Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

CẤU TẠO CHUNG CỦA SỢI NẤM – Phần 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 14 trang )

CẤU TẠO CHUNG CỦA SỢI NẤM – Phần 1



1. Hình thái và cấu tạo của sợi nấm
Sợi nấm (hypha) có dạng hình ống phân nhánh bên trong chứa chất
nguyên sinh có thể lưu động. Về chiều dài chúng có sự sinh trưởng vô hạn
nhưng về đường kính thì thưopừng chỉ thay đổi trong phạm vi 1-30µm
(thông thường là 5-10 µm).
Đầu sợi nấm có hình viên trụ, phần đầu gọi là vùng kéo dài (extension
zone). Lúc sợi nấm sinh trưởng mạnh mẽ đây là vùng thành tế bào phát triển
nhanh chóng, vùng này có thể dài đến 30 µm. Dưới phần này thành tế bào
dày lên và không sinh trưởng thêm được nữa. Màng nguyên sinh chất
thường bám sát vào thành tế bào. Trên màng nguyên sinh chất có một số
phần có kế cấu gấo nếp hay xoặ lại, người ta gọi là biên thể màng
(plasmalemmasome) hay biên thể (lomasome). Nhiều khi chúng có tác dụng
tiết xuất các chất nào đó.
Thành tế bào (cell wall) của nấm có thành phần hóa học khác nhau.
Đây là một tiêu chí quan trọng khi định loại nấm. sau đây là các thành phần
chính của thành tế bào ở một số nấm:
Chi nấm: 1 2 3 4 5 6
Thành phần thành t
ế
bào:

Glucan 16 54 0 43 29 6
Cellulose - 36 0 0 0 0
Chitine 58 0 9 19 1 10
Chitosan - 10 33 - 0 -
Mannan - <1 2 2 31 <3
Protein 10 5 6 11 13 7


Lipid - 3 8 5 9 3

Chú thích: 1- Allomyces
2- Phytophthora
3- Mucor
4- Aspergillus
5- Saccharomyces
6- Schizophyllum
Thành phần chính trong thành tế bào của một số nhóm nấm là như sau:
Acrasiales Cellulose, Glycogen
Oomycetes Cellulose, Glucan
Hyphochytriomycetes Cellulose. Chitine
Zygomycetes Chitin, Chitosan
Chytridiomycetes, Ascomycota (dạng sợi), Basidiomycota (dạng
sợi),
Fungi Imperfecti Chitine, Glucane
Riêng với Saccharomycetales và Cryptomycocolacales là Glucan, mannan
Với Rhodotorula và Sporobolomycetales là Chitine, mannan
Với màng nguyên sinh chất (protoplasmic membrane) thì thành phần ít thay
đổi ở các loài nấm sợi, có khác nhau với dạng nấm men. Sau đây là một số
ví dụ:
Loài nấm 1 2 3 4 5
Thành phần m
àng

NSC

Protein 52,0 38,5

46,5


45,5 25,5
Lipid 43,0 40,4

41,5 31,0 40,0
Polysaccharide 9,0 5,2 3,2 25,0 30,0
Acid nucleic 0,3 1,1 7,5 0,5 -

Chú thích: 1- Candida albicans (dạng nấm men)
2- Candida utilis
3- Saccharomyces cerevisiae
4- Candida albicans (dạng nấm sợi)
5- Fusarium culmorum

Nhân tế bào được bao bọc bởi màng nhân, trên màng nhân có nhiều lỗ
thủng, trong nhân có hạch nhân (nucleolus). Thường có nhiều nhân tập trung
ở phần ngọn của sợi nấm. Trong các tế bào phía sau ngọn thường chỉ có 1-2
nhân.
Nhân của nấm thường nhỏ, khó thấy rõ dưới kính hiển vi quang học.
Nhiễm sắc thể trong nhân thường không dễ nhuộm màu, số lượng tương đối
nhỏ. Số lượng này là 6 ở các nấm Magnaporthe grisea, Paecilomyces
fumosoroseus, Trichoderma reesei; là 7 ở các nấm Histoplasma
capsulatum, Neurospora crassa, Phenaerchateae chrysosporium, Podospora
anserina, là 8 ở các nấm Aspergillus nidulans. Aspergillus
niger,Acremonium chrysogenum, Beauveria basiana, Lentinus edodes, là 10
ở nấm Penicillium janthinellum,là 11 ở nấm Schizophyllum commune, là 12
ở nấm Curvularia lunata, là 13 ở nấm Agaricus bisporus, là 15 ở nấm
Cyanidioschyzon merolae, là 20 ở nấm Ustilago maydis….
Trong tế bào nấm còn có các cơ quan giống như trong tế bào các sinh
vật có nhân thực (Eukaryote) khác. Đó là ty thể (mitochondrion), mạng nội

chất (endoplasmic reticulum), dịch bào hay không bào (vacuolus), thể ribô
(ribosome), bào nang (vesicle) , thể Golgi sinh bào nang (Golgi body, Golgi
apparatus, dictyosome), các giọt lipid (lipid droplet), các tinh thể (chrystal)
và các vi thể đường kính 0,5-1,5 nm (microbody), các thể Vôrônin đường
kính 0,2µm (Woronin body), thể Chitô đường kính 40-70nm(chitosome)…
Ngoài ra trong tế bào chất còn có các vi quản rỗng ruột, đường kính 25nm
(microtubule), các vi sợi đường kính 5-8nm( microfilament), các thể màng
biên ( plasmalemmasome)

