Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Lupus ban đỏ hệ thống: Thuốc và cách dùng docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.32 KB, 12 trang )

Lupus ban đỏ hệ thống: Thuốc và
cách dùng

Bệnh Lupus ban đỏ hệ thống có khuynh hướng gia
tăng. Hiện nay có nhiều thuốc chữa nhưng lại khó
dùng. Vì vậy, người bệnh cần đi khám bệnh để có chỉ
định dùng thuốc và cách dùng phù hợp, tránh tự ý sử
dụng
Lupus ban đỏ hệ thống là bệnh tự
miễn. Kháng nguyên được hình
thành tại chỗ do nhiều nguyên
nhân (chấn thương, tiếp xúc với
hóa chất, vi khuẩn, thuốc, chất
độc, tia xạ ). Chúng làm cho cơ
thể tự sinh ra kháng thể chống lại chính các tế bào của cơ
thể gây hại cho nhiều cơ quan, tổ chức. Bệnh thường mắc
ở lứa tuổi 10 - 40, nhiều nhất ở tuổi 20 - 40 và ngày càng
có khuynh hướng tăng. Đây là bệnh mạn tính, đan xen
giữa đợt bùng phát và đợt lui bệnh. Thuốc không chữa

Ban cánh bướm - M
ột
tri
ệu chứng ở bệnh
Lupus ban đỏ.
khỏi, chỉ làm giảm triệu chứng, ổn định bệnh. Từ khi có
các thuốc ức chế miễn dịch tiên lượng bệnh đáp ứng với
thuốc có khả quan hơn, nâng cao chất lượng, kéo dài
thêm cuộc sống 10 - 20 năm so với trước. Do bệnh gây
tác hại trên nhiều cơ quan tổ chức, nên phải dùng nhiều
loại thuốc. Hơn nữa, trạng thái và mức độ bệnh khác nhau


nên khó có phác đồ điều trị thống nhất. Có thể dùng một,
hai, ba, thậm chí bốn thuốc với liều lượng thay đổi cho
phù hợp.
Thuốc ức chế miễn dịch
Cyclophosphamid (endoxan) làm giảm triệu chứng protein
niệu, giảm creatinin máu, cải thiện các triệu chứng về
thận. Thường dùng với liều thấp (100mg/ngày) khác với
khi dùng chống thải loại (trong ghép thận), lúc bệnh tương
đối ổn định thì chuyển sang dùng loại nhẹ ít độc hơn
(azathiopin) sẽ giảm bớt các tác dụng phụ do thuốc gây
ra.
Cyclosporin A ức chế chọn lọc trên tế bào lympho T, cải
thiện tổn thương nội tạng, đặc biệt là thận. Thường dùng
liều thấp (2-4mg/ngày) khác với khi dùng chống thải loại
(trong ghép thận) nên giảm bớt độc tính do thuốc gây ra
với người bệnh.
Methotrexat làm giảm các tổn thương ở khớp, da, niêm
mạc kể các trường hợp dùng glucocorticoid, chống sốt rét
chloroquin không đáp ứng.
Mecophenolatmofetyl làm giảm hầu hết các triệu chứng
nặng, đặc biệt là các tổn thương ở thận, có tác dụng ngay
khi các thuốc khác không đáp ứng. Tác dụng phụ rất ít và
nhẹ.
Thalidomid có hiệu quả khi bị các tổn thương da dai dẳng
mà các thuốc khác không đáp ứng.
Dapson (diaminodiphenylsulfon) có hiệu quả tốt với các
tổn thương da, loét miệng, giảm tiểu cầu, bạch cầu. Chỉ
dùng cho người có tổn thương da và máu khi không đáp
ứng với các thuốc khác. Liều thường dùng 25 -100mg.
Các thuốc ức chế miễn dịch làm cho người bệnh giảm

