cứu và đưa ra được mức độ của giá trị tài sản vô hình và giá trị nhãn hiệu

đối với từng hàng hoá và dịch vụ khác nhau. Lĩnh vực mà tài sản vô hình cũng như
hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đóng vai trò rất lớn đến giá trị công ty là các
sản phẩm cao cấp, thức ăn và nước uống, ô tô… Với những loại sản phẩm này thì
yếu tố tiên quyết để giúp doanh nghiệp thành công là phải xây dựng được một
thương hiệu mạnh. Ngược lại một số sản phẩm như các loại mặt hàng thiết yếu thì
doanh nghiệp nên đầu tư vào máy móc thiết bị và kênh phân phối để có sản phẩm
giá thành thấp và được phân phối rộng.

Đơn vị: %


Sản phẩm và d
ịch vụ
Giá trị hữu hình

Giá trị nhãn hi
ệu
Giá trị vô hình khác

Mặt hàng thiết yếu
S
ản phẩm công nghiệp
Sản phẩm dược
Dịch vụ bán lẻ
Công nghệ thông tin

Xe ô tô
Dịch vụ về tài chính

Thức ăn và nư

ớc uống
Hàng cao cấp
70
70
40
70
30
50
20
40
25
0
5
10
15
20
30
30
55
70
30
25
50
15
50
20
50
5
5
(Nguồn: trang 16 các phương pháp xác định giá trị tài sản vô hình.

Nhà xuất bản khoa học kĩ thuật Hà Nội 2005.Tác giả Đoàn Văn Trường)
3.1 ) Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình đối với hoạt động đầu
tư vào tài sản vô hình trong doanh nghiệp
Đầu tư vào TSHH là điều kiện tiên quyết và cơ bản lam tăng tiềm lực về TSVH
.Khi doanh nghiệp đã bỏ vốn để đầu tư vào tshh như :nhà xưởng, văn phòng làm việc
,phòng thí nghiệm .mua sắm và trang bị các loại máy móc thiết bị .phương tiện vận tải
,phương tiện truyên dẫn điều này sẽ là cơ sở dể tăng khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệpvà nâng cao uy tín của doanh nghiệp trong nền kinh tế .Viêvj doanh nghiệp tăng
cường đầu tư vào TSHH sẽ làm tăng khả năng tạo nguồn cho doanh nghiệp đổi
mới.tránh sự tụt hậu về công nghệ sản xuất,dần dần đuổi kịp các nước trong khu vực.Từ
đó sẽ tạo ra tiềm lực để doanh nghiệp đầu tư vào TSVH :phát minh sáng chế,kĩ thuật
công nghệ mới ,nghiên cứu phát triển kiêu dáng công nghiệp ,nhãn hiệu hàng hoá và
phát triển nguồn nhân lực.Nếu việc đầu tư vào TSHH không được chú trọng ,trình độ
trang thiết bị máy móc lạc hậu ,công nghệ chậm đổi mới sẽ gây cản trở đối với quá trình
phát triển và hội nhập của các doanh nghiệp,kết quả tất yếu của viêc này sẽ là hiệu quả
sản xuất thấp ,số lượng sản phẩm nghèo nàn,chất lượng sản phẩm kém ,doanh thu thấp
từ đó doanh nghiệp sẽ không có vốn để đầu tư vào các hoạt đọng chăm sóc khách hàng
,dịch vụ hậu mãi,chi phí nghiên cứu thị trường
Đầu tư vào tài sản hữu hình thường là đi trước và là cơ sở tiền đề để đầu tư vào
tài sản vô hình. Khi một doanh nghiệp đã bỏ vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình: nhà
xưởng, các văn phòng làm việc, trung tâm điều hành, các khu chế xuất, phòng thí
nghiệm, mua sắm và trang bị các loại máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, phương
tiện truyền dẫn… thì nó làm cho các nghiên cứu phát triển, tạo ra tiềm lực để đầu tư vào
tài sản vô hình: phát minh sáng chế, kĩ thuật công nghệ mới, nghiên cứu phát triển kiểu
dáng công nghiệp nhãn hiệu hàng hoá và phát triển nguồn nhân lực
Tác động của đầu tư vào tài sản hữu hình phần lớn là tác động tích cực tạo đà cho
đầu tư vào tài sản vô hình, nhưng nếu đầu tư vào tài sản vô hình không đúng chỗ không
phù hợp cả về quy mô và chất lượng thì tạo thành một gánh nặng, khó khăn cho công
tác đầu tư vào tài sản vô hình sau này. Tuy nhiên tác động tích cực của đầu tư vào tài
sản hữu hình đối với đầu tư vào tài sản vô hình là điều tất nhiên và được chấp nhận như

là một lối mòn định hướng phát triển chung cho tất cả các doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ,
đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa thành lập thì cần phải bám chắc vào vấn đề
này để phát huy được hiệu quả tối ưu


3.2)Tác động của hoạt động đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản
hữu hình trong doanh nghiệp.
Đầu tư vào TSVH là điều kiện tất yếu để đảm bảo cho đầu tư vào TSHH.Trong quá
trình hội nhập hiện nay đang và sẽ đang có rất nhiều các doanh nghiệp nước ngoài thâm
nhập vào thị trường nước ta.Nếu doanh nghiệp không xây dựng được thương hiệu uy
tín trên cơ sở giá cả và chất lượng hợp líthì khó có thể cạnh tranh .Nhưng một khi
doanh nghiệp dã quan tâm vào đầu tư vào TSVH một cach hợp lí thì sẽ tạo cơ hội phát
triển kinh doanh lớn,lợi nhuân tăng Đầu tư vào tài sản vô hình lại tiếp tục tác động
trở lại đối với đầu tư vào tài sản hữu hình vì nó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp tục
mở rộng quy mô, tiếp tục có vốn để đầu tư mua sắm thiết bị máy móc mới hiện đại hơn,
xây dựng mới nhà xưởng, văn phòng làm việc …Chẳng hạn nếu đầu tư vào công nghệ
mới sẽ tạo ra năng suất lao động cao hơn, giảm giá thành, tăng chất lượng sản phẩm, từ
đó tăng sức cạnh tranh trên thị trường, giúp cho doanh nghiệp ngày một tăng trưởng và
phát triển, tăng thêm nguồn vốn để đầu tư vào tài sản hữu hình. Hoặc khi một doanh
nghiệp tạo dựng được một thương hiệu mạnh thì sẽ mang về một doanh thu lớn từ việc
cho thuê thương hiệu hoặc doanh thu bán hàng do uy tín của thương hiệu mang lại và
đồng vốn đó lại tiếp tục đầu tư đổi mới gia tăng tài sản hưu hình.
Ngày nay, xu thế chủ yếu là đầu tư vào tài sản vô hình và không ít doanh nghiệp
có tỉ trọng giá trị tài sản vô hình cao hơn gấp nhiều lần so với tài sản hữu hình như
Microsoft, Uniliver…
Nói cho cùng đầu tư vào tài sản hữu hình cũng chỉ nhằm mục đích tạo ra một giá
trị vô hình ngày càng lớn. Tài sản vô hình ngày nay được công nhận và nó được tính
toán thành giá trị cụ thể, có thể được mua bán trao đổi trên thị trường.
Tác động của đầu tư vào đầu tư vào tài sản vô hình đối với đầu tư vào tài sản
hữu hình hầu hết là tác động tích cực bởi vì một sự đầu tư đúng đắn vào tài sản vô hình

