Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tiền Triều Phụng Sứ (Sứ-Thần các Triều-Đại trước) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.13 KB, 10 trang )

Tiền Triều Phụng Sứ
(Sứ-Thần các Triều-Đại trước)


Hán-Sứ (Các Sứ-Thần nhà Hán)
Lục-giả:
Người nước Sở, do địa-vị môn-khách theo Hán-Cao-Tổ bình-định thiên-hạ.
Đang thời ấy, Giả làm biện-sĩ, thường đi sứ các nước chư-hầu. Khi nhà Hán
mới thống-nhất Trung-Quốc, thì Triệu-Đà hùng cứ nước Nam-Việt. Hán
Cao-Tổ khiến Giả đem cho Triệu-Đà một cái ấn để làm vua nước Nam-Việt,
Giả đến, Đà búi tóc, ngồi chò hõ mà tiếp. Giả nói: "túc-hạ là người Trung-
Quốc, anh em, mồ mã của tiên-nhân đều ở Chân-Định, nay túc-hạ đổi tính,
bỏ lễ nghĩa, tiếp khách không có lễ độ, muốn làm chủ một miếng đất Việt
nho nhỏ, mà địch thế với Trung-Quốc, sánh vai với Thiên-Tử, ắt họa đến
mình; Thiên-Tử nghe túc-hạ làm vua Nam-Việt, không chịu giúp Thiên-Tử,
đánh dẹp kẻ bạo ngược, các tướng văn võ đều muốn đem quân qua diệt túc-
hạ, nhưng Thiên-Tử nghĩ rằng nhà nước mới yên, nhân-dân mệt nhọc, nên
bỏ qua chưa làm, và sai tôi đem ấn phù qua phong túc-hạ làm vua Nam-Việt;
đáng lẽ túc-hạ ra chỗ địa đầu đón rước, trở mặt về hướng Bắc mà chịu xưng
làm tôi mới phải. Nay lại lấy nước Việt mới xây dựng chưa thành, mà quật
cường tại đây, nếu nhà Hán nghe được sẽ đào mã tiên-nhân của túc-hạ mà
đốt hết, giết sạch tôn-tộc, rồi sai một viên tướng đem mười vạn quân qua đất
Việt giết túc-hạ, bắt phải hàng nhà Hán như trở bàn tay".
Đà nghe xong, bèn nhỗm dậy, ngồi lại tử-tế, mà xin lỗi rằng: "tôi ở trong xứ
mọi-rợ, lâu ngày quên hết lễ-nghĩa", rồi giữ Giả ở lại vài ngày cùng uống
rượu và tiễn đồ hành-lý trị giá đến ngàn vàng, rút cuộc Giả phong Đà làm
Nam-Việt-Vương và bảo xưng thần, tuân hành các điều định ước của nhà
Hán. Giả về tâu lại, Cao-Tổ nhà Hán rất đẹp lòng, phong Giả làm chức Thái-
Trung đại-phu. Qua đời Cao-Hậu, vì triều-đình cấm Nam-Việt mua đồ sắt
của Trung-Quốc, Triệu-Đà bèn tiếm hiệu xưng đế. Hán- Văn-Đế lại sai Lục-
Giả qua tỏ lời trách Đà, Đà sợ, lại xưng thần và triều cống như lời chiếu chỉ.


