Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Luận văn: Nghiên cứu sự ảnh hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 42 trang )


………… o0o…………

Luận văn
Nghiên cứu sự ảnh hưởng
của thức ăn đến sự tăng
trưởng và tỷ lệ sống của tôm
thẻ chân trắng Penaeus
vannamei giai đoan PL1 đến
PL 10 tại công ty cổ phần
chăn nuôi CP Việt Nam
LỜI CẢM ƠN
1
Để hoàn thành bài báo cáo thực tập cuối khóa này tôi nhận được sự giúp đở
rất từ nhiều từ phía nhà trường và công ty nơi tôi thực tập. Tôi xin chân thành
cám ơn Trường ĐH Quảng Bình, Thầy cô giáo khoa Nông Lâm-Thủy sản, Giảng
viên hướng dẫn: Trần Thị Yên. Ban giám đốc công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt
Nam chi nhánh Bình Định III, cùng toàn thể công nhân viên của công ty đã tạo
điều kiện cho tôi hoàn thành tốt kỳ thực tập vừa qua. Một lần nữa tôi xin chân
thành cảm ơn !
MỤC LỤC Trang
2
1
1. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng 11
2. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của ấu trùng tôm thẻ từ PL1-PL10 33
DANH SÁCH CÁC BẢNG
3
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với diện tích đất liền 329.297 km
2
, vùng biển rộng hơn 1 triệu km


2
và có bờ biển dài hơn 3.260 km, rất thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng thủy
sản. Ngành thủy sản nói chung, nghề nuôi tôm ở Việt Nam nói riêng những năm
gần đây phát triển mạnh mẽ, giải quyết một phần tình trạng thiếu việc làm, tăng thu
nhập cho nhiều hộ nông ngư dân ven biển, tăng nguồn ngoại tệ lớn thông qua xuất
khẩu. Việt Nam đã trở thành một trong những nước có sản lương nuôi tôm lớn
nhất thế giới. Các loài tôm được nuôi chính ở Việt Nam hiện nay là: Tôm sú
(Penaeus monodon), tôm nương (P. orientalis), tôm thẻ chân trắng (P. vannamei),
tôm rằn (P. semisucatus).
Những năm gần đây tôm thẻ chân trắng đã được sản xuất giống đại trà ở nước ta.
Tôm thẻ là đối tượng mang lại hiệu quả kinh tế, ít gặp rủi ro. Để có một vụ nuôi
thành công cần một điều không thể thiếu là đàn tôm giống khỏe mạnh và sạch
bệnh.
Trong giai đoạn ương nuôi ấu trùng của quy trình sản xuất giống tôm thẻ
chân trắng, thương gặp rủi ro, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và chất
lượng ấu trùng. Các nhà nghiên cứu thủy sản đã nghiên cứu rất nhiều để tìm ra loại
thức ăn phù hợp nhất cho ấu trùng tôm thẻ chân trắng. Các loại thức ăn được sử
dụng để ương nuôi hiện nay là tảo, artemia và thức ăn tổng hợp. Nhưng có nhiều
4
công thức phối hợp giữa các loại thức ăn với nhau. Mổi công thức khác nhau no
cho kết quả khác nhau, cụ thể là tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của ấu trùng. Từ
những vấn đề cấp thiết trên tôi muốn thực hiện chuyên đề “ Nghiên cứu sự ảnh
hưởng của thức ăn đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm thẻ chân trắng
Penaeus vannamei giai đoan PL1 đến PL 10 tại công ty cổ phần chăn nuôi CP
Việt Nam”
Thực hiện đề tài này tôi muốn tìm ra công thức thức ăn phù hợp nhất, nhằm nâng
cao tỷ lệ sống, mước độ tăng trưởng và chất lượng ấu trùng tôm thẻ chân trắng giai
đoạn PL1 đến PL10.
PHẦN II: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
I. TÌM HIỂU CHUNG VỀ CƠ SỞ THỰC TẬP

1. Vai trò chiến lược của vị trí địa lý tỉnh Bình Định
Bình Định nằm ở vị trí trung tâm của miền Trung và cả nước; phía Bắc giáp
tỉnh Quảng Ngãi - nơi có khu công nghiệp Dung Quất; phía Nam giáp tỉnh Phú
Yên có nhiều tiềm năng phát triển về du lịch dịch vụ; phía Tây giáp Tây
Nguyên- giàu tiềm năng thiên nhiên cần được khai thác. Với vị trí địa lý đặc
biệt đó nên Bình Định có một vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của vùng kinh tế miền Trung và Tây Nguyên. Hệ thống
đường quốc lộ 1A, đường sắt xuyên Việt cùng với đường 19 lên Tây Nguyên
và cảng biển nước sâu Quy Nhơn - Nhơn Hội tạo thành huyết mạch cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của Bình Định, miền Trung và Tây Nguyên, cũng
như khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bởi trục đường hành lang Đông- Tây:
Quy Nhơn - Kon Tum - Aptopo - Bắc Xế - Ubon Rat Cha Tha Ni, trục hành
lang này có chiều dài khoảng 770km; mặt khác từ Quy Nhơn lên đường 19 đến
Kon Tum và theo đường 14 rẽ về phía Nam đến Stung Ố Treng (Campuchia).
Huyện Phù Mỹ: Là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh Bình Định. Phú Mỹ
giáp các huyện Hoài Nhơn phía bắc, nam và tây nam giáp Phù Cát, tây bắc giáp
Hoài Ân và biển đông ở phía đông. Theo thống kê năm 2005 thì huyện Phù Mỹ có
diện tích là 548,9km2 với dân số khoảng 188.000 người, trong đó riêng số nữ
5
chiếm tới 96.700 người. Mật độ dân số là 342 người/ km
2
.
Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc về nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó
thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Chămpa. Năm 1471,
sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi tới núi Thạch Bi ( Phú Yên), vua Lê
Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư dân Chiêm Thành còn ở lại
và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được đưa vào. Sau này qua mấy lần
nhập tách thì Phù Ly được chia đôi thành Phù Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La
Tinh làm ranh giới. Trong những năm chịu sự quản lý của chính quyền Sài Gòn
nơi đây được gọi là phủ Phù Mỹ. Sau 1975 được đổi thành huyện Phù Mỹ.

Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã và 2 thị trấn gồm: thị trấn Phù Mỹ và Bình
Dương, các xã là: Mỹ An, Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức,
Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành,
Mỹ Thọ, Mỹ Thắng và Mỹ Trinh. Huyện có 2 ga tàu hỏa thuộc đường sắt bắc —
nam là ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ).
Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng tuyệt đẹp như: chùa Hang, giếng
Tiên, và di tích lịch sử Đèo Nhông và đặc biệt là một vùng ven biển tuyệt đẹp kéo
dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó bờ biển Mỹ Thọ cũng
tuyệt đẹp với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải Đăng, thuộc thôn Tân Phụng
thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân cận. Vùng ven biển Phù Mỹ là nhiều
bãi cát dài trong đó có bãi cát từ Xuân Thạnh (Mỹ An) qua (Mỹ Thắng) đến (Mỹ
Đức) là dài nhất. Ngoài ra Phù Mỹ còn một số thắng cảnh nổi tiếng trong xã và
trong huyện thôi.
2. Điều kiện thời tiết, khí hậu
Tỉnh Bình Định nằm trong vùng nhiệt đới ẩm gió mùa. Do sự phức tạp của địa
hình và mặt đệm biến đổi khá lớn nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng
và cường độ khá nhiều. Nếu xét tới các xu thế chủ yếu có thể phân chia chế độ gió
trong năm của tỉnh có gió mùa Đông Bắc; phần phía Nam của tỉnh có gió Bắc và
Tây Bắc. Trong thời kỳ này hướng gió nói chung tương đối ổn định. Từ tháng 4 - 8
ở phần phía Bắc tỉnh có gió Nam và Tây Nam; ở phần phía Nam tỉnh chủ yếu có
gió Đông Nam và gió Tây, tiếp theo là gió Tây Bắc và gió Nam.
- Nhiệt độ không khí trung bình năm ở khu vực miền núi biến đổi từ 20,1 -
26,1
o
C, cực đại trung bình 25,0 - 31,7
o
C và cực tiểu 16,5 - 22,7
o
C. Tại vùng
duyên hải, nhiệt độ không khí trung bình năm là 27,0