sẽ tác động làm gia tăng tài sản hữu hình. Nhưng ngược lại một sự đầu tư không hợp lý
vào tài sản vô hình sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động
đầu tư vào tài sản hữu hình.
3.3 )Tác động của sự phối hợp giữa hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và
đầu tư vào tài sản vô hình đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
Nếu hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình được
phối hợp một cách nhịp nhàng đồng bộ thì điều đó sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chẳng hạn, khi doanh nghiệp muốn định vị một sản phẩm cao cấp trên thị
trường, thì phải tập trung vào mua sắm máy móc thiết bị phù hợp đồng thời phải tìm
hiểu bí quyết công nghệ, đào tạo cán bộ khoa học nghiên cứu trong lĩnh vực này, phải
xác định được khách hàng mục tiêu trên thị trường, tức là phải đầu tư vào nguồn nhân
lực để tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Đồng thời doanh nghiệp cần có các chiến lược
Marketing như: đóng gói bao bì, quảng cáo, khuyến mại, và xúc tiến bán cho phù hợp
với nhãn hiệu đang được định vị, tức là chúng ta phải đầu tư đồng bộ vào cả tài sản cố
định hữu hình và tài sản vô hình một cách hợp lý. Nếu không thực hiện được đồng bộ
những công việc nói trên, thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn
trong việc chiếm lĩnh thị trường. Chẳng hạn, nhãn hiệu bia Laser được định vị là một
sản phẩm cao cấp, được khách hàng chấp nhận là một sản phẩm có chất lượng cao vì
công ty đã đầu tư rất nhiều vào hoạt động quảng cáo, công nghệ, kĩ thuật sản


xuất…nhưng do sự đầu tư hợp lý đồng bộ vào kênh phân phối nên nhãn hiệu này đã
thất bại trong quá trình xâm nhập thị trường.
Mặt khác, nếu doanh nghiệp chỉ quan tâm đến các vấn đề đầu tư vào tài sản vô
hình như: nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu… mà không chú ý một cách đúng mức đến
tài sản vô hình thì cũng khó có thể thành công trong việc sản xuất kinh doanh. Một
doanh nghiệp không thể thu được lợi nhuận cao nếu không có hệ thống máy móc, trang
thiết bị hiện đại với quy mô sản xuất và chi phí hợp lý. Chẳng hạn như hãng café Trung
Nguyên, một thương hiệu nổi tiếng trên thị trường trong nước và quốc tế nhưng trong

những năm gần đây, do Trung Nguyên quá chú trọng vào việc mở rộng thương hiệu
thông qua hình thức nhượng quyền thương hiệu mà không chú ý đến việc đầu tư vào
chất lượng sản phẩm. Việc mở rộng thương hiệu một cách tràn lan không đi kèm với
việc đầu tư vào tài sản hữu hình, nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất đã đặt ra nhiều
khó khăn đối với Trung Nguyên trong thời gian sắp tới.
Ngược lại, khi doanh nghiệp muốn định vị một sản phẩm thông thường thì cũng
phải có sự đầu tư thích hợp giữa tài sản vô hình và tài sản hữu hình. Một sản phẩm bình
dân thì không nên quá chú trọng đến việc đầu tư vào công nghệ và thương hiệu. Trong
trường hợp này doanh nghiệp nên đầu tư nhiều vào nhà xưởng, máy móc thiết bị thể thu
được lợi thế theo quy mô.
Sự đầu tư đồng bộ giữa tài sản vô hình và tài sản hữu hình là điều tối quan
trọng trong doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, nó quyết định sức sản xuất, tiêu thụ
và trưởng thành của doanh nghiệp. Tuỳ vào từng điều kiện cụ thể, tuỳ vào cách
thức định vị sản phẩm trên thị trường mà doanh nghiệp xác định chiến lược đầu tư
phù hợp giữa tài sả
Khi một sự kết hợp thương hiệu mạnh có thể làm gia tăng giá trị tập đoàn và
thiết lập kế hoạch lâu dài, tạo dựng một vị thế độc đáo trên thị trường và đánh bóng
tên tuổi công ty và đặc biệt là làm tăng tiềm năng lãnh đạo trong tập đoàn. Bởi thế
sự kết hợp thương hiệu có thể làm gia tăng ảnh hưởng lên tài sản hữu hình và tài
sản vô hình dẫn tới việc thương hiệu sẽ vượt trội thông qua tập đoàn.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀO TSHH,TSVH VÀ MỐI
QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VÀO TSHH VÀ TSVH CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP HIỆN NAY

1.1 ) Nhận thức của các doanh nghiệp về đầu tư vào TSHH và TSVH

Phần lớn các doanh nghiệp VIẸT NAM chưa nhận thức đúng giá trị thực tế của
tài sản sở hữu trí tuệ. Đơn đăng kí sở hữư trí tuệ mà cơ quan quản lí nhận được ở
nhãn hiệu hàng hoá là 58.12% văn bằng bảo hộ sáng chế
-4.5%kiểu dáng công nghiệp -84.3%

Trong những năm gần đây, sở hữu trí tuệ (SHTT) luôn là vấn đề thời sự và được
các doanh nghiệp làm ăn chân chính quan tâm. SHTT là tài sản vô hình nhưng có
giá trị to lớn. Chính vì vậy, nhiều doanh nghiệp đã phải bỏ ra chi phí rất lớn để
thiết lập được thương hiệu, hệ thống bảo hộ như: bảo hộ quyền sáng chế, nhãn hiệu
hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, tên xuất xứ, chỉ dẫn địa lý… Đó


chính là những cam kết quan trọng của doanh nghiệp về chất lượng sản phẩm đối
với khách hàng.

Điều dễ nhận thấy là, những sản phẩm có thương hiệu, được bảo hộ quyền
SHTT sẽ có giá thành cao hơn so với các sản phẩm cùng loại mà không được bảo
hộ quyền SHTT. Do đó, nhiều Doanh nghiệp làm ăn nghiêm túc đã không khỏi lao
đao trước nạn hàng giả, hàng nhái còn người tiêu dùng thì mua phải hàng giả, hàng
kém chất lượng mà không biết
Đây cũng là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các Doanh nghiệp muốn đứng vững trên
thị trường thì cần phải xây dựng thương hiệu và đăng ký quyền SHTT cho sản
phẩm. Như vậy, Doanh nghiệp mới tránh được những “rủi ro” không đáng có trên
thương trường.
Tuy nhiên, trong thời gian tới, với làn sóng các Doanh nghiệp nước ngoài vào Việt
Nam sẽ không còn “chỗ đứng” cho những sản phẩm làm giả, làm nhái và khẳng
định tầm quan trọng của SHTT trong nền kinh tế hội nhập. Song vấn đề này chưa
được nhiều Doanh nghiệp Việt Nam thực sự quan tâm.
Việt Nam đã gia nhập WTO, để hạn chế thấp nhất các rủi ro liên quan đến các
vụ kiện pháp lý về SHTT các Doanh nghiệp phải có chiến lược quan tâm, đầu tư
thoả đáng đến SHTT, từ việc đặt tên Doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh cho đến
việc lựa chọn sản phẩm, dịch vụ công nghệ, kiểu dáng, nhãn hiệu… để tránh lâm
vào tình trạng vi phạm pháp luật. Đặc biệt, đối với các doanh nghiệp có hàng hoá,
sản phẩm xuất khẩu cần tìm hiểu kỹ pháp luật SHTT của thị trường mà Doanh
nghiệp xuất khẩu, vừa để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân doanh nghiệp

vừa không xâm phạm đến quyền SHTT của Doanh nghiệp khác. Vì thế, trong xu
thế toàn cầu hoá hiện nay đòi hỏi mỗi doanh nghiệp muốn đứng vững phải xây
dựng và quảng bá thương hiệu của chính mình.

Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây, hầu như chúng ta chỉ biết đến
giá trị hữu hình của doanh nghiệp mà chưa quan tâm đến giá trị vô hình. Hơn nữa,
tài sản hữu hình của doanh nghiệp quá lạc hậu, cũ nát, đã khấu hao gần hết… nên
giá trị của nó chẳng đáng bao nhiêu. Theo số liệu thống kê 1990, toàn bộ giá trị
(thực chất chỉ là giá trị hữu hình) của gần 6000 doanh nghiệp nhà nước của nước ta
chỉ bằng giá trị của một hãng kinh doanh cỡ lớn trung bình của nước phát triển.
Đến nay, việc không tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp đã gây ra thiệt hại to
lớn:
+ Mất vốn khi cổ phần hoá hoặc khi hoặc khi bán doanh nghiệp nhà nước cho
các thành phần kinh tế ở trong và ngoài nước Trong trường hợp cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước theo quy định tuy có tính đến giá trị vô hình của doanh
nghiệp dưới tên gọi là “giá trị lợi thế”, nhưng trong thực tế việc mất mát xảy ra rất
lớn, ví dụ như trường hợp cổ phần hoá công ty khách sạn Tràng Tiền.
Công ty này đặt trên khuôn viên 1500 m2 đất ở vào vị trí đẹp nhất Hà Nội với
2600 m2 xây dung, đó là chưa kể đến máy móc, nhà xưởng, trang thiết bị của nhà
hàng, nếu tính rẻ cũng phảI trăm tỷ đồng. Thế nhưng khi định giá, toàn bộ cơ ngơi
ấy được tính 3,2 tỷ đồng. Số vốn đIều lệ ấy được chia thành 32000 cổ phiếu (mệnh
giá 100000 đồng) và chia cho cán bộ công nhân viên theo năm công tác. Số còn lại
ưu tiên trong nội bộ, sau đó mới bán ra ngoài. ĐIều đáng nói là sau đó cổ phiếu của


công ty cổ phần Tràng Tiền được ồ ạt bán ra với giá cao gấp hàng chục mệnh giá
ban đầu.Cho tới cuối năm 2001 có 80% cổ phiếu do người lao động nắm giữ đã
bán cho các ông chủ tư nhân. Thực ra, không phải người ta mua cổ phiếu mà là
mua đất! Với diện tích đất rộng 2600 m2 nằm ngay giữa lòng thủ đô, vào thời
đIểm hiện nay giá mỗi mét vuông đất lên tới 20, 30 cây vàng thì tài sản của công ty

không phải là nhỏ. Sự việc tương tự đã xảy ra ở nhiều nơI khác, không chỉ Hà Nội
mà ở thành phố Hồ Chí Minh và cả các địa phương khác đều có.
+ Hạ thấp tỉ trọng vốn góp trong của phía Việt Nam trong liên doanh với
nước ngoài do không tính đến giá trị vô hình của doanh nghiệp hay chưa nhận thức
đúng giá trị tài sản vô hình.
Trong các liên doanh, phía Việt Nam góp vốn phần lớn bằng đất và thường góp
một lần ngay khi dự án bắt đầu triển khai. Thời gian gần đây khi giá thuê đất được
giảm nhiều, phía Việt Nam góp vốn bằng quyền sử dụng đất càng thấy phần vốn
của mình thu nhỏ lại. Quyết định số 179/1988/QĐ-BTC ngày 24-2-1998 của Bộ tài
chính (về việc ban hành Bản quy định về tiền thuê đất, mặt biển đối với hình thức
đầu tư trực tiếp nước ngoàI tại Việt Nam) đã giảm tiền thuê đất từ 20% đến 70%
so với mức giá quy định tại quyết định 1417/TC/QĐ-TCĐN của bộ trước đó.
Trong khi định giá để góp vốn vào liên doanh, các công ty Việt Nam thường chỉ
chú ý vào tài sản hữu hình mà chưa chú ý đến tài sản vô hình: uy tín, tên tuổi công
ty, thương hiệu, các quyến sở hữu trí tuệ, địa thế thuận lợi … Thậm chí các công ty
Việt Nam chưa hề để ý đến các vấn đề này và cho đó là chuyện không cần lưu ý.
Song trên thực tế, đây lại là một việc rất phải chú ý đến, và giá trị tài sản vô hình là
rất lớn, có khi nó còn gấp nhiều lần giá trị tài sản vô hình.
Vì tài sản trí tuệ thường có giá trị rất cao nên các công ty nước ngoài đều rất
quan tâm đến việc bảo vệ và phát triển tàI sản đó. Trong các liên doanh, giá nhãn
hiệu thường chiếm một khoản giá trị lớn, có công ty đi góp vốn vào hàng chục liên
doanh ở các nước chỉ bằng nhãn hiệu. Hàng hoá mang nhãn hiệu đó có khi xuất
hiện ở hàng chục nước cũng chỉ do họ nhượng thương hiệu cho các công ty sản
xuất khác mà thôi.
Nước ta, một số trường hợp liên doanh ít ỏi đã xác định giá trị nhãn hiệu, đó là
trường hợp Công ty bia Việt Hà, khi góp vốn liên doanh với nước ngoài đã tính
được giá trị của nhãn bia Halida là 550.000 USD. Còn trường hợp công ty P/S tính
được trị giá nhãn hiệu là 5,3 triệu USD … Tuy nhiên, theo một số chuyên gia, giá
trị của nhãn bia Sài Gòn còn có thể cao hơn mức này, và có thể dùng để góp nhiều
lần trong các liên doanh

Trong khi đầu tư thương hiệu dù liên doanh lãi hay lỗ, công ty mẹ (thuộc phía
nước ngoài) vẫn được lợi nhuận từ việc bán nguyên vật liệu cho liên doanh, và bao
gồm cả chi phí nhãn hiệu mà liên doanh đã đồng ý ký hợp đồng sản xuất và phân
phối các sản phẩm mang tên nhãn hiệu đó. Nhất là trong trường hợp công ty mẹ
đặt giá bán nguyên vật liệu cao hơn thực tế do tính độc quyền của nhãn hiệu. Như
là trong liên doanh lắp ráp ôtô đều là nhà sản xuất các bộ linh kiện CKD2 để lắp
ráp nên họ độc quyền cung cấp và cũng độc quỳên định giá bán cao cho các bộ linh
kiện này. Xe ôtô Carolla lắp ráp tại Việt Nam mặc dù được miễn thuế tiêu thụ đặc
biệt, bán đắt gấp hai lần xe cùng loại tại Nhật nhưng liên doanh vẫn bị thua lỗ.
Liên doanh CocaCola độc quyền về cung cấp Consentrate pha chế nên họ tự định
giá cao cho nguyên liệu đầu vào. Như vậy đối với các công ty nước ngoài ngay cả
trường hợp liên doanh bị lỗ vốn do bán phá giá và chi phí tiếp thị cao để chiếm lĩnh


thị trường nội địa, thì phía nước ngoàI ở liên doanh cũng không lỗ vốn, bởi vì họ
đã thu đủ qua việc tính giá cung cấp nguyên vật liệu và thu được khoản lãi có từ sự
khẳng định vị trí thương hiệu và tương lai sản phẩm của họ thống lĩnh thị trường.
Chỉ có phía Việt Nam là lỗ vốn thực sự.
+ Nhà nước bị thất thu thuế thông qua hành động chuyển giá của các công
ty đa quốc gia
Tóm lại, gía trị tài sản vô hình của doanh nghiệp là rất lớn. Trong thời đại kinh
tế thị trường hiện nay giá trị của nó còn cao hơn rất nhiều giá trị tài sản hữu hình
của doanh nghiệp, là cơ sở để nâng cao khả năng cạnh tranh trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế .Do đó, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đặc biệt các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải có sự thay đổi tư duy kịp thời để có cơ cấu đầu tư
vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp sao cho phù hợp nhấ
t