sức đề kháng, dễ nhiễm khuẩn. Theo cơ chế, chúng ức
chế sự tăng miễn dịch (có hại) nên được coi như thuốc
đặc trị nhưng lại không phải là chọn lựa đầu tiên mà chỉ
dùng khi các thuốc khác không hoặc đáp ứng kém (do tác
dụng phụ nói trên và một số độc tính khác). Chọn lựa
thuốc căn cứ vào hiệu quả cải thiện triệu chứng với từng
cơ quan tổ chức, đồng thời căn cứ vào độ độc (chọn thứ
có hiệu quả, ít độc), lúc dùng cần chú ý làm giảm bớt độ
độc bằng cách dùng liều vừa đủ, khi bệnh ổn định,
chuyển sang dùng một loại nhẹ, ít độc hơn
Glucocorticoid
Glucocorticoid còn làm giảm lympho bào, giảm bạch cầu
đơn nhân, giảm sự đáp ứng của lympho bào T với
interleukin-1, ức chế tăng sinh lympho bào B, làm giảm
sinh ra gbulobin miễn dịch (IgG), tạo ra nhân tố hoại tử
khối u cytokin, ức chế interferon và TNF, kết quả cuối
cùng là giảm viêm và ức chế miễn dịch.
Tùy tình trạng bệnh mà thay đổi liều, dạng dùng hay cách
phối hợp thuốc. Trường hợp nhẹ, có thể dùng một mình
glucocorticoid hay phối hợp glucocorticoid với thuốc chống
sốt rét chloroquin hoặc thuốc giảm đau, kháng viêm. Khi
dùng phối hợp liều glucocorticoid bắt đầu với liều thấp.
Mục đích làm giảm các triệu chứng nhẹ và ngăn đợt bùng
phát cấp tính. Trong trường hợp bệnh vừa, dùng cách
phối hợp này nhưng liều glucocorticoid cao hơn. Trường
hợp nặng, phối hợp thêm thuốc ức chế miễn dịch nhưng
liều glucocorticoid phải giảm.
Khi có tổn thương cơ quan nội tạng nặng, có thể dùng
glucocorticoid truyền tĩnh mạch liều cao trong thời gian
ngắn. Cách dùng này làm giảm lympho bào rõ rệt hơn

(giảm tới 75%, kéo dài hơn tới 48 giờ); giảm sự sinh sản
và ức chế sự hoạt hóa lympho bào hơn; làm giảm kéo dài
glubolin miễn dịch (IgG) và các phức miễn dịch khác
nên cho hiệu quả tức thời và cao hơn khi dùng dạng uống.
Do thuốc gây ức chế miễn dịch nên làm cho người bệnh
giảm sức đề kháng, dễ bị nhiễm khuẩn, biến chứng nhiễm
khuẩn nặng có thể tử vong. Có thể gây động kinh, cơn
trầm cảm, loạn thần kinh cấp, đau khớp cơ, viêm tụy, loét
và xuất huyết đường tiêu hóa Chỉ dùng phương pháp
này khi bệnh gây các tổn thương nội tạng nặng (phổi,
thận, tim mạch, máu ). Ví dụ như tràn dịch màng phổi,
tràn dịch màng tim
Thuốc chống sốt rét chloroquin: Có tác dụng làm giảm
tổn thương khớp, da (sau 3 tuần hay vài tháng). Thường
phối hợp với corticoid, hay kháng viêm không steroid, có
khi kết hợp thêm thuốc ức chế miễn dịch. Người bệnh
thường phải dùng thuốc kéo dài nên chọn dạng
hydrochloroquin ít độc hơn.
Thuốc kháng viêm không steroid: Có tác dụng làm giảm
triệu chứng viêm, đau. Thường kết hợp với corticoid hoặc
có khi kết hợp thêm thuốc chế miễn dịch. Khi kết hợp hiệu
quả kháng viêm, giảm đau đạt được tốt hơn.
Hiện trên thị trường có nhiều thuốc trong đó có các thuốc
mới làm cho kết quả điều trị Lupus ban đỏ hệ thống tiến
bộ nhiều so với trước. Nhưng do thuốc có tính độc, khó
dùng trên cơ địa khá phức tạp nên phải thận trọng. Dù là
loại thuốc phải kê đơn hay không kê đơn (OTC), dạng
uống hay dạng tiêm, nhất thiết phải có sư chỉ định của
thầy thuốc.


×