Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa đàng phương Ðông – Phần 3 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.11 KB, 21 trang )

Nguồn gốc dân tộc Việt Nam và Ðịa
đàng phương Ðông – Phần 3

9- Nhìn lại nguồn gốc dân Việt
Khi xét về nguồn gốc dân Việt, chúng ta cần tổng hợp các nguồn tài liệu khác
nhau, trong đó có khối lượng đồ sộ về khảo cổ tích tụ từ thời Pháp thuộc. Các nhà
khảo cổ Việt Nam hiện đại đã đóng góp phần rất quan trọng trong việc khai quật,
sắp xếp, phân tích các di tích văn hoá cổ trên đất Việt Nam. Tuy nhiên di truyền
học (có lẽ vì quá mới mẻ ? và nhiều tốn kém ?) gần như vắng mặt trong những
nghiên cứu này. Di truyền học là một ngành không thể thiếu trong việc nghiên cứu
gốc gác chủng tộc. Thật vậy, văn hoá có thể vay mượn, và ngôn ngữ phần lớn tuy
có liên hệ với nguồn gốc, nhưng những dây liên hệ rất phức tạp; khi có sự hợp
chủng, ngôn ngữ không những chịu ảnh hưởng của sự lai giống, mà còn tuỳ vào
những yếu tố như sức mạnh tương đối các giống dân, số đông và khả năng chuyên
chở rõ ý tưởng.
Trong tình trạng thiếu hiếm dữ kiện di truyền học về dân Việt các miền và về
những sắc tộc có liên hệ gốc gác với người Việt như Tày, Mường, Ba-Na, Gia-
Rai , "Địa đàng ở phương Đông" là một nguồn tư liệu rất quý. Tính chất cổ xưa
của di tố các dân tộc toàn vùng Đông Nam Á do Oppenheimer nêu ra, kết hợp với
kết quả nghiên cứu sọ cổ, đưa đến kết luận là "người hiện- đại" đến từ Phi châu đã
sống trong vùng Đông Nam Á từ sáu mươi ngàn năm trước cho đến thời đá mới
(khoảng 8 ngàn năm trước). Họ là người thuộc chủng Australoid- Melanesian cổ.
Tuy có những thay đổi đặc điểm nhân chủng theo khí hậu và môi trường (qua sự
lựa chọn, đột biến tự nhiên của genes), cư dân trên đất Việt trước thời đá mới
(thuộc các văn hoá Sơn Vi, Hoà Bình, Bắc Sơn) là những người thuộc chủng nói
trên, cũng như các nhóm dân khác sống trong cùng vùng lúc ấy và cùng khí hậu (ở
Ần độ, Miến Điện -Myanmar-, Thái Lan, Cao Miên -Kampuchia ). Họ có đại
diện cùng chủng ở New Guinea, nơi cư dân cổ sống trong những vùng hẻo lánh, ít
tiếp xúc với các chủng khác. Họ có đặc điểm như mũi to, tóc quăn, mặt rộng, cung
mày rộng, vùng chân răng (prognath ) vẩu, đầu to dài, da ngâm đen.
Xuất phát từ cùng một nhóm người với cùng ngôn ngữ gốc Austric, nhưng sống


trên một vùng quá lớn, những nhóm cư dân Australoid này tất nhiên có những
ngôn ngữ khác nhau. Từ tiếng nói chung lúc đầu, hai nhóm tiếng chính thành hình:
nhóm nói tiếng Nam Đảo (austronesian, như tiếng Indonesia và thổ ngữ các đảo
Thái Bình Dương), và tiếng Nam Á (austroasiatic) là tiếng nói của người Việt
Nam, Munda, Khmer, Môn và một số thổ dân Thái Lan, Mã Lai. Phương pháp
ngôn ngữ tỉ hiệu không chỉ xét những tiếng giống nhau trong những ngôn ngữ, mà
còn xét giọng nói, cấu trúc và thứ tự từ ngữ trong câu. Bởi thế mà tiếng Việt được
xếp vào nhóm tiếng Nam Á. Tiếng Nam Á là tiếng đơn lập (mà đơn vị cơ bản là
một âm tiết có nghĩa) không "dấu" (atonal, như tiếng Khmer), nhưng do ảnh
hưởng tiếng Tàu, tiếng Việt trở thành có "dấu" (tonal).
Benedict, và sau này Blust, Oppenheimer đều đồng ý rằng tiếng Austric cũng là
ngôn ngữ gốc của nhóm thứ ba, là nhóm nói tiếng Thái-Kadai, trước đây sống
miền cực Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa, về sau họ di cư một phần xuống Lào
và Thái Lan. Thật ra tiếng Việt Nam, tuy được xếp vào nhánh Nam Á, lại có nhiều
từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo, và rất nhiều từ Hán Việt. Từ Hán chỉ thâm nhập vào
Việt Nam kể từ thời Hán Vũ Đế về sau. Trái lại các từ thuộc ngôn ngữ Nam Đảo
có gốc trước đó. Bình Nguyên Lộc phân tích kĩ về tiếng Việt dân gian gốc "Mã
Lai". Tiếng "Mã Lai" cổ của ông bao gồm tiếng nói thuộc hai nhánh chính Nam Á
và Nam Đảo mà ông gọi là "Mã Lai đợt I" và "Mã Lai đợt II".
Vấn đề cần giải thích là cách nào tiếng Nam Đảo đã ảnh hưởng nhiều đến tiếng
nói người Việt cổ (Nam Á). Những từ ngữ "Nam Đảo" trong tiếng Việt có thể do
vay mượn, hoặc do quan hệ gốc gác (di truyền).
Vay mượn xảy ra khi hai nhóm dân sống chung đụng trong một thời gian. Nhưng
dân Việt chỉ sống chung đụng nhiều với dân Chàm nói tiếng Nam Đảo từ khoảng
ngàn năm nay, khi nước Việt bành trướng xuống phương nam. Nước Lâm Ầp nói
tiếng Chàm (sau trở thành Chiêm Thành) được sử Tàu nói đến ngay từ đầu công
nguyên như nước giáp ranh với nước Việt, lúc đó là quận Giao Chỉ của Tàu. Cư
dân văn hóa Sa Huỳnh (và tiền Sa Huỳnh) nói tiếng Nam Đảo có mặt từ lâu trước
công nguyên trên bờ biển miền Trung Việt Nam hẳn đã là một trong những văn
hoá gốc của những vương quốc Chàm này.

