Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

nghiên cứu kết quả phòng chống sốt xuất huyết dengue dựa vào cộng đồng tại xã trường khánh huyện long phú tỉnh sóc trăng năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.46 MB, 94 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt xuất huyết Dengue là một bệnh truyền nhiễm cấp tính do vi
rút Dengue gây ra, lây truyền chủ yếu qua muỗi Aedes aegypti, thứ yếu là
muỗi Aedes alpopictus. Là bệnh lưu hành ở các nước đang phát triển. Bệnh
chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh.
Hiện nay theo ước tính hàng năm trên thế giới có khoảng 2,5 đến 3 tỷ
người có nguy cơ mắc bệnh, trong số đó có hàng trăm ngàn người mắc bệnh
và có khoảng 1/4 phải nhập viện và điều trị, trẻ em chiếm 90%, tỷ lệ tử vong
khá cao. Năm 1998, số mắc và tử vong sốt xuất huyết Dengue rất cao với
234.920 trường hợp mắc, 377 trường hợp tử vong tại 56/61 tỉnh, thành phố.
Tại 20 tỉnh , thành phố khu vực phía nam có 123.997 người mắc và 347
người chết. Vì vậy, ngày 10 tháng 10 năm 1998 Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định số 196/1998/QĐ-TTg đưa Dự án phòng sốt xuất huyết Dengue
trở thành một mục tiêu trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia thanh toán
một số bệnh xã hội và bệnh dịch nguy hiểm [1], [2], [13].
Để khống chế bệnh dịch, chúng ta đã dùng nhiều biện pháp phối hợp,
nhưng thực tế kết quả phòng bệnh còn rất hạn chế. Nếu chỉ dựa vào việc
phun hóa chất diệt côn trùng khi có dịch thôi thì không hiệu quả, tốn kém và
cũng không duy trì được lâu dài. Các biện pháp phun thuốc hoá học và sử
dụng hoá chất diệt muỗi đã chiếm ưu thế trong một thời gian dài. Tuy nhiên,
đã dẫn đến hậu quả là xuất hiện hiện tượng côn trùng kháng hoá chất, bên
cạnh là sự ô nhiễm môi trường do sử dụng hoá chất, đồng thời kinh phí sử
dụng hoá chất ngày một tăng do phải tăng nồng độ và số lượng sử dụng.
Những nghiên cứu mới đây đã chứng minh rằng các phương pháp trên ít có
hiệu quả diệt quần thể muỗi, do đó ít có hiệu quả ngăn ngừa sự lan truyền sốt
xuất huyết Dengue [4], [5], [6].
2
Phòng và chống sốt xuất huyết Dengue không thể thực hiện được nếu
không có sự tham gia hợp tác của cộng đồng. Huy động sự tham gia của toàn
cộng đồng được coi là phần cơ bản trong hoạt động chống dịch khẩn cấp. Để


hiểu biết và nhận thức đúng, cùng nhau hưởng ứng, chủ động thực hiện các
biện pháp phòng chống sốt xuất huyết Dengue thường xuyên mới mong đem
lại kết quả tốt.
Đối với tỉnh Sóc Trăng, tình hình kinh tế xã hội của tỉnh tiếp tục có
những chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân từng bước được nâng lên với
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe nhân
dân triển khai thực hiện có hiệu quả bền vững.
Tuy nhiên tỉnh Sóc Trăng còn gặp không ít những khó khăn do biến
động của khí hậu và thời tiết, cũng như sự chuyển đổi từ trồng lúa sang nuôi
trồng thủy sản. Dân số của tỉnh là 1.308.100 người, người Kinh chiếm
65,10%, người Hoa chiếm 5,98%, người Khơ me chiếm 28,92%. Người dân
có thói quen tích trữ nước và thường xuyên không đậy kín các dụng cụ chứa
nước, đây là điều kiện thuận lợi dễ phát sinh và phát triển bệnh sốt xuất
huyết Dengue. Vì vậy xây dựng một chiến lược phòng chống sốt xuất huyết
Dengue hiện nay vẫn là vấn đề thời sự đang được tranh luận, bàn cải và các
lời giải chưa thật sự thống nhất. Do vậy cần có phương thức tổ chức và quản
lý thật tốt, đồng thời xác định những vấn đề đang được tiếp tục nghiên cứu
một cách hợp lý [42], [43], [44].
Với lý do trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu kết quả
phòng chống sốt xuất huyết Dengue dựa vào cộng đồng tại xã Trường
Khánh huyện Long Phú tỉnh Sóc Trăng năm 2009”.
Mục tiêu của đề tài:
1. Mô tả kiến thức, thái độ và hành vi của người dân về phòng chống
sốt xuất huyết Dengue tại xã Trường Khánh huyện Long Phú
2. Đánh giá kết quả các biện pháp dựa vào cộng đồng của công tác
phòng chống sốt xuất huyết Dengue.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Sốt xuất huyết Dengue (SXHD) là bệnh nhiễm vi rút Dengue cấp tính

do muỗi truyền. Bệnh thường có triệu chứng sốt cao đột ngột kéo dài trong
vòng 2 - 7 ngày, kèm theo đau đầu, đau cơ, đau xương hoặc khớp và nổi ban.
Bệnh diễn biến nặng có biểu hiện xuất huyết ở các mức độ khác nhau: dưới
da, niêm mạc, xuất huyết nội tạng, gan to và có thể tiến triển đến hội chứng
sốc Dengue, dẫn đến tử vong [1].
1.1. TÌNH HÌNH SỐT DENGUE VÀ SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
Sốt xuất huyết Dengue là bệnh nhiễm vi rút cấp tính, gây dịch do muỗi
truyền. Bệnh lưu hành trên 100 nước thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới
và cận nhiệt đới vùng Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương; có khoảng 2,5
tỷ người sống trong vùng nguy cơ; hàng năm có hơn 50 triệu người mắc,
500.000 trường hợp SXHD phải nhập viện và 20.000 - 25.000 trường hợp tử
vong, đặc biệt là trẻ em [45].
Đại dịch sốt xuất huyết Dengue bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20
với số mắc hàng năm khoảng 10 triệu người, trong đó có hơn 90% trường
hợp mắc là trẻ em dưới 15 tuổi. Tỷ lệ chết trung bình là 5% với khoảng
240.000 trường hợp mỗi năm. Trong 40 năm qua, SXHD đã vượt ra khỏi
Đông Nam Á, lan sang Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, phía Đông Địa
Trung Hải và cuối cùng là châu Phi và vùng biển Ca-ri-bê và có mặt trên 100
nước và lãnh thổ.
Tại Đại hội đồng Tổ chức Y tế Thế giới tháng 5/1998, bà Tổng Giám
đốc Gro Harlem Brundtland đã tuyên bố: “Thế kỷ 21 là thế kỷ phòng chống
bệnh sốt xuất huyết” [1].
4
Ở Việt Nam, bệnh SXHD xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1958, sau đó
đã lan rộng và trở thành bệnh lưu hành trong hầu hết các tỉnh, thành trong cả
nước. Gần đây bệnh có chiều hướng tăng lên, nhất là từ năm 1994 trở lại đây
số mắc và chết do SXHD gia tăng đáng kể; vụ dịch năm 1998 có số mắc và
tử vong do SXHD rất cao với 234.920 trường hợp mắc và 337 trường hợp tử
vong tại 56/61 tỉnh/thành phố [1], [17]. Bệnh SXHD luôn tồn tại và là vấn đề
y tế nghiêm trọng ở các nước nhiệt đới có khí hậu thuận lợi cho véc tơ phát