o
C, nhiệt độ cực đại
6
39,9
o
C và cực tiểu 15,8
o
C. Tổng nhiệt độ năm trong tỉnh (tại Quy Nhơn) đạt
9.636
o
C vượt tiêu chuẩn 9.500
o
C của khí hậu xích đạo.
- Độ ẩm tuyệt đối trung bình tháng trong năm 22,5 - 27,9 % và độ ẩm tương
đối từ 79 - 92 % tại khu vực miền núi; tại vùng duyên hải độ ẩm tuyệt đối trung
bình là 27,9 mb, cực đại 32,7 mb và cực tiểu 20,0 mb. Độ ẩm tương đối trung
bình là 79 % và cực tiểu là 31 %.
- Chế độ mưa: mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 12. Riêng đối với khu
vực miền núi có thêm một mùa mưa phụ từ tháng 5 - 8 do ảnh hưởng của mùa
mưa Tây Nguyên. Mùa khô kéo dài từ tháng 1 - 8. Đối với các huyện miền núi
tổng lượng mưa trung bình năm từ 2.000 - 2.400 mm. Riêng thung lũng sông
Kôn từ 1.600 - 2.000 mm. Vùng có tổng lượng mưa trung bình năm lớn nhất là
huyện An Lão (2.400 - 3.200 mm). Đối với vùng duyên hải tổng lượng mưa
trung bình năm là 1.751 mm, cực đại là 2.658mm và cực tiểu là 1.131 mm.
Tổng lượng mưa trung bình có xu thế giảm dần từ miền núi xuống duyên hải.
Riêng ở phía Bắc tỉnh có xu thế giảm dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam.
- Về bão: Bình Định nằm ở miền Trung Trung bộ Việt Nam, đây là miền
thường có bão đổ bộ vào đất liền. Hàng năm trong đoạn bờ biển từ Quảng Nam
- Đà Nẵng đến Khánh Hòa trung bình có 1,04 cơn bão đổ bộ vào. Tần suất xuất
hiện bão lớn nhất từ tháng 9 - 11.

Nhìn chung, vị trí địa lý và hoàn cảnh khí hậu trên đây của tỉnh đã chi phối
đến các đặc trưng điều kiện tự nhiên khác cũng như chi phối mạnh mẽ đến các
hoạt động phát triển kinh tế của tỉnh. Để khai thác các mặt thuận lợi và phòng
chống các mặt bất lợi cần thiết phải có sự nghiên cứu hệ thống và hiểu biết đầy
đủ các quy luật khí hậu để có các giải pháp phù hợp và kịp thời.
3. Tình hình kinh tế - xã hội
* Con người
Các sử gia triều đình nhà Nguyễn đã ghi nhận về phong thái, đức tính của người
Phù Mỹ trong Đồng Khánh dư địa chí như sau: "Cần kiệm tột bậc là Phù Mỹ.
Chuộng gốc nhiều, theo ngọn ít. Kẻ sĩ siêng cần, giàu chuyên học, dân cần cù, giản
dị".
Phù Mỹ vốn là đất hiếu học của Bình Định, từng sản sinh ra nhiều nhà khoa
bảng trẻ tuổi học rộng tài cao, đức độ và khí phách. Cuối thế kỷ 18 có Cao Tắc
Tựu, Phạm Văn Tung, Trần Bá Hữu, Lê Văn Trung nổi tiếng văn võ song toàn,
7
có nhiều đóng góp lớn cho phong trào nông dân Tây Sơn. Trước 1945, Phù Mỹ chỉ
có 2 trường tiểu học ở Trà Quang, An Lương cùng một số ít trường ở tổng và làng
nên nhân dân tự mở ra nhiều trường tư thục, gia đình học hiệu. Những năm đất
nước bị chia cắt, ở cả hai miền Nam - Bắc, Phù Mỹ đều có nhiều học sinh sinh viên
giỏi, điều đặc biệt là họ đều yêu nước, yêu quê hương và dân tộc Việt Nam.
Kho tàng văn hóa dân gian của Phù Mỹ khá phong phú, số lượng ca dao, tục
ngữ, hò vè mà các nhà nghiên cứu sưu tầm được trên đất Phù Mỹ khá nhiều, tiêu
biểu nhất có vè Chàng Lía. Văn hóa dân gian ở Phù Mỹ nồng đượm tình người,
giàu hương sắc địa phương. Dân phù Mỹ rất ưa chuộng dân ca bài chòi và hát
tuồng. Hát tuồng rất phổ biến tại những làng chài ven biển, tại các lễ hội cầu ngư,
người ta thường tổ chức hát lăng, biểu diễn chèo bá trạo. Ở những làng quê phổ
biến các hình thức hát hò, hát kết của các đôi trai gái trao gởi tâm tình Hát hò,
dân ca bài chòi là một trong những hình thức mà người Phù Mỹ sử dụng nhiều để
thể hiện sự giàu có về tâm hồn của mình.
* Kinh tế

Nói tới Phù Mỹ bây giờ là nói đến chuyện phát triển nghề nuôi tôm trên cát. Quả
thật, về Mỹ An và Mỹ Thắng vào những ngày này, trong câu chuyện của người
dân, ta dễ dàng nhận thấy bóng dáng của con tôm. Ông Huỳnh Văn Nam – Phó chủ
tịch UBND huyện Phù Mỹ cho biết: "Bên cạnh 2.000 ha ao đầm đã được khai thác
lâu nay, huyện đã hợp đồng nghiên cứu xây dựng quy hoạch vùng nuôi tôm trên
cát để mở rộng khả năng nuôi trồng. Quy hoạch này do Viện Hải dương học Nha
Trang thực hiện, chính Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Tác An – Viện trưởng chủ trì. Bản
quy hoạch đã được các cơ quan thẩm định đánh giá rất cao. Tiếp đó hợp phần quy
hoạch chi tiết được các chuyên gia của trường Đại học thủy lợi II thực hiện. Kết
quả chúng tôi đã có một vùng nuôi tôm trên cát rộng 500 ha trong đó diện tích rừng
chắn cát rộng 300ha, diện tích hồ nuôi trồng là 200ha. Huyện đã đầu tư hoàn chỉnh
cơ sở hạ tầng đường giao thông, tiêu thoát nước, kéo điện đến chân công trình ao
hồ. 120ha hồ tôm đầu tiên đã được triển khai xong ở Mỹ An, 80 ha còn lại của Mỹ
Thắng hiện đang được khẩn trương thực hiện. Khu nuôi tôm này là điểm nhấn
quan trọng để thể hiện năng lực khả năng phát triển của Phù Mỹ, bởi giá trị kinh tế
của con tôm thì ai cũng đã biết rồi!"
Ngoài ra cùng với Tuy Phước, Vân Canh, An Nhơn; Phù Mỹ là huyện có nguồn đá
ốp lát, đá xây dựng thuộc loại phong phú nhất. Chưa có những cuộc điều tra, khảo
8
sát để đánh giá một cách toàn diện và đầy đủ tiềm năng, chủng loại, trữ lượng đá
granite của Phù Mỹ (trừ mỏ đá đen tuyền Phù Hà – Mỹ Hòa được đánh giá sơ bộ
có trữ lượng khoảng 4,5 triệu m3) nhưng điều có thể nói ngay là những loại đá đẹp
nhất, có giá trị cao nhất mà thị trường đang chú ý hầu hết đều có đủ ở huyện này.
Có thể kể đến những mỏ đá sắc xanh ở Mỹ Thành, đá sắc đỏ ở Mỹ Đức, đá sắc
trắng, vàng tổ ong, đen tuyền ở Mỹ Hòa. Cho đến nay trên toàn địa bàn huyện vẫn
mới chỉ có 2 đơn vị tổ chức khai thác đá granite với lượng khai thác hãy còn rất
thấp. Một khi quốc lộ 1A được nâng cấp xong, các cụm công nghiệp được mở
rộng, kinh tế phát triển đồng thời huyện cũng cải thiện sự hấp dẫn của chính sách
hỗ trợ, trải thảm đỏ mời nhà đầu tư thì tình thế sẽ khác hẳn.
Trong những năm qua, các công trình nghiên cứu quốc gia về tuyển quặng