Cơ cấu tài sản doanh nghiệp

31/12/2001 31/12/2002 31/12/2003
TSL
Đ và
ĐT
ngắn
hạn
TSC
Đ và
ĐT dài
hạn
TSL
Đ và
ĐT
ngắn
hạn
TSC
Đ và
ĐT dài
hạn
TSLĐ
và ĐT
ngắn
hạn
TSC
Đ và
ĐT dài
hạn
Tổng số 7744
4
4765

15
8884
13
5523
26
10790
53
6455
05
1.Khuvực DNNN
+Trung ương
+Địa phương
5582
71
4993
23
5894
8
2631
52
2137
36
4941
7
5860
79
5081
18
7796
0

3090
83
2499
64
5911
9
63633
8
60523
8
81300
3320
76
2684
45
6363
1
2.Khuvựcngoài
NN
+DN tập thể
+DN tư nhân
+CTy hợp doanh
+CTyTNHHtư
nhân
+CTY cổ phần có
vốn NN
+CTcổ phần không
có vốnNN



1105
32

4582
1453
1
61
5119
4

2165
8

1856
0
5105
0

4083.
9970
49
2476
2

7391

4843
1647
18


5782
1954
2
53
8146
7

3354
2

2433
3


7266
3

4295
1192
8
44
3825
6

9937

8203
23420
9


7417
23695
1598
11031
0

50752

40442

1029
46

4649
1491
8
255
5321
3

1229
1

1761
9


(Nguồn: niên giám thống kê 2005)



1.2 )Thực trạng đầu tư vào TSHH
1.2.1 ) Thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ tầng :

Việt Nam đã thành công xuất sắc trong việc mở rộng tiếp cận đến các dịch vụ cơ
sở hạ tầng trong hơn 20 năm qua, nhưng còn rất nhiều việc phải làm để có thể phục
vụ được tất cả mọi người. Các chính sách và thể chế trước đây thành công bây giờ
phải được điều chỉnh vì sự phát triển của Việt Nam ngày càng tiến bộ hơn.“Việt
Nam đã thành công lớn trong việc đảm bảo lợi ích từ các đầu tư vào cơ sở hạ tầng
được chia sẻ trên khắp đất nước, và các đầu tư này đã hỗ trợ cho phát triển nhanh
chóng, tăng tiếp cận đến các dịch vụ cơ bản, và giảm nghèo,Tuy nhiên, cũng có
những thách thức mới nổi lên, ví dụ như sự cần thiết phải huy động các nguồn
vốn mới, đô thị hóa tăng nhanh, các vấn đề về môi trường, và càng ngày càng thấy
có nhiểu vấn đề về quản lý điều hành.”
con số tổng đầu tư cho có sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm gần đây giữ ở
mức 10% GDP rất cao so với tiêu chuẩn quốc tế
Gi á đất tại Hà Nội và vùng lân cận rất đắt. Ước tính gần đây cho thấy giá một mét
vuông đất ở Hà Nội hoặc các tỉnh lân cận cao gần bằng Nhật Bản, trong khi thu
nhập quốc dân đầu người rất thấp Đây là một biến dạng kinh khủng gây khó khăn
cho quá trình đầu tư Mặc dù đất nông nghiệp thì còn nhiều, thu nhập từ nông
nghiệp vô cùng ít ỏi, và giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp thấp, nhưng không
dễ gì bán đất nông nghiệp và chuyển sang các mục đích dụng khác cho giá trị cao
hơn như thương mại, công nghiệp và nhà ở. Điều này gây ra rất nhiều khó khăn.
Nông dân không muốn giao đất theo mức đền bù dựa trên giá trị
“cũ” là đất nông nghiệp- thường chỉ chưa đầy 1 đôla/m
2-mà chỉ muốn bán với giá đất phi nông nghiệp. Ngay ở các tỉnh mức giá này cũng
có thể lên tới trên 100 US đôla 1 m và đôi khi tới trên 1.000 US đôla! (Xem bảng


3Khu vực có V
ĐTnước ngoài

+ 100% vốn nước
ngoài
+ DN liên doanh
với nước ngoài
1056
42

5643
2

4921
0
1623
13

5609
4

1062
19
1376
17

7668
9

6092
7
1705
79


6832
0

1022
59

15830
6

91845

66646
0
2104
83

8398
1

1265
02


dưới đây về các mức giá đất đại diện, ba nhóm đầu tiên là đất cho xây dựng nhà
máy). Khó khăn về đền bù đã dẫn đến những trì hoãn và tranh chấp kéo dài ở các
tỉnh quanh Hà Nội- những vấn đề đó có thể làm trì trệ đầu tư và tăng trưởng.

STT Nhóm loại Giá trên 1m Chú thích
1 Đất trong khu công nghiệp,

có cơ sở hạ tầng $28-$35 Cho 50 năm
2 Đất trong khu công nghiệp,
chưa có cơ sở hạ tầng (thường
không có sẵn) $0.5-$1 Cho 50 năm, có thể
miễn giảm trong 5-10 năm ưu đãi
đầu.
3 Đất cạnh khu công nghiệp,
chưa có cơ sở hạ tầng
(nhiều vấn
đề về giải tỏa đất) $0.5-$1 Cho 50 năm, có thể
ưu đãi mi
ễn giảm
4 Đất phi nông nghiệp trong các trong 5-10 năm
đầu.
làng nghề (giá thị trường) $150-300 Có giấy chứngnhậnquyền
sử dụng đất cho 50 năm
5Giá đất thổ cư trong các khu đô
thị mới tại các tỉnh $500-2000 Không hạn chế thời
6 Đất nông nghiệp (ước tính giá trị) $0.5 gian sửdụng.

Do vậy vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng của doanh nghiệp hiện nay là một vấn đề rất
nan giải .

1.2.2 ) Thực trạng đầu tư vào máy móc thiết bị và phương tiện vận tải
Hiện nay, đầu tư cho phương tiện vận tải của doanh nghiệp cũng tăng lên
đáng kể, do doanh nghiệp được phân bố ở các khu công nghiệp cách xa nơi tiêu
thụ, nguồn lao động: xe chuyên chở công nhân , hay nguồn nguyên liệu ngày
càng nhiều các doanh nghiệp đầu tư đổi mới, sửa chữa. Trong cơ cấu đầu tư, đầu tư
cho phương tiện vận tải của các doanh nghiệp chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ


1.3 ) Thực trạng đầu tư vào TSVH :