Văn hóa Sa Huỳnh là một văn hoá rực rỡ của dân nói tiếng Nam Đảo vào thiên kỷ
thứ nhất trước công nguyên, với những đồ sắt tiến bộ trước cả văn minh Đông
Sơn, với nhiều đồ trang sức đẹp đặc biệt bằng đá và bằng thuỷ tinh (bông tai bốn
hoặc ba mấu, bông tai tạc hình đầu thú ở hai đầu, chuỗi đeo ), và tục táng người
trong mộ vò. Căn cứ vào số lượng và kĩ thuật làm đồ thuỷ tinh, tôi cho là cư dân
Sa Huỳnh đã làm ra thuỷ tinh đầu tiên trong vùng Đông Nam Á (không nơi nào
khác có di tích thuỷ tinh vào cùng thời); và có kĩ thuật cao đến độ chế được đồ
trang sức khá cầu kì : ngoài hạt chuỗi các loại, người ta tìm được một khuyên tai
hai đầu thú bằng thủy tinh đang làm dở dang. Như vậy Sa Huỳnh không kém vùng
Cận Đông, là nơi làm thủy tinh sớm nhất thế giới, vào thế kỷ 7 trước công nguyên.
Trung Hoa mãi đến sau công nguyên mới bắt đầu sản xuất đồ thuỷ tinh, còn trước
đó họ nhập từ nơi khác. Sách cổ Trung Hoa cho biết con cháu cư dân Sa Huỳnh,
người nước Lâm Ầp, làm được bát thuỷ tinh, là đồ quý, đem cống vua Trung Hoa
ở những thế kỷ đầu công nguyên. Việc dân Sa Huỳnh khám phá ra thủy tinh sớm
xem ra hợp lý về mặt khoa học. Muốn có thủy tinh phải có cát mịn (silica) trộn vỏ
sò nát (calcium carbonate), là những món có sẵn ngay trên bờ biển họ sống. Khi
luyện sắt gần bờ biển, rất có thể cư dân địa phương tình cờ tạo ra trong lò những
mảng thủy tinh sáng bóng, và từ đó phát minh việc chế đồ trang sức bằng vật liệu
nhân tạo này.
Ngành khảo cổ chứng minh cư dân Sa Huỳnh đã buôn bán trao đổi với những dân
Nam Đảo khác, như thổ dân Phi Luật Tân-Philippins-, Mã Lai-Malaysia-, Nam
Dương - Indonesia Người cổ Sa Huỳnh bán đồ sắt, đồ gốm, đồ trang sức., và có
mua trống đồng.từ Đông Sơn ! Ngành khảo cổ thế giới xem văn hoá Sa huỳnh
quan trọng không kém văn hoá Đông Sơn. Từ sự có mặt của di vật văn hóa này ở
vùng bờ biển hay hải đảo khác nhưng không có dấu vết chế tạo tại chỗ, ngườI ta
suy ra là có sự buôn bán trao đổi. Theo Solheim, gốm Sa Huỳnh có liên hệ với
gốm Kalanay của dân Phi Luật Tân cổ. Solheim đưa ra thuyết "mạng buôn bán
trao đổi Nusantao" của dân Nam Đảo trên khắp biển Thái Bình Dương mấy ngàn
năm trước công nguyên. Dù cư dân Sa Huỳnh sau đó chịu ảnh hưởng nặng của văn
hoá Ần Độ, nhưng tiếng nói Nam Đảo vẫn còn tồn tại lâu sau đó trong dân Lâm

