Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Quyển Đệ Thập Thất Thơ của các danh-nhân đi sứ An-nam, từ niên-hiệu Chí-Nguyên trở xuống pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.48 KB, 14 trang )

Quyển Đệ Thập Thất
Thơ của các danh-nhân đi sứ An-nam, từ niên-hiệu Chí-Nguyên trở
xuống

Thị-Lang Lý-Tư-Diễn hiệu Vũ-Sơn
Thơ làm trong tiệc theo lời yêu-cầu của Thế-Tử
Bài I
Càn-khôn nay gặp hội trinh-nguyên,
Trăng sáng làu làu, chướng-khí tan.
Cõi bắc ruỗi sao ban cáo-mệnh,
Trời nam xuân tỏa khắp giang-san.
Cảm-thông thờ chúa lòng tua kính,
Kiêng sợ oai trời nước mới an.
Quy thuận nay mai chầu Tử-bệ
Non mòn biển cạn vững muôn ngàn.
Bài-thơ nầy Thế-Tử họa vần ngay trong tiệc rượu, có hai câu như sau:
"Tự thẹn không tài may được đất,
Chỉ nhân hay ốm lỗi chầu trời".
b[]Bài II[/b]
Mưa móc ơn trên khắp dẫy đầy
Chiếu son phượng ngậm 1 xuống từng mây.
Chiến-trần rửa sạch sông Ngân-Hán 2,
Hòa-khí lan tràn chốn hải-nhai
Tỏ rõ thư Văn 3 ban một lá,
So bằng đàn Thuấn 4 gẫy năm dây.
Trời che đất chở nam như bắc,
Chẳng sợ vân lôi 5 lại có ngày.
Thế-Tử tặng vàng bạc. Tư-Diễn khước từ. Thế-Tử nhắc tích Lục-Giả ngày
xưa đi sứ, Triệu-Đà cũng tặng vàng bạc, v.v , ân cần nài ép. Tư-Diễn bèn
làm một bài thơ từ tạ như sau:
Lời vàng căn-dặn lúc lên đường,


Chín bệ vì dân nặng xót thương.
Yên Thục, Tương-Như vâng thảo hịch 6,
Sứ Nam, Lục-Giả há tham vàng.
Tuyết băng trong trắng lòng thần-tử,
Trời đất sinh thành, lượng đế-vương.
Ao ước từ nay trời thuận ý,
Thê hàng 7 chức cống mỗi năm thường.
Quan kỳ (xem đánh cờ)
Tréo bàn ngồi mát lúc ban trưa,
Cao thấp xem chơi một cuộc cờ.
Vôi trắng, trầu xanh, cau lại dẻo,
Nhà ai hoa bưởi nức thơm đưa.
(Hoa bưởi An-nam rất thơm như hoa lài, Lĩnh-Bắc không có thứ hoa ấy).
Nho-Học đề-cử Từ-Minh-Thiện (giúp Vũ-Sơn đi sứ Giao-Châu, đêm xuân
ngồi xem đánh cờ, tặng Thế-Tử một bài thơ).
Xanh um đình viện, nguyệt làu làu,
Người dưới trời con chiếm một bầu.
Đuốc đỏ một bàn ngồi xúm xít,
Mây xanh muôn trượng nghĩ đâu đâu.
Ai ngăn lỡ nước người trong cuộc,
Nhờ có khoanh tay khách ngoại chầu.
Thắng trận khoe-khoang binh tối kỵ,
Muốn bày cuộc khác ngại canh thâu.
Thượng-thư Trương-Hiển-Khanh
Ngắm cảnh trời hôm khói mịt mờ,
Xa nơi thành-thị đỡ huyên-hoa.
Quạnh hiu đình viện không bao sở,
Tươi tốt vuờn cây chỉ một nhà.
Thiên-Hán bến nam tuôn mạch nước,
Mộc-miên cây lớn trổ cành hoa.

An-nam tuy nhỏ văn-chương thịnh,
Ếch giếng, khuyên đừng chế giễu ngoa.
Thượng-Thơ Lương-Công-Phụ ăn trái vải ngẫu đề
Chỉ một đôi ngày đổi sắc hương,
Phải nghìn vạn dặm trạm băng đường,
Hoàng-triều chỉ trách bao-mao lễ 8.
Vô ích làm chi việc Hán, Đường 9.
Lang-Trung Trần-Cương-Trung (2 bài)
Bài I
Mẹ già Nam-Việt phơ đầu bạc,
Vợ ốm Bắc-Yên đợi bóng tà.
Mưa chướng mây mù, Giao-Chỉ khách,
Mộng hồn chung một, xứ chia ba.
Bài II
Từ giả Giao-Châu để thơ cho Đinh-Thiếu-Bảo
Mưa gió theo xe khói tỏa màn,
Cánh bằng há chỉ dặm ba ngàn,
Qua nam Ma-Cật còn vương bệnh10,
Về Bắc Đạt-Ma lại nhớ thiền 11.
Đồng trụ tầm thường vâng sứ tiết,
Ngọc-giai gang tấc đối thiên-nhan.
Chia tay chẳng có lời chi dặn,
Gắng tỏ nghìn thu một tấm đan.
Thị-Lang Lý-Trọng-Tân họa thơ của Thế-Tử Động-Diệu Tự-Chân
Giống rồng tiếng nổi thuở còn măng,
Đất mới nứt lên đã vẽ vằn.
Một buổi chầu trời bèn hóa trúc,
Tinh-thần vượt hẳn gấp trăm lần.
Thị-Trung Tiêu-Phương-Nhai họa thơ của Thế-Tử
Tiệc khách mưa xuân lấm tấm rơi,