triển như Việt Nam.
1.2. BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE ẢNH HƯỞNG ĐẾN KINH
TẾ - XÃ HỘI
Bệnh SXHD là mối nguy cơ đe dọa đến sức khỏe, tính mạng của
người dân, gây ảnh hưởng đến sức lao động ở người lớn và kinh tế gia đình
bị giảm sút do người lớn phải chăm sóc trẻ ốm. Thời gian bị bệnh trung bình
từ 7 - 10 ngày; chi phí trực tiếp hoặc gián tiếp do bệnh gây ra rất lớn, bao
gồm chi phí điều trị ở bệnh viện, thuốc men chăm sóc nếu ốm ở nhà, không
lao động được chi phí để chính quyền địa phương tổ chức các hoạt động
phòng chống dịch, giảm nguồn thu qua du lịch
Theo báo cáo của Bệnh viện Nhi đồng I Thành phố Hồ Chí Minh, chi
phí trung bình cho 01 cas SXHD có sốc được điều trị tại bệnh viện là 2 triệu
đồng, chưa kể gia đình phải chăm sóc tốn kém tiền đi lại, ăn nghỉ và không
lao động sản xuất được [9]. Theo báo cáo Von Allmen SD và đồng nghiệp
(1979). Dịch sốt xuất huyết ở Puerto Rico, 1977: phân tích chi phí. Tạp chí
về y học và vệ sinh vùng nhiệt đới của Mỹ (American Journal of Tropical
Medicine and Hygiene). Chi phí cho dịch sốt xuất huyết năm 1977 gồm cả
chi phí trực tiếp và gián tiếp được ước tính trong khu vục là từ 6 đến 15,6
triệu USD, trong đó các biện pháp phòng chống dịch chiếm 7,8 - 20,2%.
5
Ảnh hưởng của SXHD đến nền kinh tế còn lớn hơn nhiều, điển hình là
hàng năm Ngân sách nhà nước phải chi hàng trăm tỷ đồng cho Dự án phòng
chống SXHD Quốc gia; ngoài ra Chính phủ còn phải chi thêm hàng tỷ đồng
cho công tác dập dịch đột xuất [11].
Kinh phí bổ sung cho kế hoạch khẩn cấp chống dịch sốt xuất huyết
năm 2004 dự kiến 38.660.550.000 đồng Việt Nam.
1.3. VI RÚT GÂY BỆNH VÀ VEC TƠ TRUYỀN BỆNH
1.3.1. Tác nhân gây bệnh sốt xuất huyết Dengue
Trong suốt thời gian dài, người ta chỉ biết rằng các vụ dịch SXHD là
do muỗi truyền, mà tác nhân gây bệnh vẫn chưa được biết đến. Mãi đến

tháng 5/1944, khi Sabin phân lập được vi rút Dengue type 1, 2 và sau đó
tháng 4/1956, tháng 5/1960 đã lần lượt phân lập được vi rút Dengue 3, 4 thì
tác nhân gây ra các vụ dịch SXHD mới được hiểu rõ. Vi rút Dengue thuộc
nhóm Flavirents vi rút, là nhóm bao gồm các vi rút gây bệnh cho động vật
được truyền qua côn trùng tiết túc [17]. Ở Việt Nam đã phân lập được cả 4
type vi rút dengue; type Den 2, Den 1 chiếm ưu thế trong những năm 1991 -
1995; type Den 2 chiếm 90,5% trong vụ dịch lớn nhất ở Việt Nam năm
1987; type Den 1 chiếm 50% số phân lập được trong các vụ dịch năm 1990
và dao động từ 47,3% đến 62,5% trong thời gian 1991 - 1994. Type Den 3
đã được phân lập ở miền Nam năm 1987 với 3,7% sau đó không thấy xuất
hiện trong thời kỳ 1988 - 1990, xuất hiện trở lại ở miền Bắc năm 1991 và
miền Nam 1994 và trở thành type gây dịch chủ yếu trong thời kỳ 1994 -
1997 với tỷ lệ cao nhất 76,1% năm 1998. Trong khi đó type Den 4 chiếm tỷ
lệ thấp năm 1991, vắng mặt trong thời kỳ 1992 - 1997, nhưng xuất hiện lại
cùng với Den 1 và trở thành type gây dịch chủ yếu năm 1998 [17], [32].
Tại Việt Nam, đã phân lập được cả 4 týp vi rút Dengue gây bệnh.
Theo kết quả của chương trình giám sát vi rút tại các tỉnh phía Nam Việt
6
Nam của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh, týp DEN-2 có chu kỳ hoạt
động từ năm 1987, týp DEN-1 có chu kỳ hoạt động từ 1990 và týp DEN-3
bắt đầu hoạt động từ 1995, còn týp DEN-4 hoạt động nhiều hơn từ năm 1999
[5], [6], [9]. Thông thường, vi rút hiện diện trong giai đoạn cấp tính của bệnh
và mất dần trong giai đoạn hồi phục của bệnh.
1.3.2. Véc tơ truyền bệnh sốt xuất huyết Dengue
Bệnh không lây truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt
người bệnh rồi truyền virut sang người lành qua vết đốt. ở Việt Nam, hai loài
muỗi truyền bệnh SXHD là Aedes aegypti và Aedes albopictus, trong đó
quan trọng nhất là Aedes aegypti. Muỗi cái Aedes aegypti bị nhiễm vi rút, khi
đốt người sẽ truyền vi rút qua vết đốt, do đặc điểm sinh lý của muỗi cái rất ái
tính với người. Thông thường muỗi cái Aedes aegypti bị nhiễm vi rút

Dengue, khi hút máu người bệnh thì sau đó muỗi có khả năng truyền vi rút
suốt đời. Ngoài ra người ta còn nhận thấy nó có khả năng lây truyền cho thế
hệ sau qua trứng, đây là một cơ chế quan trọng để duy trì vi rút, nhưng
không đóng vai trò lớn trong những vụ dịch [1], [17].
Nhiều nghiên cứu về véc tơ truyền bệnh SXHD đã được tiến hành
trong nhiều năm bởi các tác giả như Vũ Sinh Nam và cộng sự (2004) Các tác
giả đều khẳng định Aedes aegypti là véc tơ truyền bệnh chính trong các vụ
dịch SXHD ở Việt Nam [32].
Qua đó chúng ta có sự định loại vectơ giữa Anopheline (họ phụ
Anophelinae, một số loài là vectơ truyền bệnh sốt rét) và Culicine (họ phụ
Culicinae bao gồm nhiều giống, trong đó có giống Aedes).
Trứng của muỗi Anopheline và Culicine (ví dụ như các loài muỗi
thuộc giống Culex) nổi trên mặt nước. Tuy nhiên, đối với một số loài muỗi
thuộc Culicine (ví dụ như muỗi Aedes) đẻ trứng ở giá thể ẩm (như thành các
7
dụng cụ chứa nước) ngay phía trên mực nước. Trứng của muỗi Aedes có khả
năng chịu đựng cao với điều kiện khô hạn trong vùng nhiệt đới. Muỗi
Anopheline đẻ trứng riêng rẽ. Muỗi Culicine đẻ trứng kết hợp với nhau tạo
thành bè (trứng Culex) hoặc đẻ trứng riêng rẽ (trứng Aedes). Đặc biệt chỉ có
trứng của muỗi Anopheline là có phao.
Bọ gậy của Culicine (Aedes và Culex) có ống thở dài, còn gọi là
siphông. Bọ gậy muỗi Anopheline không có siphông. Nhờ có siphông, bọ
gậy Culicine khi lên thở tạo thành một góc nhọn so với mặt nước, trong khi
đó bọ gậy Anopheline nằm song song và ngay dưới mặt nước.
Để phân biệt bọ gậy Aedes và Culex dựa vào đặc điểm của siphông.
Siphông của bọ gậy Aedes ngắn hơn và chỉ có một túm lông. Ngược lại
siphông của bọ gậy Culex dài hơn và có vài túm lông.
Giai đoạn quăng, phân biệt Anopheline và Culicine dựa vào phiễu ống
thở. Đối với Anopheline phễu ống thở ngắn, có miệng rộng. Ngược lại, phiễu
ống thở của Culicine dài, mảnh có miệng hẹp.