Ầp và Chàm, cho.đến khi họ bị dân Việt đồng hoá dần vào thiên kỷ II sau công
nguyên. Một số cư dân cổ này đã lên trên cao nguyên miền Trung, là tổ tiên những
thổ dân nói tiếng Nam Đảo còn sống đến ngày nay như người Gia-Rai, Rha- đê.
Những bộ lạc khác trên cao nguyên (cùng gọi là "Thượng" như các bộ lạc Nam
Đảo) lại nói tiếng Nam Á, và có tổ tiên sống từ lâu ở vùng núi đồi khắp vùng
Đông Nam Á. Tuy nhiên các bộ lạc nói tiếng Nam Á này cũng biết luyện sắt từ đất
quặng để chế thành dụng cụ như người tiền sử Sa Huỳnh; chắc rằng họ học kĩ
thuật làm đồ sắt qua các bộ lạc Nam Đảo gốc gác văn hoá Sa Huỳnh.
Ngoài tiếng nói, người Việt còn chịu nhiều ảnh hưởng khác của văn hoá Nam Đảo.
Yếu tố Nam Đảo trong phong tục người Việt gồm tục xâm mình, ăn trầu, việc
trồng, ăn khoai từ, khoai môn, và gồm cả những chuyện cổ tích gốc Nam Đảo như
chuyện Sơn Tinh, Trầu Cau Theo Hà văn Tấn, văn hoá Sa Huỳnh có gốc ở văn
hoá Bàu Tró (từ Nghệ An đến Thừa Thiên), và chủ nhân văn hoá Bàu Tró có thể là
của "người Nam Đảo". Vậy người Nam Đảo từ đâu đến, và gốc gác thế nào?
Áp dụng lập luận Oppenheimer (về sự thiên di của dân sống trên thềm lục ra đi khi
biển dâng) vào việc phân tích dữ kiện khảo cổ Việt Nam và Đông Nam Á, tôi xin
phác họa hình thành của người cổ Bắc Việt Nam như sau.
Người cổ thiên di từ Phi châu về phía Đông Nam Á. Đến khi gặp biển Đông (Nam
hải, nói theo Tàu) ngăn chận, họ phải theo hai hướng. Về phía bắc, họ đến sống
vùng nam Trung Hoa và dần dần tràn lên Mông Cổ, khi núi băng tan bớt, càng đi
dần về phía bắc. Về phía nam, họ thiên di đến trên thềm Sunda, khi đó còn nối liền
lục địa với các đảo phía nam đến tận Úc châu. Tất cả đều là người thuộc chủng
Australoid (da đen, tóc quăn, mũi to ).
Tại phía bắc Đông Á châu người thuộc chủng Australoid thay đổi dần nhân dạng
sau thời gian dài sống trong môi trường lạnh, gió, ít nắng.
Khoảng 15 ngàn năm trước, chủng Altaic thiên di từ Tây Á, dọc theo mạn phía
đông nam nước Nga đến vùng Tân Cương, lai với thổ dân đông bắc Á Châu
Australoid này, thành chủng Bắc Mongoloid (da trắng vàng, mắt hí, tóc thẳng).
Dân Mông Cổ thuộc chủng này và nói tiếng Altaic. Chủng Bắc Mongoloid sinh
sôi, ngày càng mạnh lên, bành trướng về phía bắc và qua eo biển Beringia lúc ấy

còn đóng băng, trở nên di dân đầu tiên ( thổ dân Amerindians) của châu Mỹ.
Khoảng 5000 năm trước, tổ tiên tộc Hán sống ở Bắc Trung Hoa là dân trồng kê
thuộc chủng Bắc Mongoloid.
Miền Nam Trung Hoa sau cuối kỳ băng tan có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Cư dân
Australoid cổ có thể đã lai chủng bắc Mongoloid ít nhiều. Dân thuộc chủng Bắc
Mongoloid bành trướng ngày càng mạnh về phía nam, gặp cư dân Australoid tại
giữa đất Trung Hoa, sống đan xen với nhau và lai thành chủng Nam Mongoloid
(da ngâm đen, tóc dợn sóng ), kết quả là càng về phía bắc và càng về sau, cư dân
càng nhiều nét Bắc Mongoloid và càng về nam dân càng nhiều nét Nam
Mongoloid. Chủng lai Nam Mongoloid là chủng tạo thành người Việt, Khmer,
Thái, Miến, Mã Lai, Nam Dương, hải đảo Thái Bình Dương Người Nam
Mongoloid có những nét của cả hai chủng Australoid và Mongoloid nhưng với
những mức độ đậm nhạt khác nhau tuỳ theo lai nhiều ít.
Càng về phía nam Đông Nam Á, nét Australoid càng đậm, vì ảnh hưởng giống
Mongoloid hãy còn mới. Ở vùng đảo Thái Bình Dương, du khách đi từ đầu tây về
phía đông trên những đảo (như ở Indonesia) có thể thấy dễ dàng tỷ lệ lai
Australoid tăng dần. Hiện tượng Australoid lai Mongoloid trên đất Việt Nam có lẽ
không phải do lai thẳng với người Mongoloid chính cống phương bắc, mà lai qua
người nam Trung Hoa, vì người ta không tìm thấy sọ thuần chủng Bắc Mongoloid
nào ở Việt Nam trước thời người tộc Hán trên phía Bắc đến đô hộ. Trong thời Bắc
thuộc, lai với chủng Bắc Mongoloid đến đô hộ, cư dân bắc Việt tuy có thêm nhiều
từ ngữ gốc Hán, nhưng lại mất đi dần dần một số phong tục như xâm mình và kĩ
thuật như tài lặn dưới nước, đóng thuyền to, đi biển, là những kĩ thuật của thành
phần Nam Đảo. Nước Lâm Ầp (và sau đó là Chiêm Thành) của con cháu người
nói tiếng Nam Đảo nhờ không bị người Hán đô hộ trực tiếp nên vẫn giữ được
phong tục, tiếng nói, và nghề đi biển : Chế Bồng Nga đã đem chiến thuyền vượt
biển đánh phá Thăng Long !
Trên đất Việt Nam, vào thời đồ đá, cư dân thuộc chủng Australoid ban đầu nói
cùng tiếng gốc Austric, dần dần phân thành hai nhóm dân nói tiếng khác nhau theo
vùng họ ở, vì cách sinh sống khác nhau. Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Á sống phía