Đường về giục giã ngựa tra roi.
Từ nay Nam-Thổ thêm vui vẻ,
Nghiêu-Đế mừng chung đội một trời.
Thị-Lang Lý-Cảnh-Sơn
Đi từ đế-khuyết đến thiên-nhai,
Chín vạn bằng-trình khoái vượt bay.
Khắp chốn xa xuôi làn gió mát,
Trên đường giong ruổi bóng xuân chầy.
Nhân-tâm thiên-ý nào ai biết,
Lịch-số âu-ca sẵn có đay.
Chúa thánh yêu dân như trứng mén,
Lựa chi lo lắng phải nhăn mày.
Lang-Trung Đỗ-Hy-Vọng
Thể-phượng năm mây ngậm chiếu trời,
An-nam vâng sứ cõi xa khơi,
Liệng bay may đã theo rồng được,
Quắc thước còn kham nhảy ngựa chơi.
Non nước xứ người vui vịnh cảnh,
Tôi con nước mọn cúi nghe lời.
Về triều, mệnh chúa may không nhục,
Lều cỏ non xanh cũng thảnh thơi.
Lang-Trung Văn-Tử-Phương
Bài I
Đức nhuần Chí-trị12 hội phi-long,
Muôn dặm Nam-bang sứ ruổi giong,
Vương-Chính giữa trời nêu nhật nguyệt13
Đức-âm14 khắp đất dậy lôi phong.
Nước phiên kính cẩn không cần lễ 15
Lượng thánh gần xa chẳng khác lòng.
Cho biết ý người ai cũng vậy 16,

Cống triều chi sá vượt non sông.
Bài II - Tặng Thế-Tử Thái-Hư-Tử 17
Văn-Chương Thế-Tử nổi tinh-thần,
Áo mão khoan thai rủ bội-thần 18
Quỳ nở vườn tiên nghiêng bóng nhật,
Quỳnh trồng đất biển đượm màu xuân.
Thềm rồng lần bước vâng minh-chiếu,
Lễ lớn phô bày tiếp thượng-tân.
Từ ấy vua tôi gìn đất nước,
Việt-Nam mãi mãi đội thiên-ân.
Lang-Trung Dương-Đình-Trấn đáp vận Thái-Tử Thế-Tử.
Sứ-thiều hải-quốc thẳng đường giong,
Gió bấc heo heo khí lạnh lùng.
Báo trước tin xuân, sông núi đẹp,
Thấm sâu ơn chúa, trẻ già mong.
Đức-Châu hằng tụng thơ Lang-Bạch 19,
Trời Sở xa đưa chiếu phụng hồng.
Truyền nối trải đời ngay với chúa,
Đất trời soi thấu tấm lòng trung.
Lang-Trung Triệu-Tử-Kỳ họa vần Thái-Tử Thế-Tử
Sáng ngời sóng tuyết dội Tam-san 20,
Một buổi xe rồng xuống thế-gian.
Chiu chít bóng dâm kêu hạc nội 21,
Lững lơ sườn núi tỏa mây nhàn 22.
Sửa sang việc nước thừa thong thả,
Đẹp đẽ lời vân khéo dệt đan.
Tiếp đón hôm qua trên tiệc ngọc,
Biệt ly chi xiết nỗi bàng hoàng.
Lang-Trung Trí-Tử-Nguyên đáp vần (Hai bài)
Bài I - Họa vần Thái-Tử

Chúa thánh lên ngôi báu,
Ơn sâu xuống cõi xa.
Chín trùng ban chính-sóc,
Muôn dặm lắng đàn hòa.
Nhật nguyệt giữa trời sáng,
Gió xuân khắp xứ qua.
Nhân ân đồng một loạt,
Trân trọng yêu dân ta.
Bài II - Mừng trời mưa ở An-Nam
Đơn phụng mang thư xuống cửu-tiêu 23,
Cõi xa ác-khí đã ngầm tiêu.
Móc mưa trời đất thông nguyên-khí,
Mây gió non sông ruổi sứ-thiều 24.
Thuyền chiến Dương-Công 25 không phải tiến,
Trụ đồng Mã-tướng chẳng cần nêu
Cho hay ơn thánh dồi dào khắp,
Xanh mướt đầy đồng ngọn lúa miêu.
Quảng-Châu Giác-Thụ Phó-Nhược-Kim (2 bài)
(Ông này giúp Thượng-thư Thiết-Trụ đi sứ An-nam).
Bài I
Mùa đông vào nước Việt,
Vừng mây đón sứ-thiều.
Tên quận đời Tần đặt,
Trụ đồng tướng Hán nêu,
Đường sông măng mới mọc,
Ruộng núi lúa vừa cao.
Gần xa ơn nhuần thắm,
Hành-dịch dám từ-lao.
Bài II - Thơ Chí-Hỹ
Nguyên-Thống ba năm ban chính-sóc 26

Cực-nam muôn dặm mở thư phong.
Vào doanh, cờ sứ mây lay động,
Đón bến, tàn tiên bóng trập trùng.
Dụ Thục, Tương-Như không tốn giấy,
Triều-Châu, Việt-sứ tự vui lòng.
Về nhà kỳ lão ai thăm hỏi,
Văn-hóa ngày nay bốn bể thông.

×