Bọ gậy muỗi Aedes nhìn chung sống trong nước sạch, không bị ô
nhiễm. Tuy nhiên ngưởi ta cũng thấy chúng có mặt ở trong các hố phân tự
hoại và các nguồn nước ô nhiễm khác, mà những nơi này thường là nơi sinh
sản của muỗi Culex quinquefasciatus.
Đặc điểm sinh học, sinh thái Aedes aegypti: Muỗi Aedes aegypti có
kích thước trung bình, thân có màu đen bóng và có nhiều vẩy trắng bạc tập
trung thành từng cụm hay thành từng đường trên mình muỗi. Ở tấm ngực I
và II có hai đường vẩy trắng bạc phình ra trông như hai nửa vòng cung ôm
hai bên mặt lưng, tạo thành hình trông như mặt đàn Lya; đầu muỗi có vẩy
trắng bạc đính ở phía đỉnh. Trên mặt lưng bụng ở gốc các đốt II và VIII đều
có những đường vẩy bạc ngang từng đốt; gốc các đốt bàn chân sau có những
khoang trắng, riêng đốt bàn chân thứ V trắng hoàn toàn, vì vậy thường có tên
gọi là “Muỗi vằn” [4], [5], ]6].
8
Đặc điểm sinh lý, sinh thái của muỗi Aedes aegypti: Ở các tỉnh phía
Nam, Aedes aegypti phân bố rộng khắp các tỉnh, các vùng; trừ một số nơi
thuộc các huyện miền núi cao, tỉnh Lâm Đồng, có thể gặp Aedes aegypti ở
mọi nơi; đặc biệt là những thành phố, thị xã đông dân, các vùng đồng bằng
ven biển, nơi thiếu nước ngọt người dân phải dùng nhiều vật chứa nước dự
trữ suốt mùa khô. Chúng rất thích hút máu người và thường sống ở trong nhà
gần người, đậu nghỉ ở những nơi tối, trên quần áo sẫm màu treo trên móc áo.
Muỗi đánh hơi người nhanh và sà vào là đốt (hút máu) ngay, muỗi thường
hoạt động đốt người vào ban ngày, hoạt động cao điểm là lúc sáng sớm và
chiều tối, ở ngoài nhà cũng gặp loài muỗi này nhưng ít hơn, muỗi thường
bay xa khoảng 100 - 200 mét và phát tán quanh vùng chúng đẻ trứng; chúng
có thể phát tán thụ động theo các phương tiện giao thông đi khắp nơi và chỉ
cần 1% số muỗi trong vùng bị nhiễm vi rút là có thể gây dịch, nên việc xử lý
các phương tiện giao thông giữa các vùng đất nước là cần thiết phải làm khi
có thông báo [3].
Ở nhiệt độ 20

o
C, độ ẩm 85% chu kỳ phát triển của muỗi là 10 - 15
ngày, nhiệt độ < 20
o
C chu kỳ này kéo dài trên 20 ngày. Muỗi đẻ trứng ở
những nơi nước sạch chứa trong lu, khạp, hồ, các mảnh chai lọ, bát vỡ, võ xe
cũ, gáo dừa, máng chứa nước mưa ứ đọng lâu ngày ở trong và chung quanh
nhà tại những nơi râm mát. Trứng màu đen, được đẻ riêng rẽ bám ở thành
ẩm phía trên mực nước của các dụng cụ chứa nước; trứng nở sau khi bị ngập
nước tự nhiên do mưa hoặc do con người đổ nước vào để dự trữ. Lăng quăng
của muỗi Aedes aegypti ưa thích nước có độ pH hơi a-xít, nhất là nước mưa,
rồi đến nước máy, nước giếng [8], [14].
Muỗi cái trưởng thành giao phối và thực hiện hút máu lần đầu vào
khoảng 48 giờ sau khi nở; thời gian từ khi hút máu đến khi đẻ trứng là 2 - 5
ngày; số lượng trứng đẻ của mỗi con cái khoảng 60 - 100 trứng/lần. Trong
điều kiện nuôi ở phòng thí nghiệm, muỗi đực và cái có thời gian sống trung
9
bình từ 20 - 30 ngày; như vậy, về mặt lý thuyết muỗi cái có thể đẻ 4 lần với
các bữa ăn máu liên tiếp. Sau khi hút máu người có vi rút Dengue, thời gian
ủ bệnh trong muỗi cái thường từ 8 - 10 ngày, là thời gian cần thiết để vi rút
nhân lên trong tuyến nước bọt của muỗi; sau đó muỗi trở nên bị nhiễm vi rút
và sẽ truyền vi rút sang người khác khi hút máu; muỗi cái cũng có thể truyền
vi rút trực tiếp từ người bệnh sang người lành bằng cách đổi vật chủ khi bữa
ăn máu bị gián đoạn, cách lây truyền này gọi là “lây truyền cơ học” [3].
Những đặc điểm sinh học của loài muỗi này cần chú ý là: Sự tồn tại
khá lâu của trứng, chịu đựng được nhiều tháng trong mùa khô. Các ổ chứa
lăng quăng thông thường là: Ổ chứa tự nhiên như hốc cây, thân tre, vỏ ốc,
kẽ bẹ lá (thơm, chuối, môn ) ít khi gặp trên hốc đá. Ổ chứa nhân tạo như
lu, khạp, hồ, phuy, chai lọ, chân chén chống kiến, lọ hoa, những vật dụng
phế thải xung quanh nhà có chứa nước Qua nhiều năm nghiên cứu tại

