Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI,1 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.43 KB, 7 trang )

ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI

1
I. Địa lý và cư dân.
An Độ là một bán đảo ở Nam Á, từ Đông Bắc đến Tây Bắc có núi chắn ngang,
trong đó có dãy Himalaya nổi tiếng. An Độ chia làm hai miền Nam Bắc lấy dãy
núi Vin-đi-a làm ranh giới. Miền bắc An Độ có hai con sông lớn là sông An
(Indus) và sông Hằng (Gange). Sông An chia làm 5 nhánh, nên vùng đồng bằng ở
5 nhánh sông ấy được gọi là vùng Pungiáp (nghĩa là vùng Năm sông). Tên nước
An Độ là gọi theo tên dòng sông này. Sông Hằng ở phía đông được coi là một
dòng sông thiêng. Từ xưa nhân dân An Độ thường đến khúc sông ở thành phố
Varanadi (Bênarét) để cử hành lễ tắm mang tính chất tôn giáo. Cả hai dòng sông
nàybồi đắp thành hai đồng bằng màu mỡ ở miền bắc An Độ, vì vậy nơi đây đã trở
thành cái nôi của nền văn minh của đất nước này.
Cư dân An Độ gồm hai thành phần chính: người Đraviđa chủ yếu cư trú ở miền
Nam và người Arya chủ yếu cư trú ở miền bắc.

II. Văn hóa Haráppa.
Tài liệu lịch sử giúp chúng ta hiểu biết về thời kỳ này không phải là tài liệu thành
văn mà là tài liệu khảo cổ học. Vì vậy trước năm 1921, giai đoạn lịch sử này chưa
được biết đến.
Năm 1921 và 1922, các nhà khảo cổ học An Độ đã tìm thấy ở Haráppa và
Môhengiô Đarô thuộc lưu vực sông An hai thành phố cùng rất nhiều hiện vật bị
chôn vùi dưới đất. Những hiện vật ấy là di tích của một thời kỳ lịch sử được gọi là
văn hóa Haráppa hoặc nền văn minh lưu vực sông An.

1. Các hiện vật đã tìm thấy.
Haráppa và Môhengiô là hai thành phố rất lớn xây bằng gạch. Xung quanh thành
phố có thành và hào bao bọc. Trong thành phố có các đường phố ngang dọc thẳng
tắp. Mỗi thành phố có hàng trăm nhà và cửa hiệu lớn nhỏ, trong đó phần nhiều là
nhà hai tầng. Trong nhà thường có đầy đủ tiện nghi như bếp, phòng tắm, ống dẫn


nước…
Ở các di chỉ này, còn tìm thấy nhiều công cụ sản xuất, vũ khí, đồ dùng trong đời
sống hàng ngày, đồ trang sức, đồ tế lễ và hơn 3000 con dấu có khắc chữ đồ họa.
Các dụng cụ đó, có thứ bằng đồng hoặc đồng thau, có thứ bằng đá.

2. Tình hình xã hội.
Những hiện vật phát hiện được cho biết rằng trong xã hội thời kỳ đó đã có sự phân
hóa giàu nghèo rất rõ rệt. Việc phát hiện ra chữ viết, hơn nữa trên một số con dấu
có ghi những chữ như “người cầm quyền” (Sasa), “người cai trị” (Pata), “vua của
những ông vua” (Reja – reja) v.v… đã nói lên rằng xã hội thời văn hóa Haráppa là
xã hội có nhà nước.
Nền văn minh lưu vực sông An tồn tại từ khoảng đầu thiên kỷ III đến nửa đầu
thiên kỷ II TCN thì bị hủy diệt. Nguyên nhân của sự hủy diệt đó là nạn lụt do nước
sông An dâng lên. Cư dân ở đây phải di cư sang phía đông bỏ lại các thành phố
của họ bị vùi dần xuống lòng đất.