trong lục địa, trú trong hang động vùng cao (văn hoá Hoà Bình). Nhóm thứ hai nói
tiếng tiền- Nam- Đảo sống vùng đồng bằng ven biển, vào lúc ấy mức biển thấp,
vùng này lan ra xa ngoài đường biển hiện tại trên vịnh Bắc Việt do thềm lục địa lài
/thoai thoải. Tại vùng vịnh Bắc Việt, dọc từ bờ biển Móng Cái tới Quảng Ngãi qua
đến đảo Hải Nam, đáy vịnh sâu nhất ngày nay không quá 100 mét . Từ bờ ra khơi
20 km, mực sâu dưới 25 m ! (trong khi ngoài khơi Trung Việt nơi núi ra tận biển
và nhiều mũi, nhiều hòn như mũi Dinh, hòn Trâu, hòn Tre.bờ biển thật dốc, sụp
sâu rất nhanh, không có thềm). Mười hai ngàn năm về trước, toàn vùng vịnh Hạ
Long là đất liền trải dài về phía đông đến bên kia đảo Hải Nam và Đài Loan, và về
phía bắc lên đến cửa sông Dương Tử. Nhờ các di tích khảo cổ thuộc văn hoá Soi
Nhụ trong những hang cao trên trên bờ vịnh Quảng Ninh-Hải Phòng hay đảo Cát
Bà mà ngày nay ta biết đã có cư dân sống ít nhất từ 15 ngàn năm trước, trên thềm
lục địa Hạ Long, trước khi mực biển dâng cao. Những di tích khác về cuôc sống
của cư dân sống trên thềm đã bị ngập ở tại đấy (Meacham gọi là Nanhailand, theo
tên Nam Hải, vùng vịnh Bắc Việt), cũng như tại thềm Sunda, không thể khai quật
được. Trong chừng mực nào đó, vùng vịnh Bắc Việt, kể cả (đảo) Hải Nam có thể
xem là lãnh thổ của một phần tổ tiên người Việt, thuộc thành phần nói tiếng Nam
Đảo, từ 15 ngàn năm trước ! Văn hoá Hạ Long và các văn hoá tiền Nam Đảo khác
sau đó đã góp phần quan trọng vào sự hình thành văn hoá và con người Việt Nam.
Nhóm nói tiếng tiền-Nam- Đảo không chỉ sống giới hạn ở vùng thềm lục địa ngay
trên vịnh Hạ Long mà có lẽ sống rải rác về phía bắc trên cùng thềm lục địa, vì
người ta tìm thấy hàng loạt di tích con cháu họ ở vùng HongKong trên những doi
cát giống như cư dân sống dọc biển Bắc và Trung Việt Nam. Đến khoảng 7 ngàn
năm trước, nước đã lên cao hơn gần một trăm mét so với mức 12 ngàn năm trước.
Cư dân ở đấy phải dời đi nơi khác, mang theo kĩ thuật, phong tục, tiếng nói, và .
các di tố. Việc đi lại trên thềm lục địa từ nam Trường giang đến vịnh Hạ Long dễ
dàng hơn trong đất liền vì không có trở ngại thiên nhiên (độ cao trung bình dưới
50 thước). Lúc nước lên cao nhất, khoảng 3 đến 5 m trên mức nước biển ngày nay,
vào 4000 năm trước, các thềm lục địa đã nằm sâu dưới biển.
Như vậy trong suốt mấy ngàn năm, dân sống trên thềm lục địa đã phải dần dà, lần

