Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Gia thế Họ Triệu potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.08 KB, 7 trang )

Gia thế Họ Triệu


Triệu Đà
Người Chân-Định, thời nhà Tần, (246-207 trước Công-Nguyên) làm quan
lệnh huyện Long-Xuyên (Tuần-Châu ở Nam-Hải). Buổi đầu nhà Tần gồm
thâu thiên-hạ, đánh lấy đất nước Việt, đặt ba quận Quế-Lâm, Nam-Hải và
Tượng-Quận, để đem dân đi đày qua ở chung lộn với dân Việt. Quan Uý
quận Nam-Hải là Nhâm-Ngao đau bệnh ung-thư chết, nhà Tần bèn cho Đà
kiêm chức Nam-Hải-Uý. Nhà Tần mất, Đà đánh lấy luôn Quế-Lâm, Tượng-
Quận, tự lập làm vua. Khi Hán Cao-Tổ (206-195 trước Công-Nguyên), đã
bình-định thiên-hạ, vì trong nước trải qua chiến-tranh lao khổ, nên tha tội
Đà, chẳng trách. Năm thứ 11, khiến Lục-Giả phong Đà làm Nam-Việt-
Vương. Thời Cao-Hậu cấm Nam-Việt mua bán đồ sắt, Đà bèn tiếm hiệu
xưng Nam-Việt Vũ-Đế, phát binh đánh Trường-Sa, lấy của cải mua chuộc
mấy nước Mân-Việt, Tây Âu-Lạc (1) bắt làm thuộc-bang để sai khiến. Bờ
cõi từ đông qua tây rộng hơn muôn dặm, cỡi xe Hoàng-ốc tả-đạo (2), xưng
đế-chế sánh ngang với Trung-Quốc.
Hán Văn-Đế lên ngôi năm đầu (179 trước Công-Nguyên), đặt người thủ-ấp,
để coi sóc mồ mả của thân-nhân Triệu-Đà3, hằng năm hương-khói, lo việc
phụng-tự, lại vời anh em của Đà đều ban cho ân-huệ, quan-tước. Đà bèn
xuống lệnh trong nước rằng: "Ta nghe nói hai kẻ hùng chẳng cùng đối lập,
hai kẻ hiền chẳng cùng sinh tồn. Hoàng-đế nhà Hán là đấng hiền Thiên-Tử,
bèn bỏ hoàng-ốc, tả đảo". Văn-Đế rất lấy làm đẹp lòng. Thời Cảnh-Đế (156-
141 trước Công-Nguyên) Triệu-Đà xưng thần, khiến người vào triều-yết
Nhưng ở Nam-Việt vẫn tiếm hiệu như cũ Lúc khiến sứ vào chầu Thiên-Tử,
xưng triều mạng như chư-hầu. Năm Kiến-Nguyên thứ 4 (137 trước Công-
Nguyên) Đà mất, cháu là Hồ nối ngôi. (Thời ấy nhà Hán đã được 70 năm,
Triệu-Đà đã hơn trăm tuổi, ở ngôi 71 năm).
Hồ lên làm vua, lúc ấy Mân-Việt đến đánh Nam-Việt, Hồ không dám tự
chuyên dấy binh, khiến người dâng thư cho Hán Vũ-Đế. Vũ-Đế vì Hồ dấy