III. THỜI KỲ VÊ ĐA.
Từ giữa thiên kỷ II đến giữa thiên kỷ I TCN, Lịch sử An Độ được phản ánh trong
các tác phẩm văn học gọi là Vêđa, vì vậy thời kỳ này được gọi là thời Vê đa.
Vêđa vốn nghĩa là “hiểu biết”. Vêđa có 4 tập là Rích Vêđa, Xama Vêđa, Atácva
Vêđa và Yagiua Vêđa, trong đó Rích Vêđa là xưa nhất và quan trọng nhất. Rích
Vêđa gồm 1028 bài ca được sáng tác vào khoảng giữa thiên kỷ II đến cuối thiên
kỷ II TCN, còn ba tập Vêđa khác thì được sáng tác vào khoảng đầu thiên kỷ I đến
giữa thiên kỷ I TCN, vì vậy thời kỳ Vêđa có thể chia làm hai thời kỳ nhỏ là:
- Thời kỳ Rích Vêđa (khoảng năm 1500 – 1000 TCN).
- Thời kỳ Hậu Vêđa (khoảng năm 1000 – 600 TCN).
Chủ nhân của thời kỳ Vêđa là người Arya (nghĩa là “người cao qúy” ) mới từ
trung Á di cư vào An Độ. Địa bàn sinh sống của họ trong thời kỳ này chủ yếu là
vùng lưu vự sông Hằng.


1. Tình hình kinh tế.
Trong thời Rích Vêđa, người Arya đang sống trong giai đoạn cuối của xã hội
nguyên thủy. Ngành kinh tế quan trọnh nhất là chăn nuôi. Gia súc rất được coi
trọng nhất là bò. Bởi vậy, trong ngôn ngữ lúc bấy giờ “tù trưởng bộ lạc” có nghĩa
là kẻ chiếm hữu bò cái”, “chiến sĩ” có nghĩa là “người chiến đấu vì bò cái”.
Dần dần, do học tập được những kinh nghiệm sản xuất của dân bản địa, người
Arya đã chuyển sang đời sống định cư lấy nông nghiệp làm nghề chính.

2. Sự ra đời của nhà nước.
Do kinh tế phát triển, sự phân hóa giai cấp cũng diễn ra rõ rệt, đến khoảng cuối
thiên kỷ II TCN, thủ lĩnh quân sự dần dần biến thành người có nhiều quyền uy và
chức vụ ấy trở thành cha truyền con nối. Họ đã biến thành những ông vua. Nhà
nước đã ra đời.

3. Chế độ Vácna. (đẳng cấp)
Trong thời kỳ lịch sử này ở An Độ đã xuất hiện một chế độ đẳng cấp có ảnh
hưởng rất quan trọng và lâu dài trong xã hội nước này, đó là chế độ Vácna.
Chữ Vácna trong tiếng Xăng xkrít (một loại cổ ngữ của An Độ) có nghĩa là “màu
sắc” (chỉ màu da) nhưng thực ra chế độ Vácna là chế độ chia cư dân thành 4 đẳng
cấp có quyền lợi, nghĩa vụ và địa vị xã hội khác nhau. Bốn đẳng cấp đó là Braman
(Bàlamôn), Ksatơria, Vaisya, Suđra.
Đẳng cấp Bàlamôn gồm những người làm nghề tôn giáo.
Đẳng cấp Ksatơrya gồm các chiến sĩ.
Đẳng cấp Vaisya gồm những người chăn nuôi, làm ruộng, buôn bán…
Đẳng cấp Suđra gồm thợ thủ công, đầy tớ. Họ vốn là con cháu của những bộ lạc bị
bại trận.
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đời của chế độ Vácna.
- Theo truyền thuyết: các đẳng cấp Braman, Ksatơrya, Vaisya và Suđra được thần
Brama tạo ra theo thứ tự từ miệng, tay, đùi và bàn chân của thần.
- Sự thực, sự xuất hiện Vácna là do sự phân hóa giai cấp, sự phân công về nghề