1.3.1 ) Thực trạng đầu tư vào thương hiệu
A ) Đánh giá tình hình đầu tư vào thương hiệu
A .1 )Tình hình thương hiệu VIỆT :
Trong nền kinh tế hội nhập, thương hiệu của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam còn luôn bị đe doạ bởi các doanh nghiệp khác - nhất làcác doanh
nghiệp nước ngoài, cùng lĩnh vực kinh doanh luôn tìm cách hạthấp thương hiệu
doanh nghiệp của đối thủ để chiếm vị trí thống lĩnh của mình. Hơn nữa các doanh
nghiệp nước ngoài đã có thương hiệu khá mạnh với kinh nghiệm gìn giữ và
quảng bá phát triển thương hiệu hàng trăm năm thì việc tài sản thương hiệu của
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam phải đối mặt với sự hao mòn vô hình là khó


tránh khỏi Có rất nhiều yếu tố làm cho tài sản thương hiệu của doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam bị hao mòn hoặc mất đi nếu như doanh nghiệp không biết
cách bảo quản, gìn giữ và phát triển thương hiệu của mình. Mặt khác, tâm lý
người Việt Nam ta hay “sính ngoại” đây cũng là yếu tố có lợi cho các thương
hiệu ngoại và là rào cản mà các thương hiệu của doanh nghiệp Việt Nam phải tìm
cách vượt qua
Trong 15 năm qua nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà các doanh nghiệp Việt Nam đã
khá thành công trong việc đưa một số hàng như: gạo, cà phê, thuỷ sản vào Châu
Âu…nhiều mặt khác ỏnh cũng đang được mở rộng, nhưng mặt tráI của các doanh
nghiệp này là quá chú trọng về số lượng trong khi vấn đề thương hiệu chưa được
quan tâm. Cụ thể Việt Nam, đến cuối 2002 cục sở hữu công nghiệp đã cấp trên
100000 thương hiệu nhưng chỉ có 1600 của các doanh nghiệp Việt Nam. So với
90000 doanh nghiệp nhà nước và tư nhân trên cả nước, con số này còn quá ít.
Trong cuộc bình chọn năm 2003 do câu lạc bộ hàng Việt Nam chất lượng cao tổ
chức có 3.075 doanh nghiệp được người tiêu dùng nêu tên nhưng chỉ có 447 doanh

nghiệp với những tiêu chí do các chuyen gia ngành hàng Việt Nam bình chọn đạt
danh hiệu chất lượng cao trên cơ sở thanm khảo ý kiến người tiêu dùng, trong đó
có Vinamilk, bitis, điện quang, Đồng Tâm, Kinh Đô là những thương hiệu được
người tiêu dùng tín nhiệm nhiều năm. Tuy nhiên, những thương hiệu mạnh này
mới mạnh với người tiêu dùng trong nước.Vấn đề đặt ra là làm sao cho những
thương hiệu hàng hoá Việt Nam đi xa hơn, đến được với người tiêu dùng nhiều
nước trên thế giới. Đó là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp trong quá trình hội
nhập, 10 thương hiệu Việt Nam có tiềm năng phát triển mạnh trong tương lai: Kinh
Đô, Flex, Sachi, Sá xị, Bảo Việt, bia Hà Nội, Vinamilk, Milk, 333, Jak.Sự kiện
Công ty Cổ phần Kinh Đô mua lại thương hiệu kem Wall’s cùng toàn bộ nhà máy,
dây chuyền sản xuất của Nhà máy Kem Wall’s của Tập đoàn Unilever được giới
chuyên gia đánh giá cao về tính nhạy bén thị trường trong chiến lược kinh doanh
của Kinh Đô. Nhiều người cho rằng, đây là tín hiệu chứng tỏ các doanh nghiệp
(DN) nội địa đã tiếp cận tính chuyên nghiệp trong đầu tư vào thương hiệu.
Trong khi đó một số trương hợp đáng tiếc của một số thương hiệu VIET dã bi mất
đi hoac là chịu tổn thất nặng nề khi không quan tâm đuáng mức đén việc đầu tư
xây dựng và bảo vệ thương hiệu . Điển hình là trường hợp café TRUNG NGUYÊN
khi không quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ thương hiẹu cảu mình và đã bị một
số cong ty nước ngoài gây khó khăn,lam dụng 1 phần tài sản về thương hiệu.Nguy
cơ bị mất thương hiệu ngày càng lớn và ban lãnh đạo công ty đã phải quyết định bỏ
ra 17 tỷ đòng việt nam để mua lại và làm rõ quyền sở hữu thương hiệu café
TRUNG NGUYÊN. Đây cũng là bài học cảnh tỉnh cho các thương hiệu VIỆT khi
ra nhập vào WTO.
A .2 ) Tình hình của các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới
Trên thế giới một số các thương hiệu nổi tiéng đã gặp phải rất nhiều khó
khăn,nhiều thương hiệu lớn đã phải trả cái giá bằng cả tài sản thương hiệu của
mình:
 Nguyên tắc khô cứng dẫn đến thất bại tai hại :



Hugo Boss, tập đoàn thời trang của Đức, gần đây vừa tuyên bố về việc sẽ ngưng
sản xuất trang phục cao cấp dành cho đàn ông dưới cái tên Baldessarini ngay sau
khi giới thiệu bộ sưu tập xuân – hè 2007. Lãnh đạo công ty chỉ thông báo ngắn gọn
là “Baldessarini hiện nay đã không còn phù hợp với cơ cấu và đường lối kinh
doanh của chúng tôi nữa”.
Thương hiệu Baldessarini ra đời từ năm 1993 và chỉ tính riêng năm 2004, nó đã
mang về cho Hugo Boss 17 triệu EUR. Trong khi toàn bộ sản phẩm quần áo thời
trang có nhãn Hugo Boss (doanh thu trên 1 tỷ EUR trong năm 2005) được làm từ
khắp mọi nơi trên thế giới và dây chuyền sản xuất có thể được gọi tên là “xuyên
quốc gia”, thì những vật dụng mang tên Baldessarini vẫn chỉ được thiết kế và cắt
may tại một xưởng duy nhất. Cuối cùng là chính sự cứng nhắc đó đã giết chết cái
tên Baldessarini, khi viễn cảnh phát triển thương hiệu đã bị thu hẹp ngay từ lúc
đầu.
Lãnh đạo của hãng thời trang Đức này hiện nay đang tích cực quảng bá cho một
thương hiệu cao cấp khác có tên Boss Selection. Tuy vậy, việc công ty Hugo Boss
“chôn vùi” thương hiệu Baldessarini không hề ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của
dòng nước hoa cùng tên do Procter&Gamble sản xuất.
 Sự già cỗi và mệt lỏi của một thương hiệu:
Do hầu như không có khách hàng mà năm 2004, thương hiệu xe hơi lâu đời nhất
nước Mỹ Oldsmobile (ra đời vào năm 1897, trước Cadillac và Ford đến 6 năm)
buộc phải rút lui khỏi thị trường. Theo lời của người đại diện cho công ty General
Motors, chủ sở hữu của thương hiệu từng một thời là niềm mơ ước của biết bao
nhiêu người này, thì doanh số bán hàng của Oldsmobile trong 5 năm cuối cùng đã
sụt giảm ghê gớm. Trong những năm 1980 – 1990, General Motors vẫn còn bán
được khoảng 1 triệu chiếc xe nhãn hiệu Oldsmobile mỗi năm. Nhưng đến năm
2004, cho dù đã nỗ lực hết sức, lượng hàng bán ra cũng chỉ đạt 250 ngàn chiếc,
mặc dù so với mặt bằng chung tại Mỹ thì mức giá 20 ngàn USD không phải là quá
cao.
 “lúc sống thì chẳng cho ăn ”
Được mệnh danh là “người đi tiên phong” trong thị trường máy tính cá nhân, công

ty IBM vào tháng 12- 2004 đã tuyên bố chấm dứt việc sản xuất máy tính cá nhân.
Một trong những lý do chính được lãnh đạo công ty đưa ra là tốc độ bán hàng ngày
càng chậm dẫn đến lợi nhuận giảm mạnh.
Việc sản xuất PC của IBM bắt đầu từ năm 1981, nhưng trong vòng 10 năm kế tiếp,
hãng lại không mấy quan tâm đến mảng này mà chỉ tập trung nghiên cứu phát triển
các thiết bị phần cứng và tối ưu hóa các dịch vụ cung cấp. Mảng máy tính cá nhân
của IBM sau đó được một công ty Trung Quốc có tên là Lenovo mua lại và nhờ
chính sản phẩm này mà công ty đã vươn lên giữ vị trí thứ ba trên thế giới về sản
xuất máy tính cá nhân.
 Nhân tố dị chủng :