tinh inmenhite, ziếc côn, rutin trong sa khoáng biển Bình Định đã được Viện Địa
chất khoáng sản, Viện Luyện kim màu triển khai và cho những kết quả sơ
bộ đáng phấn khởi. Ước tính, Bình Định có khoảng 2 triệu tấn quặng tinh
inmenhite nằm lộ thiên ven biển phân bố khá đồng đều ở hai huyện Phù Mỹ và Phù
Cát. Những thông số này cho phép Phù Mỹ tổ chức gọi mời đầu tư và khai thác
khoáng sản titan là một trong những lĩnh vực mà Phù Mỹ đã thu hút được nhiều
vốn đầu tư. Hiện nay, trên địa bàn đã có 2 doanh nghiệp đang tổ chức khai thác sa
khoáng titan, 2 doanh nghiệp khác đang hoàn chỉnh thủ tục để triển khai khai thác
4. Vài nét về công Ty Cổ Phần Chăn Nuôi C.P Việt Nam
C.P Thái Lan là một tập đoàn sản xuất kinh doanh đa ngành nghề và là một
trong những tập đoàn mạnh nhất của Thái Lan trong lãnh vực công - nông nghiệp,
điển hình là lĩnh vực sản xuất lương thực - thực phẩm chất lượng cao và an toàn
cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Với kinh nghiệm hơn 80 năm phát triển sản
xuất kinh doanh, hiện nay tập đoàn C.P Thái Lan đã mở rộng địa bàn hoạt động
đến 20 quốc gia khác nhau với 200 công ty thành viên, và thu hút một nguồn lao
động 200.000 người.
C.P.Việt Nam là thành viên của C.P.Thái Lan , được cấp giấy phép đầu tư số
545A/GP vào năm 1993 với hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các lĩnh vực
đầu tư sản xuất kinh doanh tại Việt Nam hiện nay bao gồm : hạt giống, thức ăn
chăn nuôi và thuỷ sản, giống heo, gà và thủy sản, thiết bị chăn nuôi và nuôi trồng
thủy sản, nuôi gia công heo, gà và chế biến thực phẩm.
9
Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc tại Việt Nam, tập đoàn C.P đã xây
dựng 2 nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền nam thuộc công ty C.P và một
nhà máy sản xuất thức ăn gia súc tại miền bắc thuộc công ty Charoen Pokphand.
Thức ăn gia súc của công ty hiện được tiêu thụ trên thị trường thông qua hệ thống
phân phối : Cấp 1 , cấp 2 và trại trực tiếp .Được phục vụ và phát triển bởi đội ngũ
Bác sĩ thú y, Kỹ sư Chăn Nuôi tốt nghiệp từ các trường đại học Nông Nghiệp trong
nước và nước ngoài theo tiêu chí : Chất lượng là hàng đầu, không ngừng phát triển
công nghệ tiên tiến và quản lý theo tiêu chuẩn ISO 9001 để vật nuôi được phát

triển hoàn toàn tiềm năng di truyền và nâng cao thành tích sản xuất, an toàn cho
con người khi tiêu thụ vật nuôi ( không có hoocmon tăng trưởng mà bộ Nông
nghiệp và phát triển Nông Thôn nghiêm cấm ), an toàn cho môi trường .
Để hổ trợ cho việc phát triển ngành thức ăn gia súc, giúp ngành chăn nuôi
của Việt Nam phát triển theo hướng nông nghiệp và nâng cao hiệu quả cho các
trang trại, Công Ty đã xây dựng : Nhà máy dụng cụ và thiết bị chăn nuôi tại khu
công nghiệp Biên Hòa 2 Tỉnh Đồng Nai, 3 Trại gà giống Bố Mẹ và 3 Nhà máy Ấp
Trứng tại Tỉnh Đồng Nai.
Nhiều trại heo giống ông bà ở các tỉnh : Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Dương,
Lâm Đồng
Nhà máy thứ 4 đang được khởi công xây dựng và sẽ đi vào hoạt động tháng
1 năm 2008 tại khu công nghiệp Mỹ Phước với công suất 35.000 tấn /tháng . Đây
là nhà máy có công nghệ sản xuất hiện đại nhất khu vực Đông Nam Á.
Với đội ngũ nhân viên giàu kinh nghiệm của Phòng thu mua, phòng thí nghiệm,
phòng bán hàng, phòng kỷ thuật ….và được sự hổ trợ của các chuyên gia của tập
đoàn C.P trên thế giới . Ngành thức ăn gia súc của công ty C.P.Việt Nam luôn
đứng đầu về chất lượng và doanh số bán hàng trên thị trường.
Công ty cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Đinh III, nằm ở
thôn Xuân Thạnh xã Mỹ Ăn huyện Phù Mỹ tỉnh Bình Định. Trại giống được xây
dựng với diện tích khoảng 6ha. Đây là mọt trong những trại sản xuất tôm giống lớn
nhất Việt Nam, sản xuất giống dựa trên công nghệ tiên tiến của Thái Lan. Hệ thống
trại bao gồm:
- Hệ thống văn phòng làm việc của ban giám đốc
- Khu nhà nghỉ của giám đốc và công nhân viên.
10
- Bộ phận thí nghiệm gồm: 1 phòng Vi khuẩn, 2 phòng PCR, 1 phòng kiểm
tra chất lượng nước, 1 phòng kiểm định chất lượng, 1 phòng nuôi cấy tảo thí
nghiệm ( Lab), 1 nhà ấp Artemia, 1 nhà nuôi tảo ống, 8 nhà nuôi tảo sinh khối
( Mass).
- Khu tôm bố mẹ (Maturation) gồm 4 nhà, mỗi nhà có 32 bể x 24m

2
.
- Khu ương nuôi ấu trùng gồm 24 nhà mỗi nhà có 14 bể x 10m
3
.
Và hệ thống bể chứa và xử lý nước.
II. VÀI NÉT VỀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
1. Đặc điểm sinh học của tôm thẻ chân trắng
1.1. Hệ thống phân loại, đặc điểm hình thái cấu tạo và phân bố của Tôm Thẻ
Chân Trắng ( Litopenaeus vannamei Boone, 1931)
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
1.1.1. Hệ thống phân loại
Ngành: (chân khớp) Arthropoda
Lớp: (Giáp xác) Crustacea
Bộ: (Mười chân) Decapoda
Bộ phụ: (Bơi) Natantia
Họ: (Tôm he) Penaeidae
Giống: (Tôm he) Penaeus
Loài: Penaeus vannamei , Boone 1931.
Tên gọi
Tên tiếng Anh : WhiteLeg shrimp
Tên khoa học : Penaeus vannamei (Boone, 1931)
Tên thường gọi : Tôm bạc Thái Bình Dương, tôm bạc bờ Tây châu Mỹ, Camaron
blanco, Langostino.
Tên của FAO : Camaron patiblanco.
Tên Việt Nam : Tôm Thẻ Chân Trắng
1.1.2. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
Cơ thể chia làm hai phần: đầu ngực (Cephalothorax) và phần bụng (Abdomen)
 Phần đầu ngực có 14 đôi phần phụ bao gồm:
+ Chủy tôm gồm có 2 răng cưa ở bụng và 8-9 răng cưa ở lưng.