nghiệp và sự phân biệt về bộ tộc.
Sự khác nhau giữa các đẳng cấp:
Giữa bốn đẳng cấp ấy có sự khác nhau về địa vị xã hội mà chủ yếu là về tôn giáo,
hôn nhân và quyền lợi trước pháp luật.
Về tôn giáo, chỉ có ba đẳng cấp trên mới được cúng thần và đọc kinh Vêđa, trong
đó chỉ có Bàlamôn mới được giảng kinh Vêđa và phụ trách việc cúng lễ. Do vậy,
ba đẳng cấp trên được coi là sinh hai lần, còn Suđra không được tham dự các nghi
lễ tôn giáo nên chỉ được coi là sinh một lần.
Về hôn nhân, chế độ Vácna quy định chỉ nên kết hôn với người cùng đẳng cấp.
Tuy nhiên, nếu cần thiết thì đàn ông ở các đẳng cấp trên có thể lấy vợ ở các đẳng
cấp dưới, nhưng phụ nữ các đẳng cấp dưới không được kết hôn với đàn ông các
đẳng cấp dưới.
Về quyền lợi trước pháp luật , Nếu cùng phạm tội như nhau thì các đẳng cấp trên
được xét xử nhẹ hơn các đẳng cấp dưới; nếu là nạn nhân thì đẳng cấp càng cao thì
được bồi thường càng nhiều.

Trong bốn đẳng cấp ấy, đẳng cấp Bàlamôn được quan niệm là ưu tú nhất, thân thể
họ được coi là bất khả xâm phạm.
Ngược lại, Suđra là đẳng cấp thấp kém nhất. Suđra không những không được dự
việc tế lễ mà thậm chí họ cũng không được bê thi thể của Bàlamôn đặt lên giàn lửa
khi làm lể hỏa táng.
Dưới bốn đẳng cấp đó còn có những nhười tiện dân gọi là Paria. Họ bị coi là hạng
người đê tiện, ô uế, đáng ghê tởm. Vì vậy họ phải sống cách biệt với xã hội.
Thân phận của những người trong các đẳng cấp ấy cứ cha truyền con nối và chế độ
Vacna tồn tại lâu dài trong lịch sử An Độ.

4. Đạo Bàlamôn.
Dầu thời Vê đa, cư dân An Độ thờ rất nhiều thần: đá, cây, cư dân, các động vật,
người chết, sông, núi… Đến những thế kỷ đầu thiên kỷ I TCN, các quan niệm tôn
giáo ấy được gọi chung là đạo Bàlamôn, đồng thời một hệ thống giáo lý tương đối

hoàn chỉnh cũng được hình thành.
Đối tượng thờ cúng cao nhất của đạo Bàlamôn là thần Brama. Đó là linh hồn vũ
trụ, là đấng Hoàn hảo sáng tạo ra thế giới và muôn loài, là vị thần cao nhất, là chúa
tể của các thần.
Tuy nhiên thần Brama có phần trừu tượng đối với nhân dân, nên có nơi người ta
thờ thần Visnu, thần nhân ái làm cho ruộng đồng tươi tốt như là vị thần cao nhất;
Có nơi lại thờ thần Siva, thần ác, thần phá hoại mọi lực lượng tự nhiên là vị thần
cao nhất. Ngoài ra đạo Bàlamôn còn thờ nhiều loại thần động vật như voi, khỉ, và
nhất là bò.
Về sau, để thống nhất đối tượng thờ cúng của đạo Bàlamôn, người ta quan niệm
thần Brama, thần Visnu và thần Siva là một bộ ba thể hiện một qúa trình: sáng tạo,
bảo tồn và hủy diệt.
Về mặt xã hội, đạo Bàlamôn là công cụ đắc lực để bảo vệ sự phân chia đẳng cấp.
Cũng chính vì vậy, đến giữa thiên kỷ I TCN, đạo Bàlamôn bị suy thoái và nhường
chỗ cho một tôn giáo mới là đạo Phật.