Sau 40 năm thành công rực rỡ trên thị trường thời trang cao cấp, nhà mốt Yves
Saint Laurent đã phải đóng cửa vĩnh viễn vào năm 2002. Bản thân ông chủ và là
người sáng lập ra nhãn hiệu này, ông Yves Saint Laurent, cho biết ông đi đến quyết
định như vậy vì lý do tuổi tác và sức khỏe. Thế nhưng đa số các đại diện của giới
kinh doanh thời trang nước Pháp đều biết rõ nguyên nhân thực sự mà người chủ
không muốn tiết lộ: đó là mối mâu thuẫn giữa Yves Saint Laurent và đối tác tài
chính – chủ nhân tập đoàn Gucci, Francois Pinault. “Giọt nước làm tràn ly” chính
là đòi hỏi của Pinault để giám đốc sáng tạo của Gucci, Tom Ford, giữ vai trò nhà
thiết kế chính của dòng sản phẩm pret-a-porter (trang phục phổ thông) tại nhà mốt
mang tên Yves Saint Laurent.
 Tính đỏng dảnh của công chúng :
Việc tạp chí Life quyết định ngừng xuất bản vào năm 2000 được giải thích bằng sự
lạnh nhạt của độc giả đối với ấn phẩm này. Ra mắt lần đầu tiên cách đây 64 năm,
tạp chí Life đã trở thành một phần trong đời sống văn hóa của dân chúng Mỹ.
Số phận của “Cuộc sống” này cũng khá lận đận, khi nó đã buộc phải đóng cửa một
lần vào năm 1972. 10 năm sau, tạp chí được khôi phục tuy chỉ có thể ra mỗi tháng
một kỳ, thay vì là tuần báo như trước đây. Thế nhưng việc thay đổi này không thực
sự cứu được Life. Theo lời thú nhận của cơ quan đại diện của tạp chí, công ty Time

Inc. thuộc tập đoàn truyền thông Time Warner, tạp chí Life không đến nỗi phải
chịu lỗ, chỉ có điều các chi phí xuất bản tăng nhanh hơn những lợi nhuận mà tờ báo
này mang lại.
Có thể nói, tất cả các doanh nghiệp đều ra đời theo một vài trình tự nhất định và
giống nhau, nhưng nguyên nhân buộc nó chấm dứt hoạt động thì lại có muôn vàn.
Sự rút lui của các “đại gia” không chỉ là những sự kiện khiến cho mọi người chú ý,
mà còn là lời cảnh báo cho các công ty còn đang hoạt động trong thị trường đầy
biến động với mức độ cạnh tranh ngày càng cao như hiện nay. Những “tấm gương
tày liếp” trên đây sẽ là bài học không bao giờ cũ để các doanh nhân soi vào và rút
kinh nghiệm cho chính mình
 Vị thế các thương hiệu trên thế giới:
Tờ báo Businessweek kết hợp với Interband và một số cố vấn nhãn hiệu hàng
đầu thế giới để đưa ra bảng xếp hạng 100 nhãn hiệu hàng đầu thế giới (tính theo
USD). Những công ty được xếp hạng năm nay là những công ty xây dựng niềm tin
từ công chúng xung quanh các sản phẩm của họ để tạo ra "các nhãn hiệu yêu
thích", cho phép khách hàng cảm thấy như thể họ làm chủ nhãn hiệu đó. Ưu thế
công nghệ của các công ty đã làm tốt như bốn công ty của tốp năm nhãn hiệu lớn
nhất về giá trị là từ lĩnh vực công nghệ, trong khi nhãn hiệu lâu năm như Coca
Cola, Microsoft, Disney và Ford vẫn có được những uy tín mạnh trên thị trường
quốc tế.
Dựa trên nhãn hiệu trung thành nhất và sức bán mạnh nhất của iPod, Apple (xếp
thứ 43) là một nhãn hiệu có sự chuyển biến lớn tăng 24% giá trị nhãn hiệu. Các


nhãn hiệu được xếp hàng khác bao gồm Yahoo! xếp thứ 61 (tăng 17%); Amazon
xếp thứ 66 (tăng 22%); SamSung xếp hạng thứ 21 (tăng 16%); và HSBC xếp thứ
33 (tăng 15%). Công ty bán đấu giá qua mạng eBay lần đầu tiên xuất hiện trong
bảng danh sách năm nay và xếp vào vị trí thứ 60. Theo Businessweek, điều này
làm cho những nhãn hiệu đã được xây dựng từ lâu như nhãn hiệu hàng đầu thế giới
Coca Cola và nhãn hiệu thứ hai thế giới Microsoft đã bắt đầu nhận ra sự cần thiết

của việc phát triển các mối quan hệ với khách hàng. Microsoft đã bắt đầu mở các
cửa hàng kinh doanh nhỏ tại các phòng chờ sân bay và Coca Cola cũng đã nhanh
chóng thể hiện sự nhạy bén của mình bằng việc đưa vào sử dụng hàng loạt các cửa
hàng mang tên "Coke Red Loungé" hợp với thị hiếu của giới trẻ các nước.
Phản ánh sự khôi phục của nền kinh tế thế giới, tất cả các giá trị nhãn hiệu đều
tăng 2,2%. Mặc dù các hãng của Mỹ vẫn nắm giữ 8 trong 10 vị trí đầu bảng, trong
khi đó hầu hết các giá trị nhãn hiệu của các công ty Mỹ trong bảng đã giảm từ 64
xuống 58%. Sự cải thiện về kinh tế thúc đẩy lĩnh vực dịch vụ tài chính trong năm.
Hãng đầu tư nhà Goidman Sachs đã tăng 13% giá trị thương hiệu và xếp vị trí 37.
Những nhãn hiệu khoẻ trong ngành này bao gồm J.P Morgan, xếp vị trí 30 (tăng
7%); Morgan Stanley Lynch xếp thứ 26 (tăng 9%). McDonalds đã giữ được vị trí
hàng đầu về kinh doanh đồ ăn nhanh, đạt 1% giá trị nhãn hiệu và chuyển tới vị trí
thứ 7 trong bảng xếp hạng.
Trong lĩnh vực sản xuất ô tô cũng có sự chuyển dịch đáng kể. Toyota đã loại nhãn
hiệu sang trọng Mescedes (Luxury brand behemonth Mescedes) đã bị loại ra khỏi
tốp 10 nhãn hiệu đứng đầu. Mescedes, bị nghi ngờ về chất lượng và việc sản xuất
tạm lắng xuống khiến cho sản lượng ôtô bán giảm nhẹ trong năm 2003. Toyota, thì
ngược lại, theo đuổi việc vượt qua Ford về sản lượng bán hàng trên toàn thế giới.
Việc Mỹ yếu kém trong các nhãn hiệu ô tô đã trở nên rõ ràng hơn. Hãng ô tô Ford
đã giảm 15% giá trị nhãn hiệu do việc tăng cường cạnh tranh trên thị trường Mỹ và
đã tiếp tục yếu đi trên các thị trường châu Âu. Ngược lại, Audi đang giữ vị trí đứng
đầu trên thị trường châu Á tạo ra một sự gia nhập mới ở vị trí 81.
Các hàng hoá xa xỉ đã có tiến triển trong bảng xếp hạng năm nay. Cartier, nhãn
hiệu sửa đổi của họ đã đặt họ vào chỗ đã đạt được những lợi ích trong sự tiêu sài
theo ý muốn (indulgence spending) đã xuất hiện ở vị trí 91. Sự tăng trưởng mặt
hàng hàng đầu rất mạnh và lợi nhuận lớn đã cho phép nhãn hiệu các sản phẩm mỹ
phẩm Estee Laudertaoj có được một chỗ đứng ở vị trí 92 trong bảng xếp hạng. Và
người tạo ra loại ô tô sang trọng Porsches cũng tạo ra một chỗ đứng trong bảng xếp
hạng lần đầu tiên ở vị trí 74. Thành công của Porsches Cayenn SUV chứng tỏ rằng
nhãn hiệu có thể hấp dẫn hơn một chút với những người trung niên.