lượt di cư hoặc tìm cách lánh biển tiến. Theo Oppenheimer, có người lùi dần vào
phía đất cao trong lục địa, có người đóng tàu đi biển, người ở lại thì phải cất nhà
sàn. Có thể một số nhỏ đã vượt biển, nhưng số đông chọn giải pháp đơn giản đối
với họ là tiến vào chỗ đất liền gần nhất ; đối với cư dân vịnh Hạ Long, đó là vùng
bờ biển Nam Bắc phần và Bắc Trung phần Việt Nam. Chủ nhân các văn hoá ven
biển như Đa Bút, Quỳnh Văn, Bàu Tró, và cả Bàu Dủ, Sa Huỳnh do đó đều là
những người Nam Đảo tị nạn biển tiến. Riêng dân sống trên thềm lục địa biển
vùng đông nam Trung Hoa, một số lùi vào phía HongKong trong lục địa, một số
lên chỗ cao bên ngoài là đảo Đài Loan. Di tích xưa ở bắc Đài Loan Dapengeng có
gốm hoa văn thừng và hoa văn chải bằng "lược", cùng loại với nhiều di tích trên
bờ biển Nam Trung Hoa và Bắc Việt Nam, và cư dân nơi ấy cũng ăn sò nhiều,
cũng dùng chày đập vỏ cây. Ngưòi sống trên lục địa này sau đó bị Hán hoá. Xem
qua di tích khảo cổ, tại Đài Loan ngoài các di tích, thổ dân trên núi còn giữ tiếng
Nam Đảo và một số phong tục đến bây giờ (thí dụ ăn trầu). Những di tích nầy
được Trung Hoa xem như di tích của người "Yue" (Việt) cổ.
Ngày nay các nhà khảo cổ đều đồng ý là cư dân nam Trung Hoa cổ, và thổ dân
chưa bị lai hoàn toàn, không thuộc chủng tộc Hán. Cư dân vùng cực nam Trung
Hoa (Quảng Đông và QuảngTây, Vân Nam, Quế Lâm) và cực bắc Việt Nam nói
những thứ tiếng thuộc nhiều nhánh khác nhau của ngôn ngữ gốc Austric như Môn,
Thái, Kadai, Yao, Miêu., nhưng thổ dân miền núi cao Đài Loan chỉ nói những
tiếng thuộc một nhánh của ngôn ngữ Austric: nhánh Nam Đảo. Vì những thổ dân
trên núi cao ít tiếp xúc với người Hán (đến trễ và chỉ ở vùng đồng bằng ven biển),
nên có thể xem thổ dân này còn giữ genes nguyên thuỷ, và văn hoá cổ. Mặt khác,
dân Đài Loan cổ có nhiều liên hệ văn hoá thời đá mới (xưa trên 6000 năm) với các
văn hoá của cư dân vùng Phúc Kiến, đảo Quemoy (Kim Môn), Hongkong, Quảng
Đông, và Bắc Việt cổ (qua di vật như gốm hoa văn thừng, rìu tứ giác và rìu có vai
mài nhẵn). Nếu như ta chấp nhận những cư dân cổ này có cùng gốc, thì họ là
người nói tiếng (tiền-) Nam Đảo, như thổ dân Đài Loan, và quê hương của họ là
thềm lục địa chung quanh đã bị biển tràn ngập. Vậy thì tại sao không thể xem
vùng thềm biển này, trước khi hồng thuỷ đến, là một trung tâm văn hoá lớn của

dân nói tiếng Nam Đảo ? Đây là một trung tâm văn hoá Nam Đảo lớn vì đông dân,
so với những vùng được xem như trung tâm gốc của người nói tiếng Nam Đảo
theo đề nghị của Solheim (vùng nam Philippins & bắc Indonesia) hay
Oppenheimer (đông bắc Borneo) hoặc Bellwood (đảo Đài Loan). Thật vậy, những
người rời thềm lục địa trải dài từ vịnh Bắc Việt đến Đài Loan- Hongkong đến tị
nạn ở vùng đất không bị biển ngập gần đấy đã lập nên nhiều nền văn hoá nối tiếp,
để lại rất nhiều di tích khảo cổ thời đá mới trên bờ biển vịnh Hạ Long và vịnh
Hongkong, cũng như trên đảo Đài Loan.
Một phần cư dân thềm biển nam Trung Hoa (nói tiếng tiền- Nam- Đảo trong
thuyết tôi đưa ra ở đây) hẳn đã di chuyển trên thềm lục địa từ Trung Hoa đến Bắc
Việt để tìm nơi khô ráo. Thật thế, vì núi cao ra đến tận bờ biền ở rìa lục địa gần
Hongkong, nên cư dân trên thềm đi xa hơn về phía nam, xuống tận Bắc Việt. Di
tích khảo cổ tại những vùng này, từ Hongkong đến Bắc Việt, cho thấy một dụng
cụ đặc biệt của văn hóa Nam Đảo. Đó là chày đập vỏ cây cho mềm để làm khố che
thân, chày mà ngày nay dân Đa Đảo (như Tonga), cũng như dân Toraja sống trên
đảo Sulawesi vẫn còn dùng.
Bắt đầu từ thời đá mới, nghề làm rẫy phát triển với cây có củ (khoai từ, môn ), và
cây ăn trái (bầu, bí, mướp.) khiến số dân nói tiếng Nam Á ở trong đất liền, và dân
nói tiếng Nam Đảo dọc biển Bắc Việt tăng nhanh. Đất sống bị thu hẹp trong khi
dân số tăng lên, đến một lúc nào đó, hai nhóm dân tràn lan về vùng châu thổ các
sông, trồng thêm lúa, nuôi thêm lợn, và sống định canh đan xen nhau. Sự hợp
chủng của hai nhóm dân này có lẽ đã xảy ra khoảng 4000 năm trước đây. Phải
chăng sự gặp gỡ này đưa đến truyền thuyết Lạc Long Quân Nam Đảo từ phía biển
lên và Ấu Cơ Nam Á, tiên nữ vùng núi xuống ? Và cuộc gặp gỡ & sống chung có
lẽ xảy ra một cách tương đối hoà bình. Vì đôi bên đều cùng chủng tộc và ngôn ngữ
gốc, và họ có những kinh nghiệm sống bổ túc cho nhau. Dân Nam Đảo đã đem
nghề miền biển : đóng tàu, đi biển, đánh bắt hải sản góp vào cuộc phối hợp. Dân
Nam Á thì đóng góp nghề lục địa trồng trọt (kể cả lúa gạo), bắt ốc núi, nghề luyện
quặng đồng thau.
Cả hai nhóm đều biết săn bắt - hái lượm và làm đồ gốm (Bắc Sơn cho nhóm Nam