Trang-Trợ:
Là người ở đời Hiếu-Võ nhà Hán. Trong năm Kiến-Nguyên thứ 4 (137 trước
Công-nguyên), Mân-Việt đem quân qua đánh biên-giới Nam-Việt. Nam-
Việt-Vương là Hồ (cháu Triệu-Đà) dâng thơ lên vua Hán rằng: "Hai xứ Việt
đều là phiên-thuộc của triều-đình, không nên tự ý dấy binh, công-kích lẫn
nhau, nay Đông-Việt tự ý huy binh xâm-phạm đất tôi, tôi không dám đánh
lại, chỉ chờ lệnh của Thiên-Tử địnhđoạt". Vua Hiếu-Võ sai bọn Vương-Khôi
xuất quân qua đánh Mân-Việt, rồi trở về. Vua lại sai Trang-Trợ dụ vua Nam-
Việt là Hồ. Hồ cảm ơn vua Hán, khiến con là Anh-Tể vào làm con tin.
Chung-Quân:
Tên chữ là Tử-Vân, mới 18 tuổi đã làm bác-sĩ, vua Hiếu-Võ thưởng thức
văn-chương của y, cho làm chức Yết-Giả-Cấp-Sự-Trung rồi thăng cho làm
quan Gián-Nghị đại-phu. Lúc đó nước Nam-Việt hoà với Trung-quốc, vua
Hiếu-Võ sai sứ qua dụ Nam-Việt-Vương vào chầu, vương cáo bệnh không
đi, Chung-Quân xin lãnh một dải mão dài và hứa rằng sẽ trói Nam-Việt-
Vương đem về triều-đình, Vũ-Đế khiến Quân đi du-thuyết, Nam-Việt-
Vương xin triều đình cho phép nội-thuộc, nhưng tướng Nam-Việt là Lự-Gia
phát binh giết vua và bọn Chung-Quân. Lúc đó, Chung-Quân mới 20 tuổi,
nên người đương-thời gọi là Chung-Đồng (nghĩa là đứa con nít họ Chung).
An-Quốc Thiếu-Quí:
Người Bá-Lăng, khi trước Thái-Tử Nam-Việt là Anh-Tể qua Trường-An
làm con tin, lấy con gái họ Cù ở huyện Hàm-Đàn, sinh con là Hưng, kịp khi
Anh-Tề nối ngôi vua Nam-Việt, bèn dâng thư xin lập Cù-Thị làm Vương-
Hậu. Đến lúc Anh-Tề chết, Hưng nối ngôi, lập mẹ là Cù-Thị làm Vương-
Thái-Hậu. Nhưng trước khi Cù-Thị chưa lấy Anh-Tề, đã tư-thông với Thiếu-
Quí. Năm Nguyên-Đỉnh thứ 3 (114 trước Côngnguyên), vua Võ-Đế sai
Thiếu-Quý cùng Chung-Quân qua dụ vua nhập triều, Thiếu-Quý tới nước
Việt, lại tư-thông cùng Vương-Thái-Hậu. Dân Nam-Việt không phục tùng
Vương-Thái-Hậu, Thái-Hậu sợ dân nổi loạn, muốn giết Tể-tướng Lữ-Gia,
Gia đánh giết Vương-Thái-Hậu và bọn Thiếu-Quý.

Hàn-Thiên-Thu:
Người thời Hiếu-Võ-Đế. Tướng Nam-Việt là Lữ-Gia làm phản, Võ-Đế sai
Trang-Sâm đem 2000 người cùng đi sứ qua Nam-Việt. Sâm nói: "như lấy sự
hòa hảo mà qua, thì năm bảy người đi theo cũng đủ, như dùng vũ-lực mà tới,
thì số 2000 người cũng không lấy làm đủ", bèn từ chối không đi. Quốc-
Tướng của Tề-Bắc hồi trước là Hàn-Thiên-Thu tâu với vua rằng: "Nước Việt
là nước nhỏ, lại được Vương-Thái-Hậu nội ứng, chỉ một tên Lữ-Gia làm hại
thôi, xin được hai trăm người dũng sĩ đi qua, chắc chém được đầu Lữ-Gia
đem về báo tin". Vua bèn sai bọn Thiên-Thu đem 2000 người qua nước Việt.
Lúc quân Thiên-Thu vào phá được mấy ấp nhỏ và sắp tiến tới Phiên-Ngung,
thì quân Việt đánh và tiêu diệt bọn Thiên-Thu. Võ-Đế nói rằng: "Tuy Thiên-
Thu không lập được công gì, nhưng cũng đứng đầu xung phong", rồi phong
cho người con là Diên-Niên tước Thành-An-Hầu.
Cù-Lạc:
Em bà Thái-Hậu nước Nam-Việt. Võ-Đế sai làm phó-tướng cho Hàn-Thiên-
Thu đem quân qua Việt, bị Lữ-Gia đánh giết, vua phong cho người con là
Quảng-Đức làm Long-Hầu.
Tấn-Sứ (Sứ-Thần đời nhà Tấn)
Thạch-Sùng:
Đời Võ-Đế nhà Tấn (265-290), làm quan Tán-Kỵ-Thị-Trung, được sai làm
Giao-Chỉ Thái-Phỏng-Sứ.
Tống-Sứ (Sứ-Thần đời nhà Tống)
Cao-Bảo-Tự:
Năm Khai-Bữu thứ 8 của Tống Thái-Tổ (970), Thống-Soái Giao-Chỉ là
Đinh-Liễn sai sứ-thần sang cống hiến, Thái-Tổ hạ chiếu phong Liễn quan
tước. Bảo-Tự đương làm chức Hồng-Lô-Khanh, thừa lệnh cùng Vương-
Ngạn-Phù qua Giao-Chỉ làm chức Quan-Cáo-Sứ.
Lư-Tập:
Năm Thái-Bình Hưng-Quốc thứ 5 (980), của Tống-Thái-Tông, Tập đương
giữ chức Cung-Phụng-Quan đi sứ Giao-Chỉ.