+ 1 đôi mắt kép có cuống mắt.
11
+ 2 đôi râu: Anten 1(A1) và Anten 2(A2). A1 ngắn, đốt 1 lớn và có hốc mắt, hai
nhánh ngắn. A2 có nhánh ngoài biến thành vẩy râu (Antennal scale), nhánh trong
kéo dài. Hai đôi râu này giữ chức năng khứu giác và giữ thăng bằng.
+ 3 đôi hàm: đôi hàm lớn, đôi hàm nhỏ 1 và đôi hàm nhỏ 2.
+ 3 đôi chân hàm (Maxilliped) có chức năng giữ mồi, ăn mồi và hỗ trợ hoạt động
bơi lội của tôm.
+ 5 đôi chân bò hay chân ngực (walking legs), giúp cho tôm bò trên mặt đáy.
Ở tôm cái, giữa gốc chân ngực 4 và 5 có thelycum ( cơ quan sinh dục ngoài, nơi
nhận và giữ túi tinh từ con đực chuyển sang).
 Phần bụng có 7 đốt: 5 đốt đầu, mỗi đốt mang một đôi chân bơi hay còn gọi
là chân bụng ( Pleopds hay Swimming legs). Mỗi chân bụng có một đốt chung bên
trong. Đốt ngoài chia làm hai nhánh: Nhánh trong và nhánh ngoài, đốt bụng thứ 7
biến thành telson hợp với đôi chân đuôi phân thành nhánh tạo thành đuôi giúp cho
tôm chuyển động lên xuống và búng nhảy. Ở tôm đực, hai nhánh trong của đôi
chân bụng 2 biến thành đôi phụ bộ đực- là bộ phận sinh dục bên ngoìa của tôm.
Màu sắc của tôm: tôm có màu trắng đục.
1.1.3. Đặc điểm phân bố và nguồn gốc
Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) có nguồn gốc từ vùng biển xích
đạo Ðông Thái Bình Dương (biển phía Tây Mỹ La tinh), phân bố chủ yếu ở ven
biển Tây Thái Bình Dương, châu Mỹ, từ ven biển Mexico đến miền trung Pêru,
nhiều nhất ở biển gần Ecuador . Hiện nay tôm chân trắng đã có mặt hầu hết ở các
khu vực ôn và nhiệt đới bao gồm Đài Loan, Trung Quốc và các nước ven biển
thuộc khu vực Đông Nam Á.Tôm Thẻ Chân Trắng có thể sống ở độ sâu 72m, đáy
bùn, nhiệt độ nước ổn định từ 25- 32°C, độ mặn từ 28- 34 ‰, pH từ 7,7- 8,3 , giai
đoạn tôm con sống ở vùng cửa sông, giai đoạn trưởng thành sống ở biển sâu.
1.2. Đặc điểm sinh trưởng và sự lột xác
1.2.1 Các thời kỳ phát triển và vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
(Litopenaeus vannamei Boone, 1931)

(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
a) Các thời kỳ phát triển của Tôm Thẻ Chân Trắng
 Thời kỳ phôi
Thời kỳ phôi bắt đầu từ khi trứng thụ tinh đến khi trứng nở, thời gian phát
triển phôi tùy thuộc vào nhiệt độ nước.
12
 Thời kỳ ấu trùng
Ấu trùng Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua nhiều lần lột xác và biến thái hoàn
toàn, gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn Nauplius (N):
Ấu trùng N của Tôm Thẻ Chân Trắng trải qua 6 lần lột xác và có 6 giai đoạn
phụ ( N
1
- N
6
). Ấu trùng N bơi lội bằng bằng 3 đôi phần phụ, vận động theo kiểu
zic zắc, không định hướng và không liên tục. Chúng chưa ăn thức ăn ngoài mà
dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ.
+ Giai đoạn Zoea (Z):
Giai đoạn Z có 3 giai đoạn phụ (Z
1
– Z
3
) thay đổi hẳn về hình thái so với N.
Ấu trùng Z bơi lội nhờ hai đôi râu (đôi 1 phân đốt đôi 2 phân nhánh kép) và 3 đôi
chân hàm phân nhánh. Chúng bơi lội liên tục có định hướng về phía trước, ấu trùng
Z bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài. Thức ăn chủ yếu là thực vật nổi với hình thức chủ
yếu là ăn lọc. Ở giai đoạn này, ấu trùng ăn mồi liên tục, ruột luôn đầy thức ăn và
thải phân liên tục tạo thành đuôi phân kéo dài ở phía sau- đây là đặc điểm để nhận
biết giai đoạn này. Vì vậy khi nuôi ấu trùng Z, thức ăn cần được cung cấp đạt mật

độ thích hợp, đảm bảo cho việc lọc thức ăn của ấu trùng. Ngoài hình thức ăn lọc,
ấu trùng Z vẫn có khả năng bắt mồi và ăn được các động vật nổi có kích thước nhỏ
( Nauplius của Artemia, luân trùng ) đặc biệt vào cuối giai đoạn này-Z3. Mỗi giai
đoạn phụ của ấu trùng Z thườnh kéo dài khoảng 30- 40h, trung bình 36h ở nhiệt độ
28-29°C.
+ Giai đoạn Mysis (M):
Giai đoạn này gồm có 3 giai đoạn phụ ( M
1
- M
3
), ấu trùng M sống trôi nổi
có đặc tính treo ngược mình trong nước, đầu chúc xuống dưới. Ấu trùng M bơi lội
kiểu búng ngược, vận động chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bò. Ấu trùng M bắt mồi
chủ động, thức ăn chủ yếu là động vật nổi. Tuy nhiên, chúng vẫn có thể ăn tảo
Silic, đặc biệt là ở giai đoạn phụ M
1
và M
2
. Thời gian chuyển giai đoạn của M
cũng gần giống với giai đoạn Z.
+ Giai đoạn Postlarvae (PL):
Hậu ấu trùng PL đã có hình dạng của loài nhưng sắc tố chưa hoàn thiện,
nhánh trong anten 2 chưa kéo dài. PL bơi thẳng có định hướng về phía trước, bơi
lội chủ yếu nhờ vào 5 đôi chân bụng, PL hoạt động nhanh nhẹn và bắt mồi chủ
động, thức ăn chủ yếu ở giai đoạn này là động vật nổi. Tuổi của PL được tính theo
13
ngày, đầu giai đoạn PL sống trôi nổi, từ PL
3
hoặc PL
5

trở đi chúng bắt đầu chuyển
sang sống đáy, PL chuyển sang sống đáy hoàn toàn ở PL
9
– PL
10
.
Trong phân chia các giai đoạn ở vòng đời Tôm Thẻ Chân Trắng từ khoảng PL
5
trở
đi được gọi là giai đoạn ấu niên.
 Thời kỳ ấu niên
Ở thời kỳ này, hệ thống mang của tôm đã hoàn chỉnh. Tôm chuyển sang
sống đáy, bắt đầu bò bắng chân và bơi bằng chân bơi. Anten 2 và sắc tố thân ngày
càng phát triển. Thời kỳ này tương đương với cuối giai đoạn tôm bột và đầu tôm
giống trong sản xuất tức là PL
5
- PL
20
.
 Thời kỳ thiếu niên
Tôm bắt đầu ổn định tỷ lệ chân, thelycum và petasma được hình thành
nhưng chưa hoàn chỉnh, hai nhánh của petasma còn tách biệt. Giai đoạn này tương
đương với giai đoạn ương giống và nuôi thịt trong sản xuất. Cuối thời kỳ ấu niên
bắt đầu xuất hiện sự sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính- con cái lớn
nhanh hơn con đực.
 Thời kỳ sắp trưởng thành
Tôm trưởng thành về mắt sinh dục: cơ quan sinh dục ngoài đã hoàn thiện,
tôm đực bắt đầu có tinh trùng trong túi tinh, tôm cái đã tham gia giao vỹ lần đầu.
Hiện tượng sinh trưởng không đồng đều giữa 2 giới tính thể hiện rõ rệt hơn trong
thời kỳ này.

