Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

NHỮNG TIẾN BỘ CHỒNG LẠI MUCOVISCIDOSE pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.15 KB, 6 trang )

NHỮNG TIẾN BỘ CHỒNG LẠI MUCOVISCIDOSE


NHỮNG ĐIỂM MỐC
NGUỒN GỐC. Mặc dầu chữ “mucoviscidose” có từ năm 1943, là năm trong
đó những đặc điểm của bệnh thật sự được xác định (nghĩa là “bệnh của các
niêm dịch nhầy nhớt” : maladie des mucus visqueux, chữ thường được ưa
thích hơn thuật ngữ Anh cystic). Các dấu vết của bệnh này cũng đã được tìm
thấy trong các mô tả triệu chứng có từ thời Trung Cổ. Vào thời kỳ đó, những
dấu hiệu lâm sàng của bệnh trong những gia đình mắc phải được xem như là
do bị bỏ bùa mê qủy ám. Nhiều ngạn ngữ có tính cách đặc trưng, tất cả đều
xoay quanh “cái hôn mặn” (baiser salé): “bất hạnh thay cho đứa bé khi được
hôn trên trán có vị mặn. Nó bị bỏ bùa mê và chẳng bao lâu nữa phải chết”;
hay “đứa trẻ mà cái trán khi được hôn có vị mặn chẳng bao lâu nữa sẽ chết”.
Có rất ít trường hợp xảy ra nơi người da đen và lại còn ít hơn nữa nơi người
châu Á.
DI TRUYỀN. Vào năm 1945, tính chất di truyền của bệnh được xác lập.
Nhưng vài người nghĩ rằng một sự thiếu hụt vitamine A là nguyên nhân của
bệnh lý. Vào năm 1981, một mối liên hệ được thực hiện với biểu mô của các
tế bào của nhiều cơ quan. Vào năm 1989, gène mà những biến dị gây nên
mucoviscidose sau cùng được nhận diện. Gène này hiện diện trên cặp nhiễm
sắc thể 7 và điều khiển sự tổng hợp của một protéine-canal được đặt tên là
“cystic fibrosis transmembrane conductance regulator” hay CFTR. Protéine
xuyên bào phức hợp này (được cấu tạo bởi 1480 “miếng”) điều hòa sự đi ra
hoặc đi vào của vài yếu tố giữa bên trong tế bào và những niêm mạc tuyến
khác nhau. Ngày nay ta biết rằng nhiều biến dị, ở những nơi khác nhau của
gène này, có thể gây nên những bệnh lý nặng nề ít hay nhiều.
ĐIỀU TRỊ. Thuốc men đã tiến triển nhiều, mặc dầu chưa có thể chữa lành
bệnh trong một số lớn các trường hợp. Nhưng vẫn còn nhiều hy vọng.
Trong nửa thế kỷ, hy vọng sống liên kết với bệnh di truyền này đã chuyển từ
7 năm lên đến hơn 50 năm, nhờ những tiến bộ về điều trị và một implication


mạnh của các gia đình
GENETIQUE. Đối với GS Gabriel, pneumopédiatre Lyon, chủ tịch của Hiệp
hội mucoviscidose của Pháp, “điều đó cần phải được xác nhận, nhưng đó là
một dấu hiệu mạnh”. Lần đầu tiên, một loại thuốc đang được phát triển, VX-
770, cải thiện tình trạng của vài bệnh nhân bằng cách điều chỉnh không phải
một triệu chứng, mà trực tiếp điều chỉnh một bất thuờng của protéine CFTR,
nguyên nhân gây bệnh mucoviscidose. Chỉ có 4% các bệnh nhân có bất
thường của protéine CFTR, do một biến dị, G551D, của gène CFTR mã hóa
đối với protéine. Vào tháng hai, những kết quả đầu tiên của một thử nghiệm
trên 160 người trong số những bệnh nhân này đã cho thấy rằng điều trị với
VX-770 cải thiện rõ rệt chức năng hô hấp của họ. Cuối tháng ba, thử nghiệm
được tiến hành trên 49 đứa trẻ từ 6 đến 11 tuổi có biến dị này (trong đó có 5
người Pháp), xác nhận tác dụng của VX-770 ở một giai đoạn sớm. Dầu là sơ
khởi, “những kết quả được loan báo thật sự đáng phấn khởi”, BS Anne
Munck, thầy thuốc nhi khoa thuộc bệnh viện Robert-Debré (Paris), người
tham gia vào thử nghiệm, đã đánh giá như vậy. Những thử nghiệm khác quy
mô hơn, đã được dự kiến.
Với hơn 6000 bệnh nhân ở Pháp (một trường hợp đối với 4200 lần sinh),
mucoviscidose là bệnh di truyền thường xảy ra nhất. Bệnh này là do sự vắng
mặt hay sự loạn năng của một protéine-canal, CFTR, cho phép những trao
đổi chlore giữa các tế bào của biểu mô phủ vài cơ quan và môi trường chung
quanh. Hậu quả chính : sự sản xuất một niêm dịch dày đặc, nhầy nhớt, làm
tắc nghẽn phổi và các phế quản, làm dễ những nhiễm trùng, và làm tắc ruột
và các ống tụy tạng hay mật. Những người mắc bệnh cũng bị chứng vô sinh
do sự ngừng phát triển (agénésie) của các ống dẫn tinh (canal déférent).
Vào ngày thứ 3 và 4 sau khi sinh, 10 đến 15% các trẻ em bị tắc ruột, iléus
méconial, do sự bất túc của tụy tạng. Để có thể tiêu hóa, 80% các bệnh nhân
buộc phải dùng hàng ngày những trích chất tụy tạng (extraits pancréatiques).
Những yếu tố nghiêm trọng chính là thương tổn phổi, chịu trách nhiệm 75%
những trường hợp tử vong liên kết với mucoviscidose. Do sự định cư vi