Á, và Quỳnh Văn, Bàu Tró cho nhóm Nam Đảo ) Nhưng họ cũng có các kĩ thuật
đặc trưng riêng. Nhóm Nam Đảo mặc đồ (khố, váy) bằng vỏ cây đập mềm : các
nhà khảo cổ tìm thấy 18 cái chày trong một lần khai quật văn hoá Phùng Nguyên ở
châu thổ sông Hồng. Nhóm Nam Á có lẽ dùng đồ dệt bằng sợi thảo mộc se bằng
dọi ; nhiều dọi đất nung được tìm thấy ở châu thổ sông Hồng. Đấy là nơi gặp gỡ
hai nhóm văn hoá biển- lục địa. Người ta tìm thấy trong địa bàn văn hóa Phùng
Nguyên di tích của cả hai nhóm Nam Á & Nam Đảo : rìu tứ giác không vai và rìu
có vai có nấc, chày đập vỏ cây và dọi se sợi.
Như vậy Tiên Ấu Cơ Nam Á và Rồng Lạc Long Quân Nam Đảo là tổ tiên Lạc
Việt lẫn Bách Việt (phía Nam Trường giang), và những Viêm Đế hay Thần Nông
của huyền thoại Hán xa xưa, nếu có, có lẽ không dính dáng đến tổ tiên tộc Việt.
Cuộc phối hợp văn hóa hoàn tất vào thời Đông Sơn, tạo thành môt văn hóa chung
cho cư dân bản địa, như các tượng người trên những đồ vật bằng đồng toàn vùng
Đông Sơn có cùng nét mặt, cùng y phục trang sức. Cũng như trên đồ đồng, vừa có
hoa văn hình kĩ hà tròn- vạch, vừa có hình thuyền to (chứa nhiều người). Những
hình thuyền to khắc trên trống đồng cho thấy dân Đông Sơn đã thừa hưởng kinh
nghiệm đóng thuyền từ người nói tiếng Nam Đảo. Tất cả các nhà khoa học đều
đồng ý là dân nói tiếng Nam Đảo có kinh nghiệm lâu đời về nghề đóng thuyền và
hàng hải vì sống nhờ nguồn lợi từ biển, và vì đã biết dùng thuyền thiên di khi biển
dâng. Trong khi người Phùng Nguyên sống sâu trong đất liền nên không cần
thuyền to ; cho dù họ có dùng thuyền đi trên sông, hồ, nhưng có lẽ không coi là
quan trọng, vì không thấy hình thuyền lên hoa văn đồ gốm.
Như nói ở trên cuộc sống chung này tương đối hoà bình vì các di tích khai quật
cho thấy tại Đồng Đậu, cư dân "đột nhiên" biết chế tạo vũ khí. Để tự vệ ? Để giải
quyết những tranh chấp về quyền lợi và ảnh hưởng ? Từ đó đưa đến những khủng
hoảng mất mát chia lìa (năm mươi con theo cha, năm mươi con theo mẹ?.) hoặc
đến lúc suy vi sau thời kì sung mãn.
Nhờ người nói tiếng Nam Đảo mà trống đồng Đông Sơn đã được chở đi khắp
Đông Nam Á bằng đường biển (người ta biết vậynhờ đào được ở Mã Lai một
trống Đông Sơn còn gắn/cột dính vào ván thuyền). Dân cổ trong nhiều vùng ở

