Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

PHƯƠNG PHÁP CHỌC HÚT TẾ BÀO TUYẾN GIÁP BẰNG KIM NHỎ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.67 KB, 8 trang )

PHƯƠNG PHÁP CHỌC HÚT TẾ BÀO
TUYẾN GIÁP BẰNG KIM NHỎ

TÓM TẮT
Bắt đầu từ giữa thế kỷ 16, nhưng mãi đến giữa thế kỷ 20 phương pháp chọc
hút tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ (FNACTG) mới thực sự được dùng phổ
biến. Phương pháp này có chỉ định rộng rãi, chủ yếu cho những nhân lạnh
đơn độc của TG và không có chống chỉ định. Tai biến rất hiếm < 2%, sẽ
không xảy ra khi dùng kim nhỏ và người thực hiện đã quen kỹ thuật này.
Ðây là một phương pháp có những ưu điểm sau:- S (simple): kỹ thuật đơn
giản - A (Accuracy): độ nhạy cảm 83%, độ đặc hiệu 92%, độ chính xác
95%, (-) giả 0, 3 - 6% < (-) giả của cắt lạnh, (+) giả: 0 - 2, 5% - F (fast):
thực hiện nhanh có kết quả trong vòng vài phút. - E (economy): ít tốn kém
so với một phẫu thuật sinh thiết không cần thiết mà kết quả GPB chưa chắc
đã kết luận được tình trạng xâm nhập vỏ bao và mạch máu. Kết hợp 4 ưu
điểm trên, viết tắt: SAFE, cuối cùng đây là một phương pháp an toàn vì
không gieo rắc tế bào bướu như khi sinh thiết, cũng như không gây dính sau
mổ. Và tuy FNA tuyến giáp tỏ ra hữu dụng trong chẩn đoán carcinôm tuyến
giáp không biệt hoá nhưng nhược điểm của nó là khó phân biệt được giữa
tân sinh nang lành và ác cũng như giữa phình giáp cục và tân sinh nang. Dù
sao thì đây cũng là một xét nghiệm được đề nghị nên thực hiện đầu tiên cho
một nhân lạnh đơn độc ở tuyến giáp.
SUMMARY
FINE NEEDLE ASPIRATION CYTOLOGY OF THYROID GLAND
Bui Thi Hong Khang, Au Nguyet Dieu, Huynh Ngoc Linh, Doan Thi
Phuong Thao, Nguyen Vu Thien, Nguyen Van Thanh, Nguyen Sao Trung *
Y hoc TP. Ho Chi Minh 1999 * Vol. 3 * No. 1: 17-24
Begining from the middle of 16
th
century but until the middle of 20
th



century, FNA of the thyroid has really been widely common. Numerous
indications and essentially no contraindications for the FNA cytology could
be listed, but in essence for "cold" nodule solitary of the thyroid. The
complication of the FNA is only less than 2%, and it doesnt occur when
performers are expert in this procedure and use fine needle (No.22).
FNA offers the following advantages - abbreviated to SAFE: Simple: easy
to perform. Accuracy: sensitivity = 83%. specificity = 92%. accuracy =
95%. negative predictive value = 0, 3 - 6%. positive predictive value = 0 - 2,
5 %. Fast: resutl in few minutes. Economy: the use of FNA may reduce the
cost of diagnosis compared with unneccessary surgical biopsy whose
pathologic result doesnt identify capsular and vascular invation.
FNA cytology is a safe procedure because it doesnt implant tumor cells
like surgical biopsy as well as cause adhesive growth following excision
biopsy. Athough FNA of the thyroid mass is useful in the diagnosis of
undifferentiated carcinoma of the thyroid, it cannot discreminate between
benign and malignant follicular neoplasm as well as nodular goiter and
follicular neoplasm. This procedure, however, should be performed first for
solitary nodular lesion of the thyroid.
LỊCH SỬ
Chọc hút tế bào tuyến giáp bằng kim nhỏ không phải là kỹ thuật mới.
Vào năm 1554 ở chiến trường Cerisoles, một người lính trẻ gốc Thụy Sĩ có
một bướu giáp rất lớn đã bị đâm vào cổ bằng
một cây kim. May mắn thay, bướu giáp này là một nang lớn, nhờ vậy dịch
được dẫn lưu và người lính trẻ đã sống sót. Crotti
(1)
đã tính tai nạn này là
một báo cáo đầu tiên về phương pháp điều trị nang giáp bằng chọc hút.
Tuy nhiên, dù xuất hiện sớm như vậy, chọc hút bằng kim vẫn chưa được sử
dụng rộng rãi cho đến năm 1930, Martin và Ellis

(7)
đã báo cáo hai ca ung thư
tuyến giáp bằng chọc hút với kim 18. Vào 1933, Stewart
(12)
đã đọc kết quả
cho 45 phết tế bào tuyến giáp thực hiện bằng phương pháp chọc hút. Ông
nhận xét rằng chẩn đoán tế bào học tuyến giáp bằng chọc hút thì khó nhưng
hữu dụng khi chẩn đoán những carcinom không biệt hoá của tuyến giáp,
trong khi chẩn đoán phân biệt giữa carcinom tuyến giáp dạng nhú hoặc dạng
nang với những thể tăng sản hoạt động của bệnh Grave thì không thể thực
hiện được. Tương tự, chẩn đoán limphôm dễ nhầm lẫn với carcinom tế bào
nhỏ của tuyến giáp.
Ðến năm 1934, Martin và Ellis
(8)
đã chẩn đoán 17 trường hợp ung thư tuyến
giáp bằng phương pháp chọc hút.
Và trong suốt những năm 1930-1951, 98 bệnh nhân có ung thư tuyến giáp
dạng nhú được phát hiện bằng phương pháp chọc hút tuyến giáp hoặc những
khối u ở cổ tại bệnh viện Memorial, New York, nhưng vì âm tính giả lên đến
26% nên phương pháp này lại bị gián đoạn một thời gian dài. Lúc này, Foote
và Frazell
(5)
tin rằng chẩn đoán bằng cắt lạnh đáng tin cậy hơn FNA. Và
người ta chỉ quan tâm đến sinh thiết bằng kim cắt còn FNA thì rơi vào quên
lãng.
Tuy nhiên, hầu như đồng thời với những báo cáo về FNA ở Mỹ, Scandinavi
cũng chú ý đến ứng dụng của FNA trên tuyến giáp. Sưderstrom
(11)
vào năm
1952 đã thay kim 18 bằng kim 22 (0,6-0,7mm). Kỹ thuật này đã được chấp

nhận một cách nồng nhiệt ở khắp Châu Âu và hàng loạt các nghiên cứu được
báo cáo. Kinh nghiệm từ những nghiên cứu này đã làm thức dậy sự quan
tâm với FNA tuyến giáp ở Mỹ. Kết quả là có hàng loạt những báo cáo mới
và cho đến hôm nay FNA tuyến giáp đã có một chