Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Rối loạn lo âu potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.96 KB, 8 trang )

Rối loạn lo âu
Lo âu quá mức là bệnh lý cần chữa trị sớm và tốn
nhiều thời gian, điểm đặc biệt là tình trạng này hay
xảy ra ở những người trẻ (trong độ tuổi từ 20–30).
Nữ mắc bệnh gấp đôi nam

Nam bệnh nhân H.T (40 tuổi, một
công chức ở TP.HCM) đến Bệnh
viện Tâm thần T.Ư 2 (Biên Hòa, Đồng Nai) khám bệnh với
triệu chứng hay hồi hộp quá mức, bồn chồn, lo lắng, bứt
rứt, đau đầu. Ngoài ra anh còn có biểu hiện mất ngủ, tăng
nhịp tim và mệt mỏi. Các triệu chứng này xuất hiện cách
đây khoảng 6 tháng và ngày càng nặng hơn. Gần đây anh
đã dùng đến rượu để giải tỏa những lo lắng và ổn định
giấc ngủ, tuy nhiên càng uống rượu, hôm sau anh càng
khó khăn hơn. Anh T. được chẩn đoán mắc chứng rối
loạn lo âu.
Ảnh: shutterstock
Rối loạn lo âu là bệnh lý thường gặp với tỷ lệ mắc bệnh
chung trong 1 năm khoảng 3%, và tỷ lệ bệnh chung suốt
đời là 5%. Phái nữ mắc bệnh này nhiều gấp 2 lần nam
giới, tuổi khởi bệnh thường khó xác định, nhưng bệnh
nhân hay đi khám bệnh trong độ tuổi từ 20–30. Tuy nhiên,
chỉ có 1/3 đến khám và điều trị chuyên khoa tâm thần, số
còn lại điều trị tại các bác sĩ đa khoa, tim mạch, hô hấp,
tiêu hóa…
Đặc điểm lâm sàng
Người bệnh có cảm giác lo âu hoặc lo âu quá mức về một
sự kiện hoặc một hoạt động nào đó, xảy ra phần lớn thời
gian trong ít nhất 6 tháng. Những vấn đề lo âu đó xuất
hiện mà người bệnh không thể hoặc khó kiểm soát nó.


Các triệu chứng chủ yếu gồm: căng thẳng vận động, tăng
hoạt động thần kinh tự trị và sự cảnh giác về nhận thức.
Lo âu thường quá mức và ảnh hưởng đến các lĩnh vực
đời sống của người bệnh. Sự căng thẳng vận động biểu
hiện bằng trạng thái bị run, bứt rứt và đau đầu. Sự tăng
thần kinh tự trị thường biểu hiện bằng thở dốc, vã mồ hôi,
hồi hộp và các triệu chứng dạ dày, đường ruột. Sự cảnh
giác nhận thức thể hiện qua trạng thái dễ bực tức và dễ
giật mình. Ngoài ra, bệnh lý rối loạn lo âu còn khiến người
bệnh dễ mệt mỏi, khó tập trung chú ý, hay bực tức, rối
loạn giấc ngủ… Những rối loạn trên gây khó chịu rõ rệt về
lâm sàng hoặc ảnh hưởng đến hoạt động xã hội, nghề
nghiệp và các lĩnh vực quan trọng khác. Rối loạn này
không do các tác động sinh lý trực tiếp của một chất hoặc
một bệnh cơ thể và không xảy ra chỉ trong một rối loạn khí
sắc, một rối loạn loạn thần hoặc một rối loạn phát triển lan
tỏa. Bệnh nhân rối loạn lo âu thường đến khám bác sĩ đa
khoa bởi các triệu chứng cơ thể.
Chữa trị
Điều trị rối loạn lo âu chủ yếu là kết hợp các phương pháp
tâm lý, hóa dược và nâng đỡ. Việc điều trị đòi hỏi nhiều
thời gian dù với bác sĩ chuyên khoa tâm thần và nhà tâm
lý lâm sàng. Điều trị tâm lý chủ yếu là liệu pháp nhận thức
hành vi và nâng đỡ. Cách tiếp cận nhận thức giúp giải
quyết các lệch lạc về nhận thức của bệnh nhân và cách
tiếp cận hành vi nhằm cải thiện triệu chứng của cơ thể. Kỹ
thuật chính là thư giãn và phản hồi sinh học. Liệu pháp
nâng đỡ bao gồm giải thích hợp lý, trấn an và tạo sự thoải
mái cho người bệnh. Hầu hết bệnh nhân cảm thấy giảm lo
âu khi được tạo cơ hội để thảo luận về các khó khăn của

họ với nhà trị liệu. Sự giảm triệu chứng thường giúp bệnh
nhân hoạt động hiệu quả hơn trong công việc hàng ngày
và trong các quan hệ, những tưởng thưởng và khích lệ
này bản thân chúng cũng có tác dụng trị liệu.
Khoảng 25% bệnh nhân tái phát trong tháng đầu sau khi
ngưng điều trị và 60-80% tái phát trong năm tiếp theo. Tuy
nhiên, các nghiên cứu cho thấy, nếu việc điều trị tâm lý
được kéo dài cả sau khi ngưng điều trị hóa dược thì tỷ lệ
tái phát sẽ giảm rất nhiều.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×