Trương-Tông-Quyền:
Trong năm Thái-Bình Hưng-Quốc thứ 5 (980), Lê-Hoàn, người Giao-Chỉ,
cướp ngôi của vua nhà Đinh, Trương-Tông-Quyền đương làm Cung-Phụng-
Quan đi sứ qua Giao-Chỉ để tuyên lời dụ.
Lý-Nhược-Chuyết:
Trong năm Ung-Hy thứ 2 (985), nhân Lê-Hoàn vào cống, vua Thái-Tông
cho Hoàn những đồ cờ, gươm, giáo, để làm Giao-Chỉ Quận-vương. Nhược-
Chuyết là chức Chủ-Khách Lang-Trung Trực-Chiêu- Văn-Quán, cùng Lý-
Giác là chức Lễ-Viện Bác-Sĩ, sung làm chức Quan-Cáo-Sứ qua nước Việt.
Nguỵ-Tường:
Trong năm Đoan-Củng nguyên niên (988), phong tước cho Lê-Hoàn (989),
Tường làm chức Ngu-Bộ Viên-Ngoại-Lang cùng Lý-Độ làm chức Trực-Sử-
Quán sung chức Quan-cáo-sứ đi qua Nam-Việt.
Tống-Cảo:
Trong năm Thuần-Hóa nguyên niên (990), Cảo làm Tả-Chính-Ngôn Trực-
Sử-Quán là Vương Thế-Tắc sung làm Quan-Cáo-Sứ qua nước Việt. Bài
Hành-Lục của Tống-Cảo lược thuật rằng:
"Chúng tôi đi sứ về, nhơn kể chuyện lại từng điều khoản thuộc về hình-thế
núi sông và sự-tích của Lê-Hoàn để trình lên: Cuối mùa thu năm ngoái,
chúng tôi đến nơi địa-giới Giao-Chỉ thì có viên Đô-Chỉ-Huy-Sứ của Lê-
Hoàn là Đinh-Thừa-Chính đem chín chiếc thuyền và ba trăm lính đến châu
Thái-Bình đón tiếp, do cửa biển ra biển lớn, sóng to gió cả, vượt qua những
cơn nguy-hiểm, nửa tháng mới tới sông Bạch-Đằng, theo thuỷ-triều mà đi,
nơi nào mà tạm nghĩ ban đêm, đều có quán trạm cả, lần đến Trường-Châu
rồi đến bản-quốc. Lê-Hoàn suất hết cả binh thuyền và chiến cụ, lấy cớ là tập
trận. Từ đó, đi cả đêm, tới bờ biển chỉ cách Giao-Chỉ hơn mười dặm. Bỗng
chốc quân lính hộ-vệ Lê-Hoàn tới, làm lễ giao-nghinh (nghĩa là ra tiếp rước
long-trọng ở ngoại-ô). Hoàn dừng ngựa nghiêng mình, hỏi thăm sức-khỏa
của Hoàng-đế, xong cùng chúng tôi đi ngựa về, thỉnh-thoảng mời ăn cau
trầu, đây là theo phong-tục hậu đãi của xứ ấy vậy. Trong thành, không thấy