 Thời kỳ trưởng thành
Tôm có khả năng tham gia sinh sản, chúng sống ở vùng xa bờ, nơi có đodj
trong cao và độ mặn ổn định.
b) Vòng đời của Tôm Thẻ Chân Trắng
Ở thời kỳ ấu niên và thiếu niên Tôm Thẻ sống ở vùng cửa sông. Ở giai đoạn
sắp trưởng thành và trưởng thành, khi tôm có thể tham gia sinh sản lần đầu thì
chúng sống ở vùng triều ở độ sâu khoảng 7- 20m nước. Đối với những con trưởng
thành và sản phẩm sinh dục đã chín hoàn toàn thì chúng di chuyển ra vùng biển
khơi ở độ sâu khoảng 70m nước và tham gia sinh sản tại đây.
Trứng và ấu trùng Mysis sống và phát triển tại vùng biển khơi theo dòng
nước trôi dạt vào bờ. Khi đến vùng triều thì ấu trùng đã chuyển sang giai đoạn
Postlarvae và tiếp tục theo thủy triều trôi dạt vào vào vùng cửa sông, phát triển
thành ấu niên và tiếp tục vòng đời của chúng.
14
1.2.2 Đặc điểm sinh trưởng của Tôm Thẻ Chân Trắng
(Litopenaeus vannamei Boone, 1931)
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
Sự tăng trưởng về kích thước của Tôm Thẻ có dạng bậc thang, thể hiện sự
sinh trưởng không liên tục. Kích thước giữa hai lần lột xác hầu như không tăng
hoặc tăng không đáng kể và sẽ tăng vọt sau mỗi lần lột xác. Trong khi đó sự tăng
trưởng về trọng lượng có tính liên tục hơn. Tôm Thẻ có tốc độ tăng trưởng tương
đối nhanh, tốc độ tăng trưởng tùy thuộc vào từng loài, từng giai đoạn phát triển,
giới tính và điều kiên môi trường, dinh dưỡng
Từ ấu trùng đến đầu thời kỳ thiếu niên, không có sự khác biệt về tốc độ tăng
trưởng giữa tôm đực và tôm cái. Tuy nhiên, bắt đầu từ cuối thời kỳ thiếu niên, con
cái lớn nhanh hơn con đực.
 Sự tăng trưởng của ấu trùng
Sự tăng truởng về chiều dài của ấu trùng tôm như sau: Giai đoạn Nauplius
tăng trên dưới 10%/1 lần lột xác. Lần lột xác từ N
6

chuyển sang Z
1
chiều dài tăng
86%, gần gấp 2 lần, và đây cũng là lần tăng chiều dài lớn nhất trong vòng đời của
Tôm Thẻ. Từ Z
1
chuyển sang

Z
2
tăng 25%, Z
2
chuyển sang Z
3
tăng 13,7% ( giảm
½ so với từ Z
1
sang Z
2
), Z
3
chuyển sang M
1
tăng 13,2%. M
1
chuyển sang

M
2
và M

2
chuyển sang M
3
tăng >20%. M
3
chuyển sang P
1
tăng 12,6%. Trong giai đoạn
Postlarvae, sự tăng trưởng về chiều dài không đều, đa số ≤ 10%/ lần lộ xác.
Tỉ lệ chiều rộng và chiều dài cơ thể (R/D) lớn nhất ở giai đoạn Nauplius
(50%). Riêng N
1
, R/D = 53,1%. Tỉ lệ này giảm trong quá trình sinh trưởng, sau
mỗi lần lột xác cơ thể thon hơn. Tỉ lệ R/D thấp nhất từ P
1
đến P
4
(R/D = 1/10), sau
đó tăng lên từ P
5
đến P
13
và giảm từ P
13
đến P
17.
Từ P
17
đến P
21

, tỉ lệ R/D ổn định,
đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ ấu niên.
Tỉ lệ chiều dài giáp đầu ngực và chiều dài toàn thân (CL/ TL): từ P
1
đến P
14
:
27-28%, từ P
15
đến P
21
: 32%, từ P
21
trở đi sắp xỉ 30% và hầu như không thay đổi
nữa, đánh dấu sự chuyển sang thời kỳ thiếu niên.
Từ ấu niên đến trưởng thành
Tôm ấu niên tăng trưởng CL 1-2mm/tuần, tương đương với TL 0,8mm/ngày.
Trong tuần đầu tôm tăng khối lượng thân gấp 6 lần. Khi vào trong cửa sông 6-7
tuần, tốc độ tăng trưởng giảm, chỉ còn gấp 2 lần/ 2 tuần. Khi đạt CL ≈ 10mm, tốc
độ tăng trưởng bắt đầu có sự khác biệt giữa hai giới.
15
Trong thực tế sản xuất, P
10
có chiều dài thân từ 9- 11mm sau 7- 10 ngày
ương đạt cỡ 1-2 cm (TL), sau 15- 20 ngày đạt cỡ 2- 3cm, sau 20- 25 ngày đạt cỡ 3-
5 cm và sau 25- 30 ngày đạt cỡ 4- 6 cm. Nếu thả nuôi trong ao từ P
15
sau 1 tháng
nuôi đạt khoảng 1-2 g/con. Tôm nuôi 4 tháng đạt kích cỡ thương phẩm, đa sỗ loại
3 (30- 40 con/kg), một số loại 2 (20- 30 con/kg). Ở những ao nuôi điều kiện tốt (độ

mặn 10- 25‰) tôm tăng trưởng nhanh có thể thu hoạch đạt loại 3, loại 2 sau 2,5 – 3
tháng nuôi.
 Tuổi thọ của tôm Thẻ
Tôm Thẻ có tuổi thọ ngắn, tuổi thọ của tôm đực thấp hơn tôm cái. Trong
điều kiện sinh thái tự nhiên, nhiệt độ nước 30- 32°C, độ mặn 20- 40‰ từ tôm bột
đến thu hoạch mất 180 ngày, cỡ tôm thu trung bình 40g/con, chiều dài từ 4cm tăng
lên tới 14cm. Tuổi thọ trung bình của Tôm Thẻ > 32 tháng.
c) Sự lột xác
 Cơ chế sinh học của quá trình lột xác
Để sinh trưởng được, tôm cũng như tất cả các động vật chân khớp khác phải
tiến hành lột xác. Sự lột xác chỉ là kết quả cuối cùng của 1 quá trình phức tạp, trải
qua nhiều giai đoạn, được chuẩn bị từ nhiều ngày hoặc nhiều tuần trước đó. Quá
trình chuẩn bị diễn ra ở tất cả các mô có liên quan thông qua hoạt động như: huy
động nguồn lipid dự trữ ở gan, tụy, sự phân bào gia tăng và các ARN thông tin
được tạo thành và tiếp theo là quá trinh sinh tổng hợp các protein mới. Trong thời
gian này trạng thái của tôm cung thay đổi.
+ Giai đoạn sau lột xác
Là giai đoạn kế tiếp ngay sau khi tôm lột xác. Đây là khoảng thời gian từ khi
nước được hấp thụ và máu qua biểu bì, mang, ruột để làm tăng thể tích máu, căng
lớp vỏ mới còn mềm dẻo cho đến khi lớp vỏ mới đã cứng lại. Giai đoạn này có thể
kéo dài đối với tôm lớn hoặc vài giờ đối với tôm nhỏ.
+ Giai đoạn giữa lột xác
Đây là giai đoạn dài nhất theo sự phân chia này. Suốt giai đoạn này võ đã
xứng lại nhờ sự tích tụ chất khoáng và protein. Vỏ dày và đầy đủ cả 3 phần.
+ Giai đoạn trước lột xác
Lớp mô sừng ngoài nới hình thành vào đầu giai đoạn trước lột xác. Cuối giai
đoạn trước lột xác hình thành tiếp lớp giữa mô sừng mới. Lúc này lớp vỏ cũ đã
16
bong ra khỏi lớp biểu bì ở phía dưới làm cho vỏ tôm có màu trắng đục. Đây là một
trong những dấu hiệu để nhận biết sự lôt xác sắp xảy ra.

Ở giai đoạn này năng lượng đựoc điều động từ gan, tụy, một phần vỏ cũ cũng được
hấp thụ lại, hàm lượng hormone lột xác trong máu tăng cao và sau đó giảm đột
ngột ngay trước khi sự lột xác sắp xảy ra.
+ Giai đoạn lột xác
Chỉ kéo dài vài phút, bắt đầu từ khi lớp vỏ cũ tách ra ở mặt lưng nơi tiếp
giáp giữa vỏ đầu ngực và vỏ phần bụng và kết thúc khi tôm thoát hẳn lớp vỏ cũ.
Cũng có tác giả chi sự lột xác làm 5 giai đoạn: A- Ngay sau lột xác, B- Sau lột xác,
C- Giữa lột xác, D- Trước lột xác, E- Lột xác. Theo sự phân chia này thì giai đoạn
D (trước lột xác) là dài nhất. Mỗi giai đoạn được phân chia thành nhiều giai đoạn
phụ, căn cứ trên các biến đổi về hình thái rất chi tiết và phức tạp.
 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự lột xác
+ Ánh sáng: cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng đều ảnh hưởng đến
quá trình lột xác. Khi han chế thời gian chiếu sáng sẽ ức chế thời gian lột xác của
tôm, ngược lại nếu kéo dài thời gian chiếu sáng hơn bình thường sẽ rút ngắn thời
gian lột xác.
+ Nhiệt độ: nhiệt độ ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến quá trình lột xác.
Nhiệt độ thấp hơn 14- 18ºC, sự lột xác bị ức chế. Nhiệt độ cao trong khoảng thích
hợp, tôm tăng cường hoạt động trao đổi chất, tích lũy dinh dưỡng, chuẩn bị đầy đủ
cho quá trình lột xác xảy ra.
+ Độ mặn: ở độ mặn thấp trong khoảng thích hợp tôm sẽ tăng cường lột xác,
sinh trưởng nhanh hơn.
+ Các yếu tố, điều kiện môi trường khác: pH, hàm lượng NO
3
-, NO
2
-
,
NH
4
-,