binh đánh Mân-Việt và khiến Nghiêm-Trợ qua dụ, Hồ cảm oai đức của
Thiên-Tử, bèn sai Thái-Tử Anh-Tề vào chầu vua Hán, tự mình ngày đêm
cũng sắp sửa vào chầu. Các đại-thần can rằng: "Xưa tiên-vương có nói: "thờ
Thiên-Tử giữ đừng thất lễ là được, cốt đừng nghe lời dỗ ngon ngọt mà vào
yết-kiến, vào yết-kiến thì không về được, ấy là cơ mất nước". Rốt cuộc Hồ
xưng bệnh chẳng đi, sau mười năm, Hồ đau nặng, Anh-Tề xin về. Hồ mất,
tôn Thuỵ-Hiệu là Văn-Vương.
Anh-Tề lên làm vua, giấu cất ấn ngọc tỷ của tiên-đế (Lý-Khanh nói rằng:
"giấu cất ấn ngọc tỷ, tiếm hiệu"). Trước đây, lúc Anh-Tề vào túc vệ ở
Trường-An, cưới con gái họ Cù ở đất Hàm-Đan, đẻ con là Hưng. Đến lúc
nối ngôi vua, Anh-Tề dâng thư xin lập Cù-thị làm Vương-Hậu và Hưng làm
tự. Nhà Hán thường khiến sứ dụ Anh-Tề vào chầu, Anh-Tề xưng bệnh
không đi, chỉ khiến con là Thứ-Công vào chầu mà thôi. Anh-Tề mất, tôn
Thuỵ-Hiệu là Minh-Vương.
Hưng lên làm vua, tôn mẹ làm Thái-Hậu. Cù-Thị lúc chưa lấy Anh-Tề, đã tư
thông với người Bá-Lăng tên là An-Quốc-Thiều-Quý. Năm Nguyên-Đỉnh
thứ 4 (113 trước Công-Nguyên), người trong nước biết việc ấy, chẳng phục
Thái-Hậu. Thái-Hậu sợ nổi loạn, muốn cậy oai nhà Hán, thường khuyên vua
và bề tôi cầu nội-thuộc nhà Hán, bèn nhờ sứ-giả dâng thư xin cho Nam-Việt
được đứng ngang hàng với chư-hầu, ba năm một lần vào triều-kiến. Thiên-
Tử y cho, Vua và Thái-Hậu sắm sửa hành-trang, đem nhiều của báu để vào
chầu Hán-Đế. Thừa-tướng Lữ-Gia can ngăn, vua chẳng nghe, Gia có lòng
muốn làm phản, thường xưng bệnh, chẳng chịu ra mắt sứ-giả nhà Hán. Thái-
Hậu giận, mưu toan giết Gia, bèn mở hội trong cung, lúc uống rượu, Thái-
Hậu bảo Gia rằng: "Nam-Việt nội-thuộc Trung-Quốc là việc lợi cho nước;
Thừa-tướng lại cố ý không chịu là vì cớ gì?". Nói vậy, để chọc giận Hán-Sứ,
nhưng hai bên cùng ngó nhau, hồ-nghi, không dám hành-động. Lữ-Gia thấy
có mòi chẳng lành, liền bỏ chạy ra. Thái-Hậu giận, muốn dùng cái mâu đâm
Gia, nhưng vua can ngăn lại. Gia ra ngoài xưng bệnh, mấy ngày không yết-
kiến vua, bèn cử binh làm phản, đánh giết Vua, Thái-Hậu và Hán-Sứ, rồi lập

con thứ của Minh-Vương là Vệ-Dương-Hầu Kiến-Đức lên làm vua. Năm
Nguyên-Đỉnh thứ 5 (112 trước Công-Nguyên). Vũ-Đế sai Phục-Ba tướng-
quân Lộ-Bác-Đức đem mười vạn quân qua đánh. Năm sau đánh bại được
quân Việt, khiến bộ-tướng bắt Kiến-Đức và Lữ-Gia nơi cửa biển, tiêu-diệt
nước Việt, chia làm chín quận, bắt đầu đặt quan Thái-Thú. Họ Triệu làm vua
được năm đời, cộng 93 năm.
Phụ chép bài "Nam-Việt-Hành" của Quan Gián-Nghị nhà Tống là Chu-
Chi-Tài (Chi-Tài tên chữ là Sư-Mỹ, người Lạc-Tây, khoảng niên-hiệu
Sùng-Ninh (1102-1106), vì nói thẳng bị lỗi, ra làm quan lệnh ở Tứ-
Thuỷ).
Bài nầy thấy chép ở Trung-Châu-Tập.
Nam-Việt-Hành
Gái Hàm-Đan vợ vua Nam-Việt,
Răng trắng ngời, mắt liếc sáng trưng.
Ngọc làm trướng, ngà làm giường,
Dương cao tàn gấm, đánh vang trống đồng.
Ao Thái-Dịch, phù-dung một đóa,
Chốn khói Mường đày đọa tấm thân.
Bá-Lăng tin vắng cố-nhân,
Thâm-cung chỉ thấy dấu chân phi-hồng.
Con làm chúa mà lòng chẳng nguyện,
Chỉ nguyện về chầu điện Bá-Lương(4)
Mậu-Lăng tuổi trẻ quân-vương(5)
Sai qua hải-đảo tìm đường hàn huyên.
Đuốc Kim-Nghê long-diên thơm phức,
Ngọc Minh-Châu sáng rực thâm-cung.
Xa xuôi muôn dặm Phiên-Ngung,
Uyên-ương đôi lứa thoả lòng hôm nay.
Lão thừa-tướng cầm tay ấn bạc,
Chốn tiêu-tường gây việc đao cung.

Gái nầy ai bảo chẳng hùng,
Phục binh tiệc rượu trong cung an bài.
Sứ nhà Hán một bầy nhu nõa,
Tót mâu-thần, bà đã rắp toan.
Cấm ngăn vì bởi cô-man (6)
Thương ôi! uổng chết gã Hàn-Thiên-Thu.
Quân chinh-phạt thuyền lầu muôn đội,
Ra Quế-Dương xuống lối Ly-Giang.
Lữ-Gia sa lưới Việt-Lang(7),
An-nam chín quận, Hán-Hoàng tóm thâu.
Cỏ mấy độ xanh mồ Triệu-Uý,
Mới ngày nào ngọc tỷ nghinh ngang.
Thành nghiêng vì gái Hàm-Đan,
Nước xuôi Dương-Thuỷ (8), tre tàn sông Tương
Tương-Phi (9), Cù-Hậu khóc thương.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×