IV. ẤN ĐỘ TỪ THẾ KỶ VI TCN ĐẾN THẾ KỶ III CN.

1. Tình hình chính trị.

a. Các quốc gia ở miền Bắc An Độ và sự xâm lược của Alếchxăng Makêđônia.
Bắt đầu từ thế kỷ VI-TCN, An Độ mới có các tác phẩm lịch sử ghi chép về tình
hình chính trị của đất nước mình. Lúc bấy giờ ở miền Bắc An Độ có 16 nước,
trong đó mạnh nhất là nước Magađa.

Nước Magađa ở hạ lưu sông Hằng. Đây là nơi đất đai màu mỡ thích hợp với việc
phát triển nông nghiệp, đồng thời là nơi có nhiều thuận lợi trong việc buôn bán
bằng đường biển, do vậy Magađa đã lớn mạnh nhanh chóng. Trên cơ sở ấy,
Magađa không ngừng chinh phục các nước khác, mở rộng phạm vi thống trị của
mình đến tận miền Đông Bắc và miền Trung An Độ.

Cũng thời gian ấy, ở miền Tây Bắc An Độ cũng chia thành nhiều nước nhỏ, trong
đó chỉ có nước Po là tương đối lớn.
Lúc bấy giờ, ở Tây Á có nước Ba Tư hùng mạnh một thời, nhưng đến năm 328
TCN, Ba Tư bị Makêđônia tiêu diệt.
Nhân đà thắng lợi ấy, năm 327 TCN, quân Makêđônia tấn công vào miền Tây Bắc
của An Độ. Quân đội của nước Po đã chiến đấu rất dũng cảm nhung cuối cùng bị
thất bại. Alếchxăng định tiến sang phía đông tấn công nước Magađa nhưng quân sĩ
không ủng hộ kế hoạch đó vì họ đã qúa mệt mỏi sau một cuộc trường chinh nhiều
năm. Alếchxăng phải ra lệnh rút quân chỉ để lại một số quân chiếm đóng hai cứ
điểm Buxêphan và Nikêa mà thôi. Những vùng bị Alếchxăng chinh phục ở An Độ
vẫn được giữ nguyên chính quyền cũ nhưng phải lệ thuộc vào những kẻ đứng đầu
hai cứ điểm đó.

b. Vương triều Môrya. (321 – 187 TCN)
Ngay sau khi quân Alếchxăng rút lui, ở An Độ đã dấy lên phong trào đấu tranh
giải phóng chống lại sự chiếm đóng của quân Makêđônia. Thủ lĩnh của phong trào
này là Sanđragúpta, biệt hiệu là Môrya (nghĩa là chim công). Quân chiếm đóng
Makêđônia bị đuổi khỏi An Độ, Sanđragúpta làm chủ được cả vùng Pungiáp. Tiếp
đó, ông tiến quân về phía đông giành được ngôi vua ở Magađa, lập nên một triều
đại mới gọi là Vương triều Môrya, Đó là triều đại huy hoàng nhất trong lịch sử An
Độ cổ đại. Theo truyền thuyết đến khoảng năm 300TCN, Sanđragúpta theo đạo
Giaina và sau đó nhịn ăn tự tử theo tập quán của tôn giáo này.
Đến thời cháu của Sanđragúpta là Axôca (273 –236 TCN), nước Magađa đạt đến
giai đoạn cường thịnh nhất. Axôta là ông vua nổi tiếng nhất trong lịch sử An Độ
cổ đại. Axôca không ngừng tấn công các nước khác, do đó cương giới Magađa
càng được mở rộng. Các mặt kinh tế, văn hoá của Magađa thời kỳ này cũng phát
triển rõ rệt. Ở kinh đô Pataliputơra và một số thành phố khác đã xây dựng nhiều
cung điện, đền chùa, nhà cửa, bệnh viện, phòng phát thuốc v.v… Đạo Phật ra đời
từ khoảng thế kỷ VI TCN đến thời kỳ này được chấn chỉnh và trở thành quốc giáo.
Như vậy, thời Axôca là thời kỳ ổn định, hùng mạnh của vương triều Môrya, nhưng

sau khi ông chết, vương triều này suy sụp nhanh chóng và nước Magađa thống
nhất dần dần tan rã.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×