các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, các kết quả thu được cho thấy ổ chứa
lăng quăng chủ yếu là lu, khạp, hồ, phuy là những vật chứa nước do con
người tạo ra [3], [35].
Tập tính: chỉ có con cái hút máu, muỗi hoạt động hút máu ban ngày,
nhiều nhất là vào sáng sớm và chiều tối, đậu nghỉ ở những nơi tối, kín gió.
Muỗi thích ẩm, ít chịu lạnh, bay khoẻ nhưng nhẹ nhàng. Độ phát tán chủ
động của muỗi thấp, khoảng 100 - 400 con xung quanh ổ. Muỗi Aedes
aegypti thường sống ở các đô thị. Muỗi Aedes alpopictus thích sống ở lùm
cây, ngọn cỏ, phần lớn sống ở vùng nông thôn [32], [34].
1.4. PHÒNG CHỐNG SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE
1.4.1. Vắc xin dự phòng
Vắc xin dự phòng SXHD đã được khám phá trên 60 năm, nhưng qua
thử nghiệm chưa công bố hiệu quả chống lại vi rút dengue; một loại vắc xin
phòng ngừa nhiễm 4 type vi rút cũng đã được thử nghiệm tại nhiều nước trên
10
thế giới, cho đến nay Tổ chức Y tế Thế giới vẫn chưa cho phép lưu hành vắc
xin phòng SXHD trên thị trường [56], [59].
Tại Việt Nam, theo Bộ Y tế thì đến nay bệnh SXHD chưa có thuốc
điều trị đặc hiệu và chưa có vắc xin phòng bệnh, vì vậy diệt véc tơ đặc biệt là
diệt bọ gậy (lăng quăng) với sự tham gia tích cực của cộng đồng là biện pháp
hiệu quả nhất trong phòng chống SXHD [2], [3].
1.4.2. Phòng chống véc tơ truyền sốt xuất huyết Dengue
1.4.2.1. Sử dụng hóa chất
Việc giải quyết véc tơ truyền bệnh vẫn là biện pháp chủ yếu trong
phòng chống SXHD hiện nay; ngoài các biện pháp cơ học, sinh học, biện
pháp hóa học cũng đóng một vai trò quan trọng nhất là khi dịch có nguy cơ
bùng phát. Các hóa chất diệt côn trùng được sản xuất dưới nhiều dạng khác
nhau như bột mịn, bột hòa nước, hạt, nhũ dầu, dung dịch, dạng để phun khí
dung ULV từ đó công dụng khác nhau, cách sử dụng khác nhau, nồng độ và
liều lượng hữu hiệu của mỗi loại hóa chất cũng khác nhau.

Nhằm phát huy triệt để tác dụng của hóa chất được sử dụng, đồng thời
hạn chế việc lạm dụng dẫn đến sự xuất hiện tính đề kháng ở côn trùng cũng
như tránh được sự ô nhiễm môi trường và gây ngộ độc cho người và gia súc;
khi sử dụng hóa chất diệt côn trùng phải đảm bảo các quy định kỹ thuật và
tuỳ theo các đặc điểm sinh lý, sinh thái của từng loài côn trùng mà sử dụng
những hóa chất thích hợp, biện pháp phun thích hợp [5].
Thời gian gần đây, khi công tác xử lý ổ dịch nhỏ đã trở thành thường
quy, việc nắm vững cách sử dụng hóa chất diệt côn trùng cũng như cách
phun bằng máy phun đeo vai càng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo hiệu quả xử lý ổ dịch nhỏ.
Muỗi Aedes aegypti có quan hệ gần gũi với con người và là loài muỗi
sống chủ yếu trong nhà, hơn 90% muỗi trưởng thành đậu nghỉ trong nhà trên
11
những bề mặt không thể phun thuốc được như quần áo, mùng màn Vì thế
biện pháp phun tồn lưu hóa chất không được khuyến khích để diệt loài muỗi
này. Để diệt muỗi Aedes aegypti, biện pháp phun không gian hiệu quả nhất
là phun khí dung ULV, với đường kính hạt thuốc phun ra cực nhỏ (< 50
µm). Hạt khí dung đảm bảo các yêu cầu sau: thời gian bay lơ lững trong
không khí phải đủ mức độ di chuyển và xâm nhập vào vùng cần phun để diệt
muỗi trưởng thành; tác dụng của phun khí dung ULV là tiêu diệt trong một
thời gian ngắn một số lượng lớn muỗi trưởng thành trên diện rộng nhưng
không gây ô nhiễm môi trường và không có tác dụng tồn lưu, vì các hạt
thuốc nhỏ li ti được phun ra sẽ mất hết trong không khí sau một thời gian
ngắn, khoảng 30 phút [5].
Để đảm bảo hạt thuốc phun ra có tác dụng diệt muỗi đạt hiệu quả cao,
cần lưu ý các yếu tố như: nhiệt độ môi trường thích hợp nhất là 16 - 18
o
C;
tuy nhiên ở nước ta khó đạt được điều kiện này, nhất là đối với các
tỉnh/thành phía Nam, nên ta phải chọn thời điểm có nhiệt độ môi trường

thích hợp nhất; vì vậy, chỉ nên phun khí dung ULV bắt đầu từ chiều tối trở đi
(khoảng 17 giờ), đó là khoảng thời gian mà nhiệt độ môi trường giảm xuống.
Thực tế cho thấy khi phun khí dung ULV vào ban ngày do nhiệt độ môi
trường cao làm bốc hơi nhanh chóng các hạt thuốc được phun ra, hiệu quả
diệt muỗi kém. Chỉ nên phun khi vận tốc gió < 10 km/giờ, nếu vận tốc gió lớn
hơn, các hạt thuốc bị mang đi xa ra ngoài khu vực cần phun; vận tốc gió quá
thấp hoặc đứng gió các đường phun phải gần hơn vì các hạt thuốc không phát
tán được; tốc độ xe chạy cũng là yếu tố quan trọng cần tính đến khi áp dụng
biện pháp phun khí dung ULV với máy lớn đặt trên xe, vận tốc thông thường
của xe phun từ 5 -15 km/giờ sao cho có đủ lượng hóa chất bao phủ một đơn vị
diện tích cần phun [5].
12
Qua nhiều vụ dịch cho thấy sau 20 - 30 ngày, mật độ muỗi Aedes
aegypti trở lại bình thường như trước khi phun khí dung ULV, do lăng quăng
trong các vật chứa nước tiếp tục nở ra. Vì thế, chỉ nên áp dụng phun khí
dung ULV để diệt khẩn cấp muỗi trưởng thành Aedes aegypti nhằm ngăn
chặn sự bùng phát của dịch; để nâng cao hiệu quả của biện pháp phun khí
dung ULV, cần phải đồng thời triển khai các biện pháp phối hợp khác như
vận động người dân diệt lăng quăng [3].
1.4.2.2. Xua muỗi
Ngoài các loại hoá chất sử dụng phun diệt muỗi trên, còn có biện pháp
sử dụng các chất có tác dụng kích thích để đuổi muỗi đi hoặc ngăn cản sự
tiếp xúc của muỗi đối với người. Các thuốc xua muỗi chủ yếu ở dưới dạng
nước, kem. Người ta còn dùng dưới dạng tẩm vào lưới để che mặt, đầu hoặc
tẩm vào áo quần. Ngày nay người ta nghiên cứu dạng bốc hơi hoặc dạng
khói với các chất Prethroide để xua và diệt muỗi khá tốt, có tác dụng bảo vệ
nhiều người như dùng nhang trừ muỗi.
Có nhiều loại hoá chất có tác dụng xua côn trùng, những hoá chất này
phải đạt những tiêu chuẩn sau: không độc cho người và gia súc, không có
mùi khó chịu hoặc không kích thích khi sử dụng, bay hơi chậm, rẻ tiền và dễ