cư-dân, chỉ có trại lính, chỗ phủ-thự của Hoàn cũng thấp-thỏi hẹp hòi, trên
cửa nhà có đề hai chữ: "Minh-Đức". Hoàn thọ chiếu không lạy, lấy cớ rằng
năm gần đây ra mặt trận đánh giặc bị thương nơi chân vì té ngựa. Qua hôm
sau, dọn bàn đãi tiệc tưng bừng, quân lính chầu hầu có 3000 người đều khắc
chữ "Thiên-tử quân" trên trán. Các đồ binh-khi chỉ có cung, nõ, gươm giáo,
tầm gỗ, yếu ớt không dùng gì được. Bọn quan thuộc hễ ai thạo việc, thì
chọn vào ở thân-cận, ai phạm chút lỗi gì, thì đánh đuổi đi, khi hết giận, thì
cho khôi phục chức cũ. Chỗ Hoàn ở có một tháp bằng gỗ, hình thức vụng về
quê kịch, có một hôm, mời tôi cùng lên, nhìn tôi mà hỏi: "Ở triều đình
Trung-Quốc, có tháp như thế nầy không?". Xứ ấy không có khí lạnh, tháng
chạp cũng mặc áo cánh và dùng quạt.
Vương-Thế-Tắc:
Trong năm Thuần-Hoá thứ 4 (993), Tắc đương làm Độ-Chi-Phán-Quan
Quốc Tử Bác-sĩ, cùng với Điện-Trung Ngự-Thư-Viên-Chi-Hậu là Lý-Cư-
Giản sung làm An-nam Quan-Cáo-Sứ.
Lý-Kiến-Trung:
Trong đầu hiệu Chí-Đạo (995), nhân quân Giao-Chỉ xâm phạm biên giới
Trung-Quốc, vua Thái-Tông sai Quảng-Tây Chuyển-Vận-Sứ là Trần-
Nghiêu-Tẩu đem tờ chiếu-thư ban cho Lê-Hoàn và khiến Hải-Khang-Uý là
Lý-Kiến-Trung đem tờ chiếu cùng đi qua dụ Giao-Chỉ.
Chương-Tần:
Chuyển-vận sứ tỉnh Quảng-Tây. Trong năm Thiên-Thánh thứ 6 (1028),
Giao-Chỉ quận-vương Lý-Công-Uẩn mất, Nhân-Tông sai Chương-Tần làm
điều-tế-sứ qua Giao-Chỉ.
Lưu-Bính:
Trong niên-hiệu Cảnh-Định (1260-1264), làm quan Võ-Tiết-Lang-Đông-
Nam đệ-thập nhị chánh tướngTịnh-hải trú-trát. Lúc ấy, vua An-nam nhà
Trần khiến sứ cống hiến, nên vua Lý-Tông ban những lễ-vật đáp lễ và hạ
chiếu dụ khen ngợi, do Quảng-Tây Kinh-Lược-Sứ chuyển đạt, nhân đó
khiến Bínhđem tờ chiếu qua để dụ chỉ.

An-Nam Chí-Lược Quyển Đệ Tam Chung
Chú Thích:
1 Khí lam chướng rất độc, nhân-dân xứ Lĩnh-Nam tìm phương thuốc có ba
vị: vôi hàu là vỏ con hàu dưới biển nấu thành vôi, quét vào lá trầu rồi nhập
với miếng cau mà ăn thì trừ hết khí độc, khỏi sốt rét; khi nào có khách tới
nhà thì đãi ăn cau trầu. Nếu người chủ nhà hậu tình hơn nữa thì rót rượu cay,
mời thuốc hút, đều là những vị trừ khí độc và gió độc.
2 Tiêu-Phương-Nhai tức Tiêu-Thái-Đăng

×