độ cứng đều có sự ảnh hưởng đến sự lột xác. Việc bón vôi thường xuyên ở các ao
nuôi ít thay nước sẽ làm tăng độ cứng của nước làm cản trở sự lột xác xủa tôm.
+ Chu kỳ lột xác có liên quan đến chu kỳ thủy triều, thông thường đầu chu
kỳ thủy triều tôm mới lột xác rộ.
2.3. Đặc điểm dinh dưỡng và nhu cầu về chất của tôm thẻ chân trắng
(Nguyễn Trọng Nho, Tạ Khắc Thường, Lục Minh Diệp, 2006)
a) Đặc điểm dinh dưỡng
17
Trong thiên nhiên thức ăn của tôm thay đổi theo từng giai đoạn phát triển và có
liên quan mật thiết đến sinh vật phù du và sinh vật đáy. Tôm chân trắng là động vật
ăn tạp.
 Giai đoạn Nauplius
Tôm dinh dưỡng bằng noãn hoàng dự trữ, chưa ăn thức ăn ngoài. Đến cuối
N
6
hệ tiêu hóa bắt đầu có sự chuyển động nhu động.
 Giai đoạn Zoea
Ấu trùng Zoea thiên về ăn lọc, ăn mồi liên tục, thức ăn là thực vật nổi, chủ
yếu là tảo Silic như: Skeletonema costatum, Chaetoceros, ossinodiscus, Nitzschia,
Rhizosolena Ở giai đoạn này ấu trùng ăn mồi liên tục, thức ăn trong ruột không
ngắt quảng, đuôi phân dài cho nên mật độ thức ăn trong môi trường nước phải đạt
mật độ đủ cho Zoea có thể lọc mồi liên tục suốt giai đoạn này. Mật độ thức ăn tăng
dần từ Z
1
đến Z
3
. Ngoài hình thức ăn lọc là chủ yếu, ở giai đoạn này ấu trùng còn
có khả năng bắt mồi chủ động. Khả năng này tăng dần từ Z
1
đến Z

3
đặc biệt là cuối
Z
3
trở đi.
 Giai đoạn Mysis
Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như luân trùng, ấu
trùng Nauplius Copepoda, Nauplius artemia, ấu trùng động vật thân mền Tuy
nhiên, thực tế sản xuất cho thấy ấu trung Mysis vẫn có khả năng ăn được tảo Silic.
Giai đoạn Postlarvae
Tôm bắt mồi chủ động. Thức ăn chủ yếu là động vật nổi như: Artemia, Copepoda,
ấu trùng của giáp xác, ấu trùng của động vật thân mềm, Cần chú ý ở giai đoạn
này, tôm thích ăn mồi sống nên trong sản xuất nếu cho ăn thiếu N- Artemia,
Postlarvae sẽ ăn thịt lẫn nhau.
 Thời kỳ ấu niên đến trưởng thành
Từ thời kỳ ấu niên, Tôm Thẻ thể hiện tính ăn của loài (ăn tạp, thiên về ăn
động vật). Thức ăn của tôm là các động vật khác như giáp xác, động vật thân mềm,
giun nhiều tơ, cá nhỏ.
Trong sản xuất giống nhân tạo ấu trùng Tôm Thẻ còn được cho ăn các loại
thức ăn nhân tạo tự chế biến như lòng đỏ trứng, sửa đậu nành, thịt tôm, thịt hầu và
các loại thức ăn nhân tạo sản xuất công nghiệp thường gọi là thức ăn tổng hợp.
b) Nhu cầu dinh dưỡng của Tôm Thẻ
 Protein
18
Protein là thành phần dinh dưỡng quan trọng trong thức ăn của tôm, là
nguyên liệu tạo các mô và các sản phẩm khác trong cơ thể và còn là chất xúc tác,
thực hiện chức năng vận chuyển, bảo vệ…Nhu cầu protein thay đổi tùy theo giai
đoạn phát triển của tôm, Postlarvae yêu cầu tỉ lệ 40% protein trong thức ăn, cao
hơn các giai đoạn sau.
Tôm chân trắng không cần khẩu phần ăn có lượng protein cao như tôm sú. Theo

nghiên cứu của Colvin and Brand (1977) là 30%, Kureshy and Davis (2002) là 32%.
Trong đó, thức ăn có lượng protein 35% được coi như là thích hợp hơn cả, trong đó
khẩu phần ăn có thêm mực tươi rất được tôm ưa chuộng.
Men tiêu hoá protein của tôm chủ yếu ở dạng trypsine, không có pepsine (Vonk,
1970). Ngoài ra trong dạ dày tôm có 85% số vi khuẩn tạo thành chitinase. Ngoài
việc cung cấp dinh dưỡng, quan trọng nhất là giúp tôm có khả năng tiêu hoá
chitinase một phức hợp của protein.
 Hydratcacbon
Hydratcacbon là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu cho cơ thể (khoảng
60% năng lượng cho hoạt động sống của động vật). Tuy khả năng sản sinh ra nhiệt
lượng của hydratcacbon kém hơn so với lipid, song hydratcacbon lại có ưu thế hoà
tan được, vì vậy quá trình tiêu hoá hấp thu dễ dàng.
Ở giáp xác có nhiều men tiêu hoá hydratcacbon như: amylaza, maltaza, kitinaza,
cellulaza (Kooiman, 1964), nhờ đó giáp xác có thể tiêu hoá một thành phần
cellulose nên chúng có thể ăn thực vật và rong tảo.
Thức ăn nhiều xơ sẽ đưa kết quả xấu vì cơ quan ruột, dạ dày của tôm ngắn, thức ăn
nhanh chóng đi qua và thời gian tiêu hoá bị hạn chế. Nhưng chất xơ đóng vai trò là
chất nền cho quá trình lên men của vi sinh vật sống trong ống tiêu hoá, vì vậy trong
thức ăn tôm người ta thường bổ sung khoảng 5% bột cỏ hoặc rong biển. Ngoài vai
trò là chất nền trong chất xơ tồn tại một lượng nước nhất định, chính lượng nước
này có tác dụng duy trì dịch ruột làm tăng quá trình hấp thu chất dinh dưỡng.
 Lipid
Cùng với Hydratcacbon thì chất béo tạo ra năng lượng. Nếu năng lượng của
thức ăn quá thấp thì tôm sẽ sử dụng nguồn năng lượng từ các dưỡng chất khác, như
protein để thoả mãn nhu cầu về năng lượng, làm nâng cao chi phí thức ăn. Nếu năng
lượng trong thức ăn quá cao thì sẽ làm giảm sự hấp thu thức ăn và chất đạm tiêu hoá
không đủ để tôm phát triển.
19
Thành phần lipid có trong thức ăn tôm khoảng 6% - 7,5% không nên quá 10%. Với
hàm lượng lipid trong thức ăn >10% sẽ dẫn đến giảm tốc độ sinh trưởng, tăng tỉ lệ