Indonesia, đặc biệt là dân Toraja, đến nay còn giữ truyền thống Đông Sơn, có lẽ là
di dân (khá đông, nên gia tài mang theo được lưu truyền) đi từ Bắc Việt (khi
những người con xuống biển theo bên cha ? hoặc/và) trễ lắm là họ tị nạn lúc Trung
Hoa chiếm Việt Nam. Bởi vì hoa văn trên đồ (trống) đồng Việt sau khi bị Hán
chiếm đã bị/có ảnh hưởng mĩ thuật của người Hán. Trong khi dân Toraja ngày nay
vẫn còn làm vật lưu niệm, đồ trang sức trang trí với hoa văn kĩ hà thuần Đông
Sơn, và họ vẫn ở nhà rông cất đúng theo hình trên trống đồng Đông Sơn. Họ cử
hành đám táng với quan tài hình thuyền kiểu Đông Sơn. Kiều Quang Chẩn gần
đây nhắc lại đề nghị của nhiều học giả Tây Phương về nguồn gốc Đông Sơn của
nhóm dân Dayak sống tại bắc đảo Borneo, cách khá xa dân Toraja ở đảo Sulawesi
trong quần đảo Indonesia. Trong chuyến đi Indonesia khảo cứu về trống đồng, ông
ghi nhận là dân Dayak cũng có nhà rông mái cong, trồng lúa nước và tục đưa linh
hồn người chết bằng thuyền.
Kĩ thuật làm trống đồng còn được lưu truyền nhiều thế kỷ sau công nguyên tại
Indonesia (trong đó trống nhỏ còn được làm lâu sau đó), mà Hà văn Tấn gọi là
trống bản địa vì hình dáng hoặc trang trí, hoa văn trên nhiều trống đào được ở
Indonesia mang nhiều ảnh hưởng địa phương (cảnh hiện thực người, ngựa, voi,
công.). Kiều Quang Chẩn, cũng như nhiều học giả Indonesia cho là hầu hết các
trống to (loại Heger I) nhập từ Bắc Việt thời Đông Sơn (kể cả sau khi Bắc thuộc).
Chỉ tiếc là ngày nay kĩ thuật phức tạp dùng để đúc trống (cần thợ giỏi nhiều
ngành) mà di dân Đông Sơn để lại tại Indonesia đã thất truyền, chỉ còn mĩ thuật
hoa văn trên đồ dồng cỡ nhỏ.
Nơi xa nhất có đồ đồng Đông Sơn là đảo Flores, gần Úc châu. Đồ đồng đó là một
chiếc "thuyền mỹ nghệ" giống kiểu thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn.
Thuyền được dân địa phương xem như di sản tổ tiên họ đem đến bằng đường biển
với câu chuyện kể trong một bài hát chỉ được hát trong những lễ đặc biệt. Tổ tiên
ấy cũng là một số người Việt Đông Sơn (không chịu nổi ách đô hộ của người Tàu
hoặc kháng chiến quân Việt bị Tàu truy nã ?) lên đường theo lối cũ của bà con
vượt biển chạy lụt thuở trước hay vì óc mạo hiểm, muốn tìm miền đất hứa nào đó
? Có lẽ không bao giờ ta biết được, vì người Việt Đông Sơn không để lại chữ viết.

Ngoài các huyền thoại, truyền thuyết bằng miệng, không một sự việc, lịch sử, hay
câu chuyện nào ghi lại bằng chữ viết hay hình vẽ trên đá, trên gỗ- giấy, hoặc khắc
trên đất nung, mu rùa. Trong khi đó người ta biết nhiều sự việc xảy ra thời "tiền
sử" ở Trung Hoa, Ai Cập, hay các xứ vùng Cận Đông, Ần Độ, Trung Hoa, hay của
cổ dân Trung Mỹ ngày nay, qua các chữ hay kí hiệu khắc trên các vật liệu giữ
được lâu nói trên là mu rùa, đất nung, đá.
Như những dân tộc khác, dân Việt đã lai nhiều trong suốt thời tiền sử và trong thời
Hoa thuộc (thời Pháp thuộc quá ngắn nên phần lai rất ít). Nhưng các di tích về gốc
gác trên miền bắc Việt Nam còn rõ rệt, và gốc này có liên hệ sâu xa với những tộc
nói tiếng Nam Á và Nam Đảo. Nói về chủng tộc theo di truyền học, dân Việt xa
xưa có chung cội rễ với người cổ vùng Hoa Nam và người cổ Đông Nam Á. Tuy
nhiên văn hoá Việt Nam biệt lập và đầu tiên thành hình từ văn hoá bản địa của
những tộc nói tiếng tiền- Nam Á trong lục địa và tiếng tiền-Nam Đảo ở vùng thềm
lục địa đông bắc Bắc Việt. Và vẫn giữ được độc lập quốc gia và bản sắc văn hoá
riêng cho đến nay. Trong khi toàn vùng Nam Trường giang đều bị Hán hoá.
Ảnh hưởng của văn hoá Nam Đảo trên văn hoá Việt cổ đã được Hà Văn Tấn đề
cập rải rác trong các bài viết tập hợp trong cuốn "Theo dấu các nền văn hoá cổ".
Tôi chỉ căn cứ vào lập luận của Oppenheimer và kết quả mới về di truyền học
Đông Nam Á, để làm rõ nét thêm nguồn gốc dân tộc Việt.
Ai chẳng hãnh diện về một quá khứ đặc thù tốt đẹp? Nhất là khi quá khứ tốt đẹp
ấy có thể giúp một dân tộc hiện tại nghèo nàn lạc hậu phấn đấu tiến lên cho khỏi
hổ thẹn với tổ tiên. Tự ti hay tự tôn đến từ những nhận xét chủ quan, dựa vào
những chứng cớ và lí luận. Lí luận có thể khác nhau nhưng chứng cớ khoa học
phải được tôn trọng, cho đến khi tiến bộ khoa học về sau lại phủ nhận sự chính xác
hiện tại của chúng. Điều quan trọng hơn là làm thế nào cho nước Việt, dân Việt
hiện nay có thể tiến bộ để bắt kịp, hay vượt qua, những nước trong cùng vùng. Đó
là một thách đố cho tất cả người Việt Nam ngày nay.