khuẩn bởi Hemophilus, tụ cầu khuẩn, rồi pseudomonas, những nhiễm trùng
kế tiếp nhau, chỉ được kềm hãm tối đa nhờ kiné liệu pháp và các kháng sinh,
làm gia tăng dần dần tình trạng suy hô hấp, đôi khi đi đến chỗ phải ghép
phổi. Bệnh đái đường, suy gan, bệnh loãng xương cũng có thể đi kèm theo
mucoviscidose voi thể bệnh và mức độ nghiêm trọng thay đổi và không tiên
đoán được, kể cả trong cùng gia đình. Tiên lượng, mặc dầu thường nặng nề,
đã được cải thiện nhiều : ngày nay, 43% các bệnh nhân hơn 18 tuổi và nhờ
một điều trị tốt hơn, hy vọng sống của một đứa bé bị bệnh sinh năm 2011,
vượt quá 50 tuổi, so với chỉ 7 tuổi vào năm 1965.
NHỮNG TÁC DỤNG CỦA MÔI TRƯỜNG
Được nhận diện năm 1989, CFTR là một gène dài, được biết có hơn 1600
biến dị. Chỉ khoảng một chục biến dị là hiện diện nơi hơn 1% các bệnh
nhân, thường nhất là F508del (hay F508). Ở Pháp, 2 triệu người, không bị
bệnh, có một gène CFTR bị biến dị. Thật vậy, bệnh mucoviscidose chỉ được
thể hiện nếu đứa trẻ nhận từ mỗi bố mẹ một bản sao biến dị của gène. Trong
số các bệnh nhân, 43% có một biến dị kép (F508del), trong đó cha hoặc mẹ
đã truyền một bản (exemplaire) và 36% có biến dị này được liên kết với một
biến dị khác. Những biến dị này được tập hợp tùy theo tác dụng của chúng :
protéine CFTR không được tổng hợp (classe I), được sản xuất nhưng tức
thời bị phá hủy bởi vì bất bình thường, như trong biến dị F508del (classe 2),
canal không được mở, như trong biển dị G551D (classe 3), hay được mở ra
nhưng không hoạt động một cách đúng đắn (classe IV), hay sản xuất quá ít
CFTR (classe 5). “Sự tương quan giữa các classe này và mức độ nghiêm
trọng của các thương tổn không phải hoàn toàn, mặc dầu 3 classe đầu về mặt
thống kê trùng hợp với những dạng nghiêm trọng hơn”, GS Bellon giải thích
như vậy. Do đó nảy sinh lý thuyết về môi trường hay các gène làm biến đổi
(gènes modificateurs) để giải thích sự đa dạng của bệnh. Cũng có 13% các
trường hợp mucoviscidose không điển hình, thể nhẹ, ngày xưa hiếm khi
được nhận diện.Thật vậy, từ năm 2002, sự phát hiện bệnh mucoviscidose
được thực hiện một cách hệ thống vào lúc sinh. “Sự phát hiện này được thực

hiện ở khoa sản bằng cách định lượng một enzyme, trypsine
immunoréactive. Một nồng độ tăng cao có thể làm nghi ngờ sự hiện diện của
bệnh mucoviscidose, và khi đó ta tìm kiếm những biến dị của CFTR sau khi
được sự đồng ý của cha hoặc mẹ”, BS Munnck đã chỉ rõ như vậy. Tùy theo
các kết quả, các bố mẹ được liên lạc bởi CRCM (Centre de ressources et de
compétences pour la mucoviscidose), để thực hiện một trắc nghiệm và kết
quả của trắc nghiệm này sẽ xác nhận hay loại bỏ chẩn đoán mucoviscidose
bằng cách định lượng chlore trong mồ hôi.

×