tử vong.
 Vitamin
Vitamin là nhóm chất hữu cơ mà động vật yêu cầu số lượng rất ít so với các
chất dinh dưỡng khác nhưng cần thiết cho sự sinh trưởng, phát triển bình thường
của cơ thể và duy trì cuộc sống của nó, cơ thể động vật có nhu cầu một lượng nhỏ
trong thức ăn để đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển bình thường.
Nhu cầu vitamin ở tôm tùy thuộc vào kích cỡ, tuổi, tốc độ sinh trưởng, điều
kiện dinh dưỡng, nhu cầu từng loại vitamin thực tế cho từng loài tôm, cho từng giai
đoạn vẫn chưa được biết nhiều. Vì thế trong thức ăn, lượng vitamin bổ sung
thường vượt qua nhu cầu thực tế của tôm nhằm bù đắp lượng mất đi do hòa tan
trong nước, do phân hủy trong quá trình sản xuất thức ăn và bảo quản.
Vitamin nhóm B, C và E được cho là cần thiết phải cho vào thức ăn. Vitamin D, C
khi dùng với số lượng nhiều đã cho thấy phản ứng đối kháng, dẫn đến bệnh thừa
vitamin. Trong thành phần các premix vitamin dùng cho tôm luôn có vitamin A và
K.
 Chất khoáng
Giống như các động vật thủy sinh khác, tôm có thể hấp thụ và bài tiết chất
khoáng trực tiếp từ môi trường nước thông qua mang và bề mặt cơ thể. Vì vậy, nhu
cầu chất khoáng ở tôm phụ thuộc nhiều vào hàm lượng chất khoáng có trong môi
truờng tôm đang sống.
2.4. Đặc điểm sinh sản
2.4.1. Cơ quan sinh sản
 Cơ quan sinh dục đực
Cơ quan sinh dục đực bên trong của Tôm Thẻ gồm một đôi tinh hoàn và đôi
ống dẫn tinh. Đôi tinh hoàn trong suốt không sắc tố, nằm ngoài mặt lưng từ vùng
tim đến gan tụy. Đôi túi tinh đổ ra hai lỗ sinh dục ở gốc đôi chân bò 5. Túi tinh có
chứa tinh trùng sẽ có màu xám nhạt hoặc màu trắng sữa. Khi tôm đự là căn cứ để
tuyển chọn tôm đực khi nuôi tôm bố mẹ.
Cơ quan sinh dục đực bên ngoài bao gồm Petasma và đôi phụ bộ đựuc.
Petasma do 2 nhánh trong của đôi chân bụng 1 biến thành, đôi phụ bộ đực do 2

nhánh trong của đôi chân bò 2 biến thành.
20
 Cơ quan sinh dục cái
Cơ quan sinh dục cái bên trong bao gồm một đôi buồng trứng và ống dẫn
trứng, đôi ống dẫn trứng đỗ vào 2 lỗ đẻ ở đốt ngoài đôi chân ngực 3.
Cơ quan sinh dục cái bên ngoài là Thelycum, có nhiệm vụ nhận và giữ túi
tinh từ tôm đực chuyển sang. Thelycum nằm giữa đôi chân ngực 4 và 5.
 Sự phát triển buồng trứng ở Tôm Thẻ
Sự phát triển buồng trứng ở Tôm Thẻ được chia làm 5 giai đoạn. Các đặc
điểm chính của từng giai đoạn như sau:
+ Giai đoạn 1 ( chưa phát triển): buồng trứng mềm, nhỏ, trong, không nhìn
thấy qua vỏ kitin, giai đoạn này chỉ có ở tôm con.
+ Giai đoạn 2 ( phát triển): buồng trứng lớn hơn kích thước ruột, có màu
trắng đục, hơi vàng, rải rác có các tế bào sắc tố đen (tế bào melamin) khắp bề mặt.
+ Giai đoạn 3 ( gần chín): kích thước buồng trứng tăng nhanh, màu vàng
xanh đến xanh nhạt, có thể nhìn thấy rõ qua vỏ kitin.
+ Giai đoạn 4 ( chín): kích thước buồng trứng đạt cực đại, căng tròn, sắc nét.
Ở đốt bụng thứ 1, buồng trứng phát triển lớn, chảy xệ sang hai bên tạo thành cánh
tam giác.
+ Giai đoạn 5 (đẻ rồi): kích thứoc buồng trứng vẫn lớn nhưng buồng trứng
mềm và nhăn nheo, các thùy không căng như giai đoạn 4, buồng trứng có màu xám
nhạt. Trong buồng trứng vẫn còn trứng không đẻ.
2.4.2. Sự giao vĩ và đẻ trứng ở tôm Thẻ
 Sự giao vĩ
Hoạt động giao vĩ của Tôm Thẻ xảy ra chủ yếu vào đêm tôm đẻ trứng. Tôm
cái đựoc gắn túi tinh trước khi đẻ vài giờ hoặc có thể được gắn trước đó vài ngày
( lột xác  thành thục  giao vĩ  đẻ trứng).
Ban đầu một hoặc nhiều con đực cùng đuổi theo con cai ở phía sau. Con đực
thường dùng chủy và râu đẩy nhẹ dưới đuôi con cái. Khi tôm cái rời đáy bơi lên
phía trên, tôm đực bơi theo và tiến lên phía dưới con cái. Sau đó, tôm đực lật ngữa

thân và ôm tôm cái theo hướng đầu đối đầu đuôi đối đuôi hoặc tôm xoay 180° và
giao vĩ ở tư thế đầu đối đuôi.
 Đẻ trứng
+ Hoạt động đẻ trứng:
21
Trước khi đẻ tôm cái thường bơi lội gần sát đáy, vòng quanh bể, thỉnh
thoảng tôm bơi lên trên. Khi đẻ tôm bơi hẳn lên trên, nghiêng thân bơi chậm vòng
vòng trên mặt nước và đẻ trứng. Trứng được phóng ra từ 2 lỗ đẻ ở gốc đôi chân
ngực 3 và chảy ngược về phía sau. Ban đầu trứng chảy ra từ từ, sau đó chảy ra
mạnh thành một làn trắng đục hơi xanh.
+ Mùa vụ đẻ trứng và sức sinh sản:( Thái Bá Hồ, Ngô Trọng Lư, 2006)
Ở Bắc Equado, mùa vụ đẻ rộ từ tháng 4 đến tháng 5. Ở Peru mùa đẻ rộ từ
tháng 12 đến tháng 4. Số lượng trứng đẻ ra tùy theo kích cỡ của tôm mẹ. Nếu tôm
có khối lượng 30- 35g thì đẻ khoảng 100.000 – 250.000 trứng, đường kính trứng
khoảng 0,22mm.
III. TÌM HIỂU NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ TÔM THẺ CHÂN TRẮNG
1. Tình hình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng
1.1. Tình hình sản xuất giống tôm thẻ chân trắng trên thế giới và Việt Nam
Việt nam nói chung và các qốc gia Châu Á nói chung đang đứng trước
những thách thức to lớn, đó là làm thế nào để phát triển bền vững nghề nuôi tôm
trước những đợt dịch bệnh nghiêm trọng.
Mọt giải pháp được nhìu quốc gia sử dụng hiện nay là đa dạng hoá loài nuôi, đi
kèm với việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu trong quy trình
sản xuất nhằm tạo ra đàn giống sạch bệnh và nâng cao chất lượng di truyền.
Tôm thẻ chân trắng được xem là giải pháp lựa chon đa dạng hoá đối tượng
trong nuôi trồng thuỷ sản ở các quốc gia Châu Á. Nhưng trước các thông tin về các
đợt dịch bệnh, gây giảm sút sản lượng nghiêm trọng ở một số quốc gia Châu Mỹ
đã gây tâm lý e ngại cho các nhà quản lý ở các quốc gia có ý định nhập nội, thử
nghiệm và phát triển đối tượng tôm thẻ chân trắng. tuy nhiên những thành công
của các công trình nghiên cứu tôm sạch bệnh và cải thiện chất lượng di truyền của