Ribosome của nấm thuộc loại 80S ( S là đơn vị hệ số lắng Svedberg)
có đường kính khoảng 20-25nm, gồm có 2 bán đơn vị ( subunit); bán đơn vị
lớn (large subunit ) 60S (gồm 3 loại ARN- 25S; 5,8S và 5S cùng với 30-40
loại protein). Bán đơn vị nhỏ (small subunit) 40S (gồm loại ARN 18S và 21-
24 loại protein)
Phần ngọn có thể tách với phần bên dưới bằng một không bào, lúc đầu
nhỏ nhưng về sau kết hợp lại với nhau để lớn dần, tạo nế áp lực dồn tế bào
chất về phía đỉnh ngọn sợi nấm. Tại phần già nhất của sợi nấm thường xảy
ra hiện tượng tự tan (autolysis) hoặc bị tan rã dưới tác dụng của các men
phân cắt (lytic enzyme) do các vi sinh vật khác sinh ra. Cũng có những phần
sợi nấm già phần lipid tích tụ nhiều và kết hợp với thành tế bào tạo nên một
màng dày, tạo thành những bào tử áo (chlamydospore). Loại bào tử này có
thể giúp sợi nấm tồn tại được qua những điều kiện môi trường khắc nghiệt.
Trường hợp này rất giống với các bào tử nội sinh (endospore).
Sợi nấm không ngừng phân nhánh và vì vậy khi một bào tử nẩy mầm
trên một môi trường đặc sẽ phát triển thành một hệ sợi nấm (mycelium, số
nhiều- mycelia), sau 3-5 ngày có thể tạo thành một đám nhìn thấy được gọi
là khuẩn lạc (colony). Vào giai đoạn cuối của sự phát triển khuẩn lạc sẽ xảy
ra sự kết mangh (anastomosis) giữa các khuẩn ty với nhau, làm cho cả khuẩn
lạc là một hệ thống liên thông mật thiết với nhau, thuận tiện cho việc vận
chuyển chất dinh dưỡng đến toàn bộ hệ sợi nấm. Hiện tượng kết mạng

thường gặp ở nấm bậc cao nhưng lại ít gặp ở các sợi nấm dinh dưỡng của
nấm bậc thấp. Hình thái, kích thước màu sắc, bề mặt của khuẩn lạc…có ý
nghĩa nhất định trong việc định tên nấm.
Phần lớn sợi nấm có dạng trong suốt, ở một số nấm sợi nấm mang sắc
tố tạo nên màu tối hay màu sặc sỡ. Sắc tố của mọt số nấm còn tiết ra ngoài
moi trường và làm đổi màu khu vực có nấm phát triển. Một số nấm còn tiết
ra các chất hữu cơ tạo nên các tinh thể trên bề mặt khuẩn lạc. Vì bào tử của
nấm thường cũng có màu nên cả khuẩn lạc thường có màu

2-Vách ngăn ở sợi nấm:
Sợi nấm ở một số nấm có vách ngăn ngang (septa, cross wall), đó là
các sợi nấm có vách ngăn (septate hyphae). Cũng có nhiều nấm sợi nấm
không có vách ngăn ngang- sợi nấm không vách ngăn (aseptate hyphae).
Các nấm bặc thấp thường có sợi nấm không vách ngăn, ngược lại các nấm
bậc cao thường mang sợi nấm có vách ngăn. Sợi nấm không vách ngăn
mang nhiều nhân nhưng vẫn có thể gọi là đơn bào. Ở các nấm không vách
ngăn thì vách ngăn vẫn có thể hình thành khi sản sinh thể sinh sản hay cơ
quan sinh sản. tại các bộ phận bị thương tổno sựi nám cũng có thể hình
thành vách ngăn. Đó là loại vách ngăn liên, không có lỗ thủng, có tác dụng
bảo vệ cơ thể.
Sợi nấm có vách ngăn là cơ thể đa bào. Mỗi tế bào có 1 nhân hoặc
nhiều nhân. Tuy nhiên sợi nấm vẫn không phải do nhiều tế bào hợp thành
mà là do các vách ngăn tách sợi nấm ra thành nhiều tế bào.
Vách ngăn ngang được hình thành từ thành tế bào. Lúc đầu là một gờ
nhỏ hình khuyên sao đó tiến dần vào trong và lấp kín lại. Tuy nhiên vách
ngăn thươbf có 1 hay nhiều lỗ thửng. các lỗ có kích thước bằng nhau hay có
1 lỗ lớn nhất ở giữa và nhiều lỗ nhỏ ở xung quanh. Vách ngăn điển hình ở
Nấm túi (Ascomycota) và Nấm bất toàn (Deuteromycetes) là loại có một lỗ ở
chính giữa, đường kính khoảng 0,05-0,5µm. Ở nấm Geotrichum candidum
và nấm Fusarium vách ngăn thường có nhiều lỗ nhỏ. Ở nấm Fusarium lỗ ở

chính giữa vách ngăn lớn hơn so với các lỗ khác. Một số Nấm đảm
(Basidiomycota) có lỗ hình thùng trên vách ngăn ngang, bọc bên ngoài bởi
một cấu trúc màng gọi là màng lỗ thùng (perenthesome). Trong điều kiện
khô hạn việc hình thành vách ngăn có thể giúp sợi nấm đề kháng được tốt
hơn đối với môi trường.
Ờ Nấm túi và Nấm bất toàn nhiều khi trong tế bào còn thấy có các thể
Vôrônin (Woronin body) và các tinh thể protein.


Cấu tạo của phần ngọn sợi nấm



Cấu trúc của sợi nấm



Sợi nấm có vách ngăn Sợi nấm không vách ngăn


Hệ sợi nấm


Sự phát triển của hệ sợi nấm


Khuẩn lạc nấm


Một ví dụ về cấu trúc của Ribosome ở Eukaryote


Thể Golgi và Mạng lưới nội
chất

Thể Woronin tụ tập ở lỗ thông của vách ngăn (nấm Penicillium)


Ty thể (mitochondrion)

×