10- Tài liệu tham khảo:
• Diamond JM (1988) Express train to Polynesia. Nature 336:307-308

• Ballinger SW, Schurr TG, Torroni A, Gan YY, Hodge JA, Hassan K, Chen K-H,
et al Southeast Asian mitochondrial DNA analysis reveals genetic continuity of
ancient Mongoloid migrations. Genetics 130, 139- 152 (1992) Trích bản tóm tắt:
Human mitochondrial DNAs (mtDNAs) from 153 independent samples
encompassing seven Asian populations were surveyed for sequence variation. The
greatest mtDNA diversity and the highest frequency of mtDNAs with HpaI/HincII
morph 1 were observed in the Vietnamese suggesting a Southern Mongoloid
origin of Asians.
• Bellwood P (1991) The Austronesian dispersal and the origin of languages. Sci
Am 265:70-75
• Blust R, Subgrouping, circularity, and extinction: some issues in Austronesian
comparative linguistics, Symp Ser Ins Linguist Acad Sinica, 1, 31 (1999)
• Capelli C, Wilson JF, Richards M, Stumpf M PH, Gratrix F, Oppenheimer S,
Underhill P, Pascali V, Ko T, Goldstein DB, A Predominantly Indigenous Paternal
Heritage for the Austronesian-Speaking Peoples of Insular Southeast Asia and
Oceania Am. J. Hum. Genet., 68:432-43, 2001.
• Hà văn Tấn, Theo dấu các nền văn hóa cổ , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà
Nội (1998)
• Hà văn Tấn, Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam , Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội,
Hà Nội (1994)
• Higham C, The bronze age of southeast Asia, Cambridge University Press
(1996)
• Khảo cổ học Việt Nam, I Thời đồ đá, và II, Thời đại kim khí Việt Nam, Hà văn
Tấn Ed, Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà Nội (1998)
• Kiều Quang Chẩn, Văn hoá Đông Sơn ở Indonesia- một thoáng nhìn, Thế kỷ 21,
tháng 6 năm 2001
• Meacham W, On the improbability of austronesian origins in south China, Asian
perspectives, 25 (1), 100 (1985)
• Nguyễn văn Tuấn, Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt, Thế kỷ 21, tháng 12
năm 2001

• Oppenheimer S, Eden in the East The Drowned Continent of Southeast Asia,
Phoenix, 1999
• Solheim WGH, Southeast Asia and Korea : from the beginning of food
production to the first states, in History of humanity: scientific and cultural
development, vol. 1 (Prehistory and the beginning of civilization) Ch. 45,
UNESCO/Rouletge, 468-80 (1994)
• The slow birth of Agriculture, trong Special section : Archeology : Transition in
prehistory, Science, 282, 1446,(1998)
•Tạ Chí Đại Trường, Tham gia đối thoại sử học, Văn Học, Westminster (USA),
tháng 9, 9-33
• Shiba R., Việt và Nhật, nguyên tác đăng trên Bungei Shunju tháng 2-1990, Vĩnh
Sính dịch, Diễn Đàn Forum (Pháp), tháng 1-1993, 24-25
• Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mã lai Của Dân Tộc Việt Nam (The Malay origin
ofVietnamesepeople),Bách Bộc,Saigon,1971)
• Hemudu, Zhonghua Yuangu Wenhua Zhiguang (Hemudu, light of ancient
culture in China), ISBN 7-81035-572-4/K.066 (1998)
• Su B, Xiao J, Underhill P, Deka R, Zhang W, Akey J, Huang W, Shen D, Lu D,
Luo J, Chu J, Tan J, Shen P, Davis R, Cavalli-Sforza L, Chakraborty R, Xiong M,
Du R, Oefner P, Chen Z, Jin L, Y-chromosome evidence for a northward
migration of modern humans into eastern Asia during the last Ice Age, Am J Hum
Genet, 65, 1718-1724 (1999)
• Chu J Y, Huang W, Huang SQ, Xu JJ, Chu Z T, Yang Z Q, Lin K Q, Li P, Wu
M, Geng Z C, Tan C C, Du R F, Jin L, Genetic relatioship of populations in China,
Proc Nat Acad Sci USA, 95, 11763 (1998)
(Dưới đây là bản đồ và chú thích J)
Bản đồ vùng Đông Nam Á lục địa, từ Nam Trung Hoa đến Trung Việt Nam. Bờ
biển phía đông (đường liên tục __) được thềm lục địa (độ sâu dưới 100 m, đường
vẽ-) bọc bên ngoài đến tận đảo Đài Loan và Hải Nam. Những mũi tên chỉ hướng
đi của dân nói tiếng Nam Đảo từ ngoài thềm lục địa di tản vào đất liền dọc bờ biển
Bắc Việt khi vùng vịnh Hạ Long bị biển ngập.

Địa điểm di tích các văn hóa:
1- Soi Nhụ; 2- Hạ Long; 3- Đa Bút; 4- Quỳnh Văn; 5- Bàu Tró; 6- Sa Huỳnh; 7-
Hong Kong (cửa sông Châu giang); 8- Dapengeng; HB: Hoà Bình.
2- Các di tích dọc sông Dương tử, kể từ thượng nguồn (bên trái): a- Sanxingdui, b-
Pengtou; c- Diantonghuan; d- Hemudu



×