các nước Châu Mỹ đã mở ra hy vọng cho việc duy trì và phát triển cho nghề nuôi
tôm thẻ chân trắng ở các vùng sinh thái trên thế giới. Ở các quốc gia châu Á, nhiều
nước di nhập và nuôi tôm thẻ chân trắng như Đài Loan, Trung Quốc, Philippin,
Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ.
Ở Việt Nam, tôm thẻ chân trắng đã được di nhập vào những năm 2001 từ
nhìu quốc gia khác ( Mỹ, Trung quốc) cho sản xuất giống và nuôi thương phẩm.
Các công trình nghiên cứu về đối tượng này tại Việt Nam là chưa có. Vì thế, để
22
phát triển nuôi tôm thẻ chân trắng tại Việt Nam cần phải có nghiên cứư xây dụng
quy trình kỹ thuật sản xuất giống và nuôi thương phẩm tôm thẻ chân trắng tại Việt
Nam, góp phần sử dụng có hiệu quả hệ sinh thái các thuỷ vực nuôi là vấn đề cấp
thiết và cấp bách. Kết quả nghiên cứu trong thời gian 2 năm (2003-2004) về "
Nghiên cứư áp dụng quy trình sản xuất giống và cơ sở khoa học phục vụ quy
hoạch vùng nuôi tôm chân trắng sẽ giải quyết được những vấn đề trên".
1.2. Tình hình Sản xuất giống tôm thẻ chân trắng tại địa điểm nghiên cứu
Tại nơi nghiên cứu có 2 công ty sản xuất giống tôm thẻ chân trắng, thứ nhất là công ty
cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam chi nhánh Bình Định III, thứ hai là công ty cổ phần
Việt Úc.
2. Tình hình nghiên cứu sản xuất giống tôm trên thế giới và ở Việt Nam
2.1.Tình hình nghiên cứu trên thế giới
2.1.1. Nghiên cứu về sản xuất giống
Vào giữa năm 1990 đã thành công trong việc nuôi tôm thẻ chân trắng trên
thế giới là kết quả của việc có khả năng nuôi giống tôm bố mẹ có nguồn gốc từ
Mỹ. Phương pháp đầu tiên được thực hiện được bởi viện Hải Dương Học, Hawaii,
đã bắt đầu xây dựng giống không nhiễm bệnh từ phương pháp chọn lọc theo kiểu
chọn dòng.
Vào 2002 công ty CP Group tại Thái Lan đã xây dựng trung tâm cải tiến
giống tôm thẻ chân trắng đạt năng suất và tỷ lệ sống cao.
Nghiên cứu ảnh hưởng nhiệt độ nước lên số lượng và tỷ lệ dị hình của tinh trùng
trong điều kiện nuôi nhốt 42 ngày, Pazec và ctv nhận thấy ở nhiệt độ 26

0
C thì chất
lượng tinh trùng tốt hơn hẳn so với ở 29
0
C và 32
0
C. Cụ thể ở 26
0
C số lượng tinh
trùng là 18,6 triệu tế bào, tỷ lệ dị hình là 99,7%, còn ở 32
0
C thì không thấy xuất
hiện ấu trùng.
Ngoài việc cắt mắt để kích thích sự thành thục và khả năng đẻ, Vaca và ctv còn
dùng kich dục tố Setrotomin(5-Hyđroxytrytamine) ở nồng độ 15 và 50μg/g trọng
lượng cơ thể kích thích tôm đẻ lần thứ hai, tuy nhiên sự thành thục và tỷ lệ đẻ của
tôm cắt mắt cao hơn nhiều so với phương pháp dùng kích dục tố.
2.1.2. Nghiên cứu về phòng và trị bệnh
23
Hiện nay một trong những nguyên nhân chính làm giảm sút sản lượng tôm
trên thế giới là dịch bệnh. Theo thống kê sơ bộ dịch bệnh đốm trắng xảy ra vào 2
năm 1999-2000 đã làm sản lượng tôm giảm sút chỉ còn 11% tổng sản lượng tôm
trên thế giới.
Theo Lighner và Bell (1984-1987), Wyban và Swany (1991) ấu trùng tôm
thẻ chân trắng dể bị nhiễm Vibrio, vi khuẩn dang sợi và các bệnh do nguyên sinh
động vật. Để phòng trị bệnh này ngoài việc thay nước, điều chỉnh các chế độ cho
ăn, dùng các loại hoá chất, cần phải tính đến một nguồn nước sạch trước khi đưa
vào nuôi.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Do rất thận trọng với đối tượng nhập nội mới, nước ta cho dù đã đưa tôm thẻ

chân trắng vào nuôi từ năm 1997 ở Bạc Liêu (công ty Duyên Hải), sau đó ở Phú
Yên (công ty Asia Hawaii Ventures), ở Ninh Thuận (công ty Anh Việt) và Hà Tỉnh
(công ty công nghệ Việt Mỹ); việc sản xuất giống tôm thẻ chân trắng chỉ dừng lại ở
mức tự cung tự cấp trong nội bộ diện tích của các đơn vị nói trên và nhìn chung tỷ
lệ sống trung bình từ Nauplius đến Post dưới 30% (Lại Minh Hưng, 2005).
Từ năm 2002 các nhà khoa học Việt Nam đã bắt đầu đặt vấn đề nghiên cứu
quy trình sản xuất giống thẻ chân trắng như: Viện Hải Dương Học Nha Trang
(nguồn tôm bố mẹ do công ty Việt Linh cung cấp từ Hawaii), viện nghiên cứu
NTTS III Nha Trang nguồn tôm bố mẹ do công ty Asia Hawaii Ventures Phú
Yên), viện nghiên cứu NTTS I Hà Bắc (nguồn tôm bố mẹ do công ty Việt Đức
cung cấp)
Năm 2003, tại trại giống Hạnh Phúc Phú Yên hợp đồng với chuyên gia Thái
Lan sản xuất tôm sú sạch kết hợp với sản xuất thử nghiệm Post từ Nauplius tôm
thẻ chân trắng đạt tỷ lệ sống bình quân 30%.
Hiện nay đã có nhiều trung tâm, trại giống sản xuất tôm thẻ chân trắng đạt năng
suất cao như: Trại giống công ty Việt Úc, trại của Viện Nghiên Cứu NTTS III,
công ty Anh Việt.
Và đã có một số nghiên cứu, đề tài về tôm thẻ chân trắng đã được thực hiện
tại một số địa bàn và đã có kết quả như sau:
24
- Trung tâm Nghiên cứu thủy sản 3 là đơn vị duy nhất được bộ thủy sản chỉ định
nghiên cứu áp dụng kỹ thuật sản xuất giống và cơ sở khoa học phục vụ quy hoạch
vùng nuôi tôm thẻ chân trắng. Kết quả: Đây là đề tài NCKH cấp nhà nước tiến
hành từ 4.2003 đến 12.2004 kết thúc. Đến thời điểm này chúng tôi đã xây dựng
được các chỉ tiêu kỹ thuật trong sản xuất giống và định mức chất lượng tôm bố,
mẹ, trại giống tôm bố, mẹ cũng như các tiêu chuẩn về thiết bị, nhân công, nhân
lực Kết quả nghiên cứu đã được báo cáo lên Bộ Thủy sản. Và khuyến cáo người
dân không tiến hành sản xuất giống tôm chân trắng tại các trại giông tôm sú và
giống tôm khác.
- Theo tạp chí thuỷ sản, số 12/2005: Đào Văn Trí - Nguyễn Thành Vũ Viện nghiên

cứu thuỷ sản III. Nghiên cứu ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu
trùng tôm thẻ chân trắng. Thí nghiệm được thực hiện trong điều kiện môi trường
nước: có độ mặn 28-35ppm, nhiệt độ nước 26-30
o
C, pH 7,5-8,2. Kết quả nghiên thì
ở mật độ 100-150 ấu trùng/lít có sự tăng trưởng lớn nhất và tỷ lệ sông cao nhất.
- Đào Văn Trí và Nguyễn Thành Vũ: Nghiên cứu áp dụng quy trình sản xuất giống
và cở khoa học phục vụ quy hoạch vùng nuôi tôm thẻ chân trắng trong 2 năm
2003- 2004. kết quả về nghiên cứu ảnh hưởng mật độ lên tốc độ tăng trưởng của ấu
trùng: mật độ 100 ấu trùng/lít có sự tăng trưởng cao nhất.
- Tại hội nghị quản lý về giống tôm do Cục Nuôi trồng thủy sản tổ chức ở Khánh
Hòa, ông Nguyễn Danh Ngừ - Chi cục trưởng Chi cục Nuôi trồng thủy sản Quảng
Ninh đã nhận xét, ao đầm như ở Khánh Hòa không thể nuôi được tôm he chân
trắng đúng nghĩa, ao không đảm bảo, nước nông và ô nhiễm chắc chắn sẽ bị bệnh
hoặc tôm không lớn được.
Các đề tài nghiên cứu trên đã đạt được các kết quả nhất định tại các địa bàn nghiên
cứu.
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
25

×