sử dụng. Một số loại thuốc thông dụng: DEP, Pomade Sả là loại dễ sử dụng
nhất. Ngoài ra, có thể sử dụng vợt điện để diệt muỗi.
1.4.2.3. Động vật ăn bọ gậy
Ở Việt Nam, nghiên cứu cá ăn bọ gậy muỗi được áp dụng có kết quả
tốt trong phòng chống SXHD và Sốt rét nhiều năm nay. Nhiều công trình
nghiên cứu tác giả nhận thấy các loại cá sẵn có ở địa phương như cá sóc,
cá bảy màu, cá lia thia, cá rô phi…đều có thể sử dụng để diệt bọ gậy
Aedes aegypti. Nhất là cá rô phi dễ nhân nuôi và khả năng ăn bọ gậy rất
cao (1200 bọ gậy tuổi 1, 2 hoặc 300 bọ gậy tuổi 3, 4 trong vòng 24 giờ);
13
các nghiên cứu đều ghi nhận là các loại cá trên dùng nuôi để ăn bọ gậy,
không gây ảnh hưởng đến chất lượng nước trong các dụng cụ chứa nước
(DCCN) sinh hoạt [4].
Tuy nhiên biện pháp này chỉ áp dụng được ở các dụng cụ chứa nước
có thể tích lớn, còn các loại dụng cụ nhỏ và các vật phế thải lại không áp
dụng được trong khi số lượng các dụng cụ chứa nước nhỏ và các vật phế thải
như võ đồ hộp, chân chén, lọ hoa, lốp xe hỏng, vỏ dừa là nơi có thể trở
thành ổ chứa bọ gậy Aedes aegypti rất đáng ngại. Vì vậy mà chúng ta cần
phải áp dụng song song giữa thả cá ở dụng cụ chứa nước lớn với các biện
pháp vệ sinh môi trường làm giảm nguồn sinh sản của muỗi, thông qua giáo
dục Y tế và sự tham gia của cộng đồng [3].
Việc thả cá được xem như một biện pháp diệt lăng quăng hữu hiệu
trong một số trường hợp nguồn nước của ổ lăng quăng phù hợp hoặc ở
những nơi chưa được phép dùng hóa chất diệt lăng quăng. Dù rằng biện pháp
cá đã được dùng rộng khắp, nhưng chủ yếu dựa trên kinh nghiệm. Một số
thử nghiệm có giá trị khoa học đã chứng minh hiệu quả của biện pháp này
trong phòng chống sốt rét. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh sử dụng cá diệt
lăng quăng có hiệu quả chi phí thấp hơn biện pháp dùng hóa chất, tiết kiệm
và tiêu tốn ít tiền của hơn, đặc biệt khi có sự tham gia cộng đồng trong việc
duy trì nguồn cá, phân phối cá và bổ sung cá [10], [11].

1.4.2.4. Những biện pháp sinh học
Biện pháp sinh học là biện pháp sử dụng các kẻ thù tự nhiên, các tác
nhân gây bệnh, phương pháp triệt sản hay thay đổi cấu trúc di truyền (nhờ
vào một số hóa chất hay chất phóng xạ) để hạn chế và tiêu diệt các côn trùng
truyền bệnh. Biện pháp dùng tác nhân gây bệnh và di truyền đòi hỏi kỹ thuật
cao, hiện chưa được nghiên cứu và phổ biến ở Việt Nam.
- Lăng quăng của giống muỗi Toxorhynchites: được nhiều tác giả
nghiên cứu và cho thấy có khả năng ăn lăng quăng các loài muỗi khác rất tốt,
14
con trưởng thành của giống muỗi này có kích thước lớn (gấp 5 lần muỗi
Aedes aegypti) nhưng không hút máu người. Ở nước ta cũng đã phát hiện
muỗi Toxorhynchites ở Mỹ Tho, Trà Vinh, Lâm Đồng, Bình Dương. Viện
Pasteur Tp. HCM đã nuôi thành quần thể loài muỗi Toxorhynchites
splendens trong phòng thí nghiệm và xác định khả năng diệt lăng quăng của
loài muỗi này.
Bảng 1.1. Tỷ lệ lăng quăng Ae.aegypti bị tiêu diệt theo tuổi của lăng
quăng Toxorhynchites [4]
Tuổi của LQ
Toxorhynchites
Số lăng quăng
Toxo. theo dõi
Số lăng quăng Ae.aegypti bị tiêu diệt
trong 24 giờ bởi 1 LQ
Toxorhynchites
Trung bình Tối đa
I 64 8 15
II 58 10 20
III 36 20 30
IV 66 20 35
Trung bình 14,5 25

- Cá ăn lăng quăng: là biện pháp được thế giới sử dụng từ lâu và phổ
biến ở nhiều nơi. Năm 1905 ở Hawaii đã dùng cá Gambusia affinis để diệt
lăng quăng muỗi Culex quinquefasciatus rất có hiệu quả. Năm 1913 được áp
dụng tại Philippines, năm 1920 tại Tây ban Nha, Ý, Bắc Phi và nhiều nước ở
Châu Âu. Loài cá Poecilia reticulata (còn gọi là cá 7 màu) cũng được sử
dụng có hiệu quả ở Đài Loan, Thái Lan, Ý, Nga để diệt lăng quăng Culex
quinquefasciatus. Đây là loài cá nhỏ có rất nhiều ở các tỉnh phía nam Việt
Nam, cá đực có màu sắc khá đẹp, dễ sử dụng. Viện Pasteur Tp. HCM đã thử
nghiệm và cho thấy cá 7 màu có thể dùng để diệt lăng quăng Aedes aegypti
rất tốt bởi loài cá này có những ưu điểm sau:
15
+ Cá nhỏ (dưới 4 cm) nên có thể sống dễ dàng trong những dụng
cụ chứa nước sinh hoạt như lu, khạp, hồ… mà không làm ảnh hưởng đến
thành phần hóa học của nước.
+ Được nuôi rất phổ biến trong dân gian, sinh sản nhanh, dễ dàng
cung cấp.
+ Khả năng diệt lăng quăng cao, trung bình 1 con cá 3 tháng tuổi
có thể ăn 120 lăng quăng trong vòng 24 giờ.
Bảng 1.2. Tỷ lệ lăng quăng Ae.aegypti bị tiêu diệt theo tuổi cá
Tuổi cá
Số lăng quăng 1 con cá tiêu thụ trong 24 giờ
Tối thiểu Trung bình Tối đa
Mới đẻ - 1 tuần 25 (I) 35 45
1-2 tuần 25 (II) 40 50
2-3 tuần 25 (III) 40 50
3-4 tuần 25 (IV) 50 70
4-6 tuần 60 (IV) 65 70
Trên 3 tháng 60 (IV) 95 130
Ghi chú: Số trong ngoặc là tuổi lăng quăng
1.4.2.5. Mesocyclops