Giá trị nhãn hiệu đã được xác định người đầu tiên sử dụng nhãn hiệu quốc tế vào
16 năm trước đây và đã quen với việc đánh giá hơn 3.500 nhãn hiệu. Giá trị được
tính như giá trị hiện tại thực của tiền kiếm được mà nhãn hiệu đó mong đợi tạo ra
và đảm bảo trong tương lai cho khoảng thời gian nhất định. 100 nhãn hiệu hàng
hoá có giá trị nhất thế giới với giá trị lớn hơn đó là 2,1 tỷ USD đã được chọn theo
hai tiêu chuẩn: đầu tiên, các nhãn hiệu phải là nhãn hiệu quốc tế, phải có giá trị
đáng kể trên các thị trường chính trên thế giới. Thứ hai là phải có số liệu Marketing
và tài chính công khai có giá trị cho việc chuẩn bị một sự định giá hợp lý.


B ) Thực trạng đầu tư xây dựng ,bảo hộ thương hiệu :
- Trong điều kiện hội nhập sâu rộng hiện nay để giúp các doanh nghiệp xây dựng
và phát triển thương hiệu trên thị trường trong nước và quốc tế Chính phủ có thể
giúp tạo lập một môi trường kinh doanh tốt để các doanh nghiệp trong nước có
điều kiện cần thiết để phát triển có hai khía cạnh mà Chính phủ có thể hỗ trợ cho
các doanh nghiệp.
Một là: các chính sách thuế có liên quan đến chi phí truyền thông marketing. Tại
Mỹ và hầu hết các nước có nền kinh tế thị trường tự do khác, từng đồng đô la mà
doanh nghiệp chi ra một cách hợp pháp cho các hoạt động truyền thông marketing
đều được coi là một phần chi phí sản xuất của sản phẩm hoặc dịch vụ.
Trong khi đó, Việt Nam hạn chế mức chi phí nhất định cho truyền thông
marketing, được xem là chi phí không chịu thuế. Các hình thức truyền thông
thương hiệu cho các sản phẩm nước ngoài phần lớn được làm ra tại các nước khác
khiến các doanh nghiệp Việt Nam phải tốn nhiều chi phí hơn để xây dựng các loại
hình truyền thông thương hiệu chất lượng cao trong nước.
Hai là: Chính phủ có thể cung cấp sự hỗ trợ bằng việc phát triển nhiều hơn nữa các
cơ sở giáo dục để đào tạo những nhà thiết kế và chỉ đạo nghệ thuật. Chỉ tính riêng
tại Mỹ, hàng năm có khoảng 10.000 nhà thiết kế đồ họa và giám đốc nghệ thuật tốt
nghiệp từ các trường đào tạo chính quy. Bên cạnh những kỹ năng sáng tạo mà họ
được đào tạo trong trường lớp, những nhà thiết kế này có điểm thuận lợi là được

sinh ra và lớn lên trong một môi trường mà mỗi ngày có hàng ngàn hình ảnh tiếp
thị bao quanh. Cũng giống như những người tiêu dùng là đối tượng của những hình
ảnh tiếp thị đó, dần dần họ cũng tiếp nhận truyền thông marketing như một thứ
ngôn ngữ văn hóa không có quy tắc cố định.
Tất nhiên Mỹ không phải là nước duy nhất nhận thấy được giá trị gia tăng mà
thiết kế mang lại. Trung Quốc hiện cũng đang trong quá trình mở rộng số trường
đào tạo các ngành nghề liên quan tới thiết kế từ 400 lên đến 1000 trường. Trong
tương quan so sánh, hiện nay tại Việt Nam chỉ một số ít trường đại học có chuyên
khoa về thiết kế truyền thông marketing. Theo ước tính hàng năm, tổng số sinh
viên tốt nghiệp các chương trình đào tạo thiết kế đồ họa chính quy hay không
chính quy tại Việt Nam không đến 200. Trình độ thẩm mỹ và khả năng sáng tạo
của nhiều cử nhân này khá cao, và nhìn chung môi trường marketing tại Việt Nam
qua hơn 10 năm phát triển cũng đang dần cải thiện và rèn luyện thêm những kỹ
năng này. Tuy nhiên, hiện chúng ta đang thiếu trầm trọng những người có khả
năng gắn kết một cách hiệu quả những kỹ năng nghệ thuật của mình với những nhu
cầu marketing thực tế trên thị trường


1.3.2)Thương mại điện tử trong doanh nghiệp
Từ khi phát minh ra máy tính đầu tiên trong những năm1960, các máy tính đã
đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh. Hơn nữa với sự ra đời của Internet,
vai trò này lại càng quan trọng hơn. Đối với nhiều tổ chức việc đầu tư vào thương
mại đIện tử không còn là một sự lựa chọn mà là một đổi mới trong kinh doanh.
Với sự tăng trưởng của thị trường toàn cầu, thương mại điện tử là cách hứa hẹn
nhất đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để mở rộng thị trường quốc tế.
Tổng quát, các vấn đề chính theo kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ khi thực hiện đầu tư công nghệ thông tin là:
+Thiếu nguồn tài chính và hỗ trợ về mặt kỹ thuật
+Dựa vào các nguồn lực bên ngoài
+Nhiều khó khăn về tuyển dụng

+Không đủ sức thuê mướn các nhân viên có trình độ chuyên nghiệp về máy tính
1.3.3) Thực trạng đầu tư vào TSVH khác:
1.3.3.1)Thực trạng văn hoá doanh nghiệp :
Trong bối cảnh hội nhập sôi động như hiện nay, muốn tồn tại và phát triển bền
vững chúng ta phải có khả năng thích ứng, tự hoàn thiện để hợp tác, hội nhập sâu
rộng với thế giới. Muốn vậy hơn bao giờ hết mỗi doanh nghiệp nói riêng và cộng
đồng doanh nghiệp nói chung cần có ý thức tạo cho mình một nét đẹp văn hoá
trong kinh doanh. Bởi văn hoá kinh doanh được đánh giá là nền tảng tinh thần, là
linh hồn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, của xã hội của quốc gia. Vì
vậy, tự nó là một nhu cầu của văn minh thị trường và là một đòi hỏi tất yếu của sự
phát triển. Giá trị văn hoá thể hiện trong hình thức mẫu mã và chất lượng sản
phẩm, trong cửa hàng bày bán sản phẩm, trong cách giao tiếp, ứng xử của người
bán với người mua, tham gia vào các hoạt động từ thiện của xã hội. Văn hoá doanh
nghiệp không phải là những giá trị vô hình, khó nhận biết mà nó rất hữu hình, có
tác động chi phối đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói, sự thành
công hay thất bại của doanh nghiệp đều gắn chặt với việc có hay không văn hóa
doanh nghiệp.Tuy nhiên, việc đầu tư cho văn hoá doanh nghiệp chỉ chiếm một tỷ
trọng nhỏ trong cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp hiện nay, nhưng nhận thức về vấn
đề đầu tư này đã được doanh nghiệp chú trọng hơn trong thời gian gần đây.
1.3.3.2) Thực trạng chất lượng nguồn nh n lực :
Hội nghị trung ương Đảng đã nhận định : con người là nhân tố quyết định trong
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.Trong thời đại hội nhập kinh tế
quốc tế diễn ra nhanh như hiện này, các doanh nghiệp Việt Nam để tồn tại và phát
triển, theo kịp thời đại thì vấn đề đầu tiên doanh nghiệp quan tâm đó chính là
nguồn nhân lực,chỉ có đầu tu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: trong hệ thống


quản lý điều hành, trình độ cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp thì doanh
nghiệp mới có đà để phát triển đi lên. Các doanh nghiệp lớn của nước ta hiện nay,
ngay trong chế độ tuyển dụng lao động cũng đặt ra một đỏi hỏi rất lớn đối với lao

