Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Trị viêm loét đại trực tràng chảy máu - Thuốc gì? pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.01 KB, 8 trang )

Trị viêm loét đại trực tràng chảy
máu - Thuốc gì?

Thông thường trong viêm loét đại trực tràng chảy
máu các thuốc thường được dùng phối hợp là
corticoid, sulfasalazin và các dẫn chất của nó,
azathioprin, cyclosporin. Tuy nhiên, tùy theo tình
trạng, giai đoạn của bệnh, toàn trạng của bệnh nhân
mà bác sĩ sẽ chỉ định dùng thuốc cụ thể.
Corticoid: Đây là thuốc có hiệu
quả trong điều trị các đợt cấp
nặng hoặc vừa nhất là thể viêm
đại tràng toàn bộ hoặc đại tràng trái.
Trong đợt tiến triển mức độ nặng của viêm loét đại trực
tràng chảy máu có thể dùng corticoid đường tĩnh mạch
liều dùng và thời gian tùy thuộc vào đáp ứng của bệnh
nhân, nếu không đáp ứng thì đặt vấn đề cắt đại tràng.
Trong đợt tiến triển mức độ vừa và nhẹ có thể dùng
corticoid đường uống, liều sử dụng tuỳ theo tình trạng
bệnh lý và cân nặng của bệnh nhân.
Nếu bệnh nhân dùng corticoid trên 3 tháng mà đáp ứng
không tốt thì đặt vấn đề cắt bỏ đại tràng.
Tác dụng phụ của thuốc đặc biệt khi dùng liều cao kéo
dài: phù, rối loạn nước và điện giải, teo cơ, loãng xương,
loét hoặc chảy máu tiêu hoá, kinh nguyệt không đều, rậm
lông.
Sulfasalazin và các dẫn chất: Nhóm thuốc này thường có
hiệu quả trong đợt tiến triển nhẹ hoặc trung bình, trong
viêm đại tràng trái hoặc đại tràng sigma - trực tràng. Và có
thể dùng phối hợp với corticoid để cho hiệu quả điều trị
cao hơn. Tác dụng phụ thường gặp là chậm tiêu, buồn


nôn, nhức đầu, ngoài ra có một số tác dụng phụ hiếm gặp
hơn nhưng nặng hơn đó là nổi ban, giảm bạch cầu hạt,
thiếu máu huyết tán, bệnh phổi kẽ.
Một số thuốc khác
Azathioprin (imuran): Có hiệu quả trong một số trường
hợp nặng, khi dùng thuốc cần chú ý bạch cầu hạt, khi
lượng bạch cầu hạt trong máu ngoại vi < 1,5 G/L thì không
dùng. Thuốc chống chỉ định đối với bệnh nhân có tổn
thương ở gan, người có tiền sử bệnh gan và phụ nữ có
thai.
Cyclosporin: Mới được đưa vào sử dụng với hiệu quả khá
tốt. Tuy nhiên, khi dùng cần chú ý đến tác dụng phụ của
thuốc như tăng huyết áp, rối loạn chức năng thận, rối loạn
chức năng gan, rối loạn tiêu hoá, đôi khi có nhức đầu, ban
dị ứng, thiếu máu nhẹ.
Ngoài việc sử dụng thuốc cũng cần chú ý đến chế độ ăn
uống và sinh hoạt của bệnh nhân, động viên bệnh nhân
bằng các liệu pháp tâm lý, trong trường hợp thiếu hụt men
lactase thì không cho bệnh nhân dùng sữa, trong đợt tiến
triển khẩu phần ăn cần hạn chế chất xơ. Không dùng các
chế phẩm của thuốc phiện, thuốc chống tiêu chảy và
thuốc kháng cholin vì có thể gây ra phình đại tràng, đặc
biệt trong trường hợp có biến chứng phình đại tràng
nhiễm độc bệnh nhân phải được theo dõi và điều trị trong
trung tâm hồi sức tích cực.
Viêm loét đại trực tràng cháy máu cần được theo dõi
thường xuyên 6 tháng 1 lần bằng soi đại tràng và sinh
thiết nhiều mảnh ở đại tràng và đại tràng sigma để kịp thời
phát hiện giai đoạn loạn sản nặng hoặc là giai đoạn đầu
của tiến triển ung thư. Một số nghiên cứu gần đây cho

thấy, bệnh nhân có dùng thêm acid folic với liều 2g/ngày
khi sử dụng salicylazo - sulfapyridin sẽ làm giảm tỷ lệ loạn
sản đại tràng, từ đó làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng.

×