- Cấu tạo: Mesocyclops thuộc nhóm giáp xác, bộ chân mái chèo
(Copepods), gồm các phần:
+ Phần đầu: 01 đốt lớn đầu tiên, bao gồm: một mắt màu đỏ trước trán;
hai đôi ăng ten, đôi ăng ten 1 lớn (17 đốt) và đôi ăng ten 2 nhỏ (4 đốt).
+ Phần phụ miệng kiểu ăn thịt; gồm có hàm trên, mảnh hàm phụ, hàm
dưới và mảnh chân hàm.
+ Phần ngực: gồm các đốt 2, 3, 4, 5 mang các đôi chân bơi 1, 2, 3, 4.
+ Phần bụng: đốt 6 và 7 chập lại tạo thành đốt sinh dục, mang đôi
chân 5 có nhiều biến đổi và rất nhỏ so với chân 1 - 4; tiếp theo là các đốt
bụng 8, 9, 10.
+ Phần đuôi (Fuca): chia làm hai nhánh, mỗi nhánh có 4 tơ đuôi.
- Phát triển của Mesocyclops:
16
Mesocyclops có biến thái hoàn toàn, sự phát triển này tương đối đặc
biệt liên quan đến sự hình thành liên tục các đốt và phần phụ sau mỗi lần
lột xác:
+ Giai đoạn Nauplius (N): Trứng nở ra ấu trùng được gọi là Nauplius,
6 giai đoạn (từ N1 - N6), đã xuất hiện ăng ten 1, 2, phần phụ miệng, chân rất
nhỏ kích thước vài micromet.
+ Giai đoạn tiếp theo Copepodit (C): gồm 5 giai đoạn (từ C1 - C5); từ
Nauplius đến C1 là thời kỳ biến đổi hình thái mạnh mẽ nhất: phân đốt, tăng
kích thước, hoàn thiện các cấu trúc ăng ten, phần phụ miệng và đôi chân thứ
nhất. Hình thể của C1 - C5 hoàn toàn khác nhau, chúng ta có thể dựa vào số
đốt đẻ phân biệt các giai đoạn. Giới tính có thể nhận biết từ C3, nhưng chỉ
sau lần lột xác thứ 6 thì sự thành thục sinh dục mới được xác định rõ ràng.
- Sinh sản: Mesocyclops sinh sản hữu tính thông qua giao phối; con
đực nhỏ hơn con cái, có bó sinh tinh nằm ở đốt ngực 5 - 6, ăng ten cong về
phía trước; con cái có túi chứa tinh ở đốt sinh dục nên chỉ cần một lần giao
phối cũng đủ tinh trùng thụ tinh cho nhiều lứa trứng. Khả năng sinh sản của
Mesocyclops rất cao; trung bình một con cái có thể đẻ 25 - 50 con mỗi lứa và

lập lại sau 5 ngày; khả năng này tuỳ thuộc vào điều kiện sống như nhiệt độ,
thiên địch và đặc biệt là thức ăn; chính vì thế chúng có thể khôi phục quần
thể nhanh chóng trong điều kiện thuận lợi [31], [38].
Chu kỳ phát triển của Mesocyclops rất ngắn; trong điều kiện phòng thí
nghiệm, thời lượng này là 11,6 ngày; tuỳ theo điều kiện môi trường sống mà
Mesocyclops có thể sống từ 3 - 30 tuần.
Thức ăn của Mesocyclops là chất hữu cơ thối rữa, tảo, vi khuẩn, động
vật đơn bào và lăng quăng tuổi 1 của muỗi Aedes Aegypti; đặc biệt khi không
có đủ thức ăn, chúng có thể ăn lẫn nhau; đặc tính này cũng giúp
Mesocyclops tự điều chỉnh quần thể phù hợp với điều kiện thức ăn để tránh
diệt vong.
17
Hiện tượng “Nghỉ”: Trong điều kiện không thuận lợi, lạnh quá hoặc
khô hạn Mesocyclops có thể tồn tại bằng cách chui vào lớp cặn ở đáy khi ở
giai đoạn ấu trùng; đây là một đặc tính giúp cho Mesocyclops thích nghi và
tồn tại bền vững trong các môi trường mới [3].
- Các loài Mesocyclops địa phương và phân bố:
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đã tiến hành điều tra, thu thập
Mesocyclops ở 26 tỉnh/thành phố trong cả nước từ năm 1989 - 1999. Kết
quả định loại cho thấy ở Việt Nam có 10 loài Mesocyclops sống trong các
thủy vực tự nhiên và trong các dụng cụ chứa nước sinh hoạt như bể xây,
chum vại, giếng. Tại Kiên Giang có 2 loài là M. aspericornis và M.
thermocyclopoides. Tại Long An và Hậu Giang theo kết quả định loại sơ bộ
của Viện Vệ sinh dịch tễ đã tìm thấy 04 loài Mesocyclops (M. sspericornis,
M. thermocyclopoides, M. ogunnus, M. affinis) [3].
- Khả năng ăn bọ gậy Aedes aegypti: khả năng diệt bọ gậy Aedes
aegypti của Mesocyclops là rất cao so với kích thước và trọng lượng cơ thể
chúng; cả 6 loài Mesocyclops đều có khả năng ăn bọ gậy (từ 16 - 41 bọ gậy
mỗi ngày); khả năng diệt bọ gậy của Mesocyclops là rất lớn vì chúng không
những ăn mà còn cắn chất bọ gậy Aedes tuổi 1 khi đã no [3].

- Thu thập Mesocyclops: Dùng lưới tiêu chuẩn (mắt lưới <200
micromet) để thu thập Mesocyclops (cả con trưởng thành và ấu trùng); sau
đó chuyển Mesocyclops vào lọ thủy tinh hoặc hộp nhựa dung tích 200ml [3].
- Nhân nuôi và phóng thả: Chọn các bể lớn (dung tích trên 1000 lít),
nước tương đối sạch và có ít thủy sinh khác sống trong đó để làm bể nguồn
nhân nuôi Mesocyclops. Phóng thả Mesocyclops giống vào các bể nguồn,
khoảng 15 - 20 ngày sau kiểm tra xem Mesocyclops còn tồn tại và phát triển
bình thường không; sau khoảng 1 tháng có thể thu hoạch để phóng thả cho
các dụng cụ chứa nước khác.
18
Kiểm tra sự tồn tại và phát triển của Mesocyclops trong dụng cụ chứa
nước, do cộng tác viên y tế đảm nhiệm trong công tác thường kỳ hàng tháng;
khi phát hiện những dụng cụ chứa nước không có Mesocyclops cần được ghi
nhận và thả bổ sung ngay. Đánh giá hiệu quả của Mesocyclops dựa vào khả
năng sống sót và phát triển của quần thể Mesocyclops trong các dụng cụ
chứa nước, kết quả giám sát quần thể véc tơ và thái độ của cộng đồng.
Dựa vào các đặc điểm sự phân bố, ăn bọ gậy, sinh sản, sự phát triển
nhanh, dễ dàng và thích ứng trong mọi điều kiện. Mesocyclops đã được
tuyển chọn là phương pháp sinh học có hiệu quả trong phòng chống SXHD
hiện nay [3].
1.4.2.6. Biện pháp phòng chống kết hợp
Đây không phải là vấn đề mới trong việc phòng chống véc tơ truyền
bệnh nói chung và trong phòng chống SD/SXHD, nó đã được đưa ra từ thế
kỷ XIX khi vai trò truyền bệnh của véc tơ được khẳng định. Đặc biệt được
lưu ý khi biện pháp diệt véctơ bằng hóa chất tỏ ra kém hiệu quả bởi sự
kháng lại hóa chất của côn trùng và sự ô nhiễm môi trường ngày một tăng,
giá thành lại quá đắt. Vì vậy, việc áp dụng nhiều biện pháp cùng lúc đã
được đặt ra với mục đích làm giảm thiểu véc tơ truyền bệnh; các biện pháp
kết hợp liên hoàn sẽ làm bổ sung, hỗ trợ cho nhau để mang lại hiệu quả
mong muốn. Đối với véc tơ SD/SXHD, biện pháp kết hợp đã được áp dụng