động, tiếp tục trong qúa trình công tác, doanh nghiệp lại phải đào tạo tiếp để người
lao động thích ứng được với công việc.Doanh nghiệp đầu tư cho người lao động đi
học khoa học công nghệ mới, đi sang nước ngoài học các kĩ năng kinh doanh Tuy
nhiên đối với các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay, đầu tư
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực rất ít, các doanh nghiệp chủ yếu là hướng dẫn
qua thực hành, học nghề chưa chú tâm đầu tư có bài bản cho người lao động. Việc
đào tạo này tuy có ưu điểm là không tốn chi phí đào tạo, hướng dẫn trực tiếp giúp
người lao động dễ tiếp thu nhưng có nhược điểm là thời gian đào tạo lâu, hệ thống
kiến thức không được đồng bộ, làm người lao động khó có thể giải quyết được
những công việc phức tạp nảy sinh.
1.4) Đánh giá tác động:
1.4.1 )Sự tác động giữa đầu tư vào tài sản hữu hình và đầu tư vào tài sản vô hình
trong doanh nghiệp
Nhìn chung, các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ của Việt Nam, hay cả các
doanh nghiệp nhà nước mới cổ phần hoá ít quan tâm đến thị trường, cụ thể: sản
xuất chỉ dựa trên khả năng tự có, mặc dù có suy nghĩ muốn tạo ra sản phẩm có chất
lượng tốt để thoả mãn được khách hàng nhưng chưa nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu
của họ. Vì thế, trong nhiều năm qua doanh nghiệp chỉ chú trọng đầu tư vào tài vào
tài sản hữu hình mà chưa chú tâm đầu tư cho tài sản vô hình: thương hiệu, uy tín
doanh nghiệp, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực một tài sản rất lớn trong kinh
doanh hiện nay. Biết rằng đầu tư vào tài sản hữu hình là cơ sở nền tảng cho doanh
nghiệp đầu tư vào tài sản vô hình, tuy nhiên nguồn lực là có hạn doanh nghiệp phải
cân đối cơ cấu đầu tư sao cho phù hợp nhất để có thể tồn tại trong thị trường cạnh
tranh với nền kinh tế đang hội nhập từng bước với thế giới.
1.4.2 )Sự tác động giữa đầu tư vào tài sản vô hình và đầu tư vào tài sản hữu hình
trong các doanh nghiệp
Khi các doanh nghiệp đã đầu tư thành công vào thương hiệu của mình lấy ví
dụ: cà phê Trung Nguyên, Công ty sữa Vinamilk, kem đánh răng P/S việc đầu tư
mở rộng quy mô sản xuất không còn là vấn đề cần phải bàn của các doanh nghiệp,
doanh nghiệp cũng có thể cho thuê thương hiệu ví dụ như công ty bánh Kinh Đô sẽ

thu về một lợi nhuận rất lớn và vấn đề thua lỗ trên thị trường hay những rủi ro
trong kinh doanh cũng sẽ giám thiểu rất nhiều. Vai trò của đầu tư vào tài sản vô
hình thật không nhỏ trong thời đại hiện này.Tài sản vô hình doanh nghiệp chính là
tài sản trí tuệ. Tuy nhiên việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của Việt Nam chưa chặt
chẽ , tạo kẽ hở để nhiều kẻ lợi dụng, chưa định hướng được cho các doanh nghiệp
trong quá trình đầu tư kinh doanh


Trong quá trình đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp nên
xem xét cơ cấu đầu tư vào tài sản hữu hình và tài sản vô hình sao cho phù hợp
nhất, thoát khỏi lối mòn suy nghĩ cũ của thời kì bao cấp

CHƯƠNG 3_ GIẢI PHÁP VỀ VẤN ĐỂ ĐẨU TƯ VÀO TSHH VÀ TSVH
1 ) Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư vào TSHH
1.1 ) Đối với Doanh nghiệp.
1.1.1 ) Giải pháp nâng cao trang thiết bị máy móc công nghệ .
Máy móc thiết bị công nghệ là một công cụ quyết định hiệu quả sản xuất kinh
doanh của DN .Ngày nay ,trong xu thế toàn cầu hoá trên thế giới đang diễn ra
mạnh mẽ cùng với việc áp dụng những thành tựu của khoa hoc kỹ thuật đã thực sự
nâng cao được sản xuất .Và các quốc gia ,các DN đang không ngừng đổi mới công
nghệ ,sự đi trước về công nghệ trong sản xuất giữ vai trò quan trọng trong cạnh
tranh với các đối thủ khác,giúp tiết kiệm chi phí sản xuất ,thời gian và nhân lực
1.1.2 ) Thu hút vốn đầu tư để nâng cao công nghệ sản xuất
Các doanh nghiệp muốn đầu tư vào công nghệ sản xuất thì ngoài vốn tự có của
DN cần phải thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài : đó là vốn đi vay Ngân Hàng
,vốn của các chủ đầu tư góp vốn….
Xu thế các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đang từng bước cổ phần hoá các
doanh nghiệp nhà nước và tham gia vào thị trường chứng khoán để kêu gọi vốn .
Trong hai năm vừa qua, tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đã được
đẩy mạnh hơn so với những năm trước rất nhiều lần. Tới cuối tháng 3 năm 2006,

đã có 4.673 doanh nghiệp Nhà nước được tái cơ cấu, trong đó có 3.298 doanh
nghiệp được cổ phần hoá.
Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những công ty có quy mô trung bình và nhỏ, vốn Nhà
nước trong những công ty này chỉ chiếm 8% trong tổng số những doanh nghiệp
Nhà nước phải cơ cấu lại. Vẫn còn nhiều các doanh nghiệp Nhà nước cần phải cổ
phần hoá trong những năm tới và đây là những doanh nghiệp Nhà nước có số vốn
khổng lồ và thực sự là cơ hội lớn cho các nhà đầu tư trong nước cũng như ngoài
nước.
Một khu vực tiềm tàng nữa mà có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài, đó chính là khu vực các doanh nghiệp vừa và nhỏ tư nhân. Hiện nay,
có tới 97% của hơn 230.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động tại Việt Nam là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các doanh nghiệp tư nhân rất năng động và phát triển
mạnh mẽ và đã trở thành một bộ phận quan trọng của nền kinh tế.
Doanh nghiệp phải huy động được nguồn vốn để có khả năng đầu tư vào các máy
móc thiết bị tiên tiến phù hợp với trình độ quản lý của mình, tránh nhập những máy
móc lạc hậu quá, hiện đại quá mà doanh nghiệp không có khả năng vận hành nó. Điều
đó sẽ gây ra lãng phí trong việc sử dụng vốn đầu tư .
1.1.3 ) Giải pháp cho vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

×