thành công tại nhiều quốc gia như Singapore năm 1986, sử dụng các biện
pháp giảm nguồn sinh sản của muỗi là chủ yếu; thông qua giáo dục y tế để
cộng đồng có kiến thức phòng chống, kết hợp với bắt buộc của pháp luật.
Các biện pháp giáo dục y tế và áp dụng biện pháp sinh học dựa vào sự tham
gia của cộng đồng đã áp dụng ở một số quốc gia, khu vực đã làm giảm đáng
kể tỷ lệ nhà có muỗi Aedes aegypti từ 8% xuống 4% mà không cần hóa chất
để phun diệt [34].
19
Tại Việt Nam, biện pháp kết hợp trong phòng chống véc tơ truyền
bệnh SXHD đã áp dụng từ những năm đầu thập kỷ 70 và đã mang lại kết quả
cao trong phòng chống dịch bệnh và đang duy trì được kết quả phòng chống
dịch tốt. Một nghiên cứu ứng dụng sử dụng một số loại cá ăn bọ gậy của
Nguyễn Văn Chí và cộng sự đã đề xuất thả cá ăn bọ gậy ở các dụng cụ chứa
nước lớn, kết hợp với làm vệ sinh môi trường có sự giám sát của y tế mới
duy trì được hiệu quả diệt muỗi truyền bệnh SD/SXHD. Mặc dù vậy, hiện
nay các nghiên cứu đầy đủ về lĩnh vực này còn ít và chưa đầy đủ để đưa ra
các biện pháp hữu hiệu hoặc các mô hình chuẩn cho công tác phòng chống
véc tơ truyền bệnh nói chung và SXHD nói riêng.
1.4.3. Quản lý tổ chức mô hình phòng chống sốt Dengue và sốt xuất
huyết Dengue
- Các bước triển khai tại tỉnh/ huyện/ xã
Thành lập và tập huấn Ban chỉ đạo tuyến tỉnh, huyện, xã bao gồm:
chính quyền, y tế, giáo dục và các đoàn thể.
Triển khai tập huấn cho ban chỉ đạo tuyến huyện, xã.
Xây dựng mạng lưới cộng tác viên: Trạm Y tế xã phụ trách kỹ thuật
chuyên môn, tham mưu cho Ban chỉ đạo và hướng dẫn theo dõi các hoạt
động của cộng tác viên (CTV), đây là những người tình nguyện, có thời gian,
có uy tín và kiến thức. Toàn xã có khoảng 20-50 CTV, mỗi CTV phụ trách
50 đến 100 hộ gia đình tại các tổ.
Tập huấn cho mạng lưới cộng tác viên, giáo viên, học sinh nhà trường

về bệnh SXHD và các biện pháp phòng chống, loại trừ nơi sinh sản của
Vectơ [3].
- Các hoạt động của cộng đồng
Hàng tháng, CTV tiến hành các hoạt động tuyên truyền, tham gia trực
tiếp xử lý bọ gậy nếu có tại các gia đình mình phụ trách, công tác này được
thực hiện cuốn chiếu vào những ngày trong tháng.
20
Điều tra toàn bộ các dụng cụ chứa nước (DCCN) các hộ gia đình đề
xuất và đưa ra những biện pháp thích hợp.
Điều tra kiến thức – thái độ - hành vi của cộng đồng trong phòng
chống SXH.
Tổ chức định kỳ các chiến dịch tổng vệ sinh ở tổ, hộ gia đình, thu gom
các dụng cụ phế thải, súc rửa các dụng cụ chứa nước… từng quý hoặc vào
các thời điểm kết quả giám sát tại cộng đồng cho thấy các chỉ số côn trùng
tăng cao. Trong thời gian từ tháng 12/2008 đến tháng 12/2009, huyện Long
Phú đã tiến hành các đợt tổ chức chiến dịch dọn dẹp vệ sinh, thu gom dụng
cụ phế thải, súc rửa dụng cụ chứa nước để tiêu diệt nơi sinh sản và phát triển
bọ gậy trong phạm vi các xã điểm của huyện với sự tham gia của cán bộ
Trạm Y tế, cộng tác viên, các ban ngành, đoàn thể, vận động tuyên truyền
nhân dân trong xã cùng thực hiện tại gia đình mình.
Thường xuyên tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về SXHD và
huy động sự chủ động tham gia của cộng đồng trên hệ thống phương tiện
thông tin đại chúng như loa, đài, ti vi.
+ Phát hiện sớm các ca sốt trong cộng đồng
Các y, bác sĩ hành nghề y dược công lập hoặc tư nhân tại xã, các CTV
được tập huấn về các dấu hiệu nghi ngờ và chẩn đoán SXHD, khi CTV phát
hiện có bệnh nhân sốt nghi do SXHD trong cộng đồng phải báo cáo ngay cho
Trạm Y tế để xác minh ca bệnh, thu dung theo dõi điều trị hoặc giới thiệu lên
tuyến trên, các bà mẹ cũng được giáo dục để nhận biết sớm con mình bị
SXH và đem đến trạm y tế sớm nhất điều trị.

+ Giảm nguồn sinh sản của vec tơ
Bọ gậy Aedes có thể phát triển ở các loại nước sạch và nước giàu chất
hữu cơ, nên quản lý dụng cụ chứa nước để làm giảm nguồn sinh sản là biện
pháp tốt nhất trong phòng chống véc tơ.
21
+ Quản lý dụng cụ chứa nước
Dụng cụ chứa nước sinh hoạt (lu, khạp, xô, bể nước mưa, lọ hoa…):
dùng các biện pháp ngăn ngừa muỗi sinh đẻ (có nắp đậy kín, súc rửa thường
xuyên một đến hai lần trong tuần, thả cá…).
+ Loại trừ ổ bọ gậy
- Thu dọn các rác thải, các DCCN tự nhiên hoặc nhân tạo (chai, lọ, lu
vò bị vỡ, vỏ đồ hộp, lốp xe hỏng, vỏ dừa…): cho vào túi chuyển tới nơi thu
gom rác, hoặc tiêu huỷ bằng chôn hoặc đốt.
- Úp ngược hoặc súc rửa thường xuyên các DCCN trong gia đình sau
khi sử dụng như xô, chậu, máng nước gia cầm.
- Xử lý kẻ lá, các hốc cây có ứ đọng nước.
- Xử lý các bát kê chân chạng bằng cách cho dầu hoặc muối vào.
+ Chống muỗi đốt
Ngủ màn ban ngày, nhất là đối với trẻ nhỏ.
+ Diệt muỗi
- Dùng bình xịt, nhang diệt muỗi, vợt muỗi, hun khói bằng đốt vỏ
quýt, dừa hoặc lá cây.
Các biện pháp khác có thể được áp dụng trong một số trường hợp như
lọc nước loại bỏ bọ gậy và lăng quăng trong các DCCN, dội nước sôi vào
đáy và thành lu để diệt bọ gậy và trứng khi lượng nước còn ít. Đối với bẫy
kiến, lọ hoa, chậu cây cảnh có thể áp dụng các biện pháp sử dụng dầu nhớt
hoặc muối ăn cho vào bẫy kiến, thay nước ít nhất 1 lần trong tuần, cọ rửa
thành của DCCN để loại bỏ trứng của Aedes [3], [10], [11].
22
1.5. TÌNH HÌNH DỊCH TỄ HỌC CỦA BỆNH SỐT XUẤT

HUYẾT DENGUE TRÊN TOÀN CẦU
1.5.1. Tình hình dịch tễ học của bệnh sốt xuất huyết Dengue trên thế giới
Tổng kết tình hình SXHD trên toàn thế giới hiện bệnh lưu hành trên
100 nước thuộc các khu vực có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới vùng Đông
Nam Á và Tây Thái Bình Dương; có khoảng 2,5 tỷ người sống trong vùng
nguy cơ; hàng năm có hơn 50 triệu người mắc, 500.000 trường hợp SXHD
phải nhập viện và 20.000 - 25.000 trường hợp tử vong, đặc biệt là trẻ em
[45], [84].
Những khu vực có khí hậu nhiệt đới đều là những vùng có nguy cơ
cao của dịch SXHD với cả 4 type vi rút. Trong thông báo của Tổ chức Y tế
Thế giới, SD và SXHD tăng đáng kể trong 5 năm đầu của thập niên của thế
kỷ này và đã phát hiện 925.896 ca gần gấp 2 lần so với cùng kỳ 1990-1999
(479.848 ca). Năm 2003 SXHD là trở thành căn bệnh nghiêm trọng nhất cho
người do vi rút Arbo gây nên, với hơn một nửa dân số thế giới sống trong
vùng nguy cơ.
Đại dịch SXHD bắt đầu từ những năm cuối thế kỷ 20 với số mắc hàng
năm khoảng 10 triệu người, trong đó có hơn 90% trường hợp mắc là trẻ em
dưới 15 tuổi. Tỷ lệ chết trung bình khoảng 5% với khoảng 240.000 trường
hợp mỗi năm [1].
Theo Tổ chức Y tế thế giới khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, tình
hình sốt xuất huyết năm 2007 ở các nước trên thế giới và trong khu vực diễn
biến phức tạp [13].
23
Bảng 1.3. Tình hình SXH các nước trong khu vực Châu Á- Thái Bình Dương
9 tháng đầu năm 2007
Nước,
vùng
lãnh thổ
Mắc Chết
M/100.00

0
dân
Chết/mắc
So sánh với
cùng kỳ năm 2006
Inđônêsia 68.636 748 28,40 1,08% Số mắc tăng gấp 3 lần
Thái Lan 21.251 14 32,50 0,08% Số mắc tăng 36%
Malaysia 31.279 67 130,60 0,20% Số mắc tăng 48%
Singapore 3.597 3 81,20 0,08% Số mắc tăng 89%
Campuchia 30.431 327 223,60 1,07% Số mắc tăng gấp 3 lần
Lào 2.270 4 36,50 0,18% Không có so sánh
Philippines 7.361 73 8,40 0,99% Không có so sánh
Việt Nam 75.233 64 90,05 0,09%
Số mắc tăng 51% chết
tăng 45%
(Nguồn: Báo cáo của Dự án phòng chống SXHD Quốc gia 2007) [13]
1.5.2. Tình hình dịch tễ học của bệnh sốt xuất huyết ở Việt Nam
Dịch SXHD bùng nổ lớn được ghi nhận lần đầu tiên ở miền Bắc Việt
Nam vào năm 1959; từ đó bệnh đã trở thành dịch lưu hành địa phương trong
cả nước. Trong những năm gần đây, số mắc trung bình mỗi năm được thông
báo là trên 100.000 và chết trên 200 trường hợp; với những thay đổi về xã
hội và môi trường sống, ở nhiều nơi tần số mắc bệnh có chiều hướng tăng
lên nhất là ở miền Trung và miền Nam nước ta [16].
Bệnh SXHD lưu hành rộng rãi ở vùng châu thổ sông Hồng (miền
Bắc), sông Cửu Long (miền Nam) và dọc theo bờ biển miền Trung; bệnh
không chỉ xuất hiện ở đô thị mà cả vùng nông thôn, nơi có muỗi véc tơ
truyền bệnh. Trong những năm gần đây chỉ số mắc bệnh cao nhất được thông
báo ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển miền Trung;
24
tuy nhiên những số liệu mới đây đã chỉ ra rằng bệnh đã phát triển đến vùng

cao nguyên Trung bộ, nơi đang phát triển đô thị mới với điều kiện cung cấp
nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường kém. Dịch SXHD bùng nổ theo chu kỳ
với khoảng cách trung bình từ 4 -5 năm và vụ dịch lớn mới xảy ra năm 1998,
có số mắc và chết cao (mắc 234.920, chết 377) [16].
Bảng 1.4. Tỷ lệ mắc/100.000 dân và tỷ lệ chết/mắc SXHD ở Việt Nam
Năm Số mắc Tỷ lệ/100.000 Số chết Tỷ lệ chết/mắc
2004 78.752 92,61 114 0,14%
2005 60.982 70,39 53 0,09%
2006 77.808 88,60 68 0,09%
2007 104.465 125,03 88 0,08%
2008 93.516 107,80 95 0,10%
2009 105.370 122,80 87 0,08%
6 tháng 2010
22.930 26,70 22 0,10%
(Nguồn: Báo cáo của Dự án phòng chống SXHD Quốc gia) [11].
Trẻ em dễ bị nhiễm hơn người lớn; ở trẻ em nhiễm vi rút Dengue
thường biểu hiện nhẹ, trong khi ở người lớn thường gây ra nhiều triệu chứng,
đặc biệt là xuất huyết tiêu hóa nặng. Từ năm 2000 - 2005 tỷ lệ người lớn
(> 15 tuổi) chiếm khoảng 30% tổng số mắc hàng năm [5].
Bảng 1.5. Tỷ lệ mắc/100.000 dân và tỷ lệ chết/mắc SXHD Khu vực phía Nam
Năm Số mắc Tỷ lệ/100.000 Số chết Tỷ lệ chết/mắc
2004 66.183 207,44 103 0,16%
25
2005 44.277 153,10 47 0,11%
2006 65.706 201,10 62 0,09%
2007 87.950 263,60 81 0,09%
2008 82.592 248,00 90 0,11%
2009 73.890 214,50 74 0,10%
6 tháng 2010
14.464 41,99 17 0,12%

(Nguồn: Báo cáo của Dự án phòng chống SXHD khu vực phía Nam
2004 - 6/2010) [5], [6], [7], [8], [9], [10], [11].
1.5.3 Tình hình SXHD của tỉnh Sóc Trăng và huyện Long Phú
1.5.3.1. Tình hình SXHD của tỉnh Sóc Trăng
Dân số tỉnh Sóc Trăng là 1.308.100 người, dân tộc Kinh chiếm 65,1%,
Khmer chiếm 28,92%, Hoa chiếm 5,98%.
Sóc Trăng gồm 9 huyện và 01 thành phố trực thuộc tỉnh, là một tỉnh
của đồng bằng sông Cửu Long, điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, nguồn
cung cấp nước sạch chưa đảm bảo cho nhân dân nên có thói quen tích trữ
nước bằng dụng cụ chứa nước (lu, khạp, thùng…), điều kiện vệ sinh môi
trường còn nhiều bất cập đó là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh phát sinh và
phát triển.
Năm 2004 bệnh SXHD đã lưu hành tản phát ở 9 huyện/thị có dịch nhỏ
và trung bình, trong đó có 72/105 xã, phường có dịch.
Năm 2008 có 7 huyện và 01 thành phố có dịch/ 8 huyện và 01 thành
phố trong đó có 28/105 xã, phường có dịch, số liệu toàn tỉnh năm 2008 về
SXHD: số mắc: 4640 ca; tử vong: 02 ca. Qua đó bệnh SXHD của năm 2009
với số ca mắc 4622; tử vong 07. Hiện tại 6 tháng đầu năm 2010 tỉnh Sóc
Trăng bệnh SXHD với số ca mắc 931; tử vong 0.
Bảng 1.6. Tình hình SXHD tỉnh Sóc Trăng từ 2004 - 6/2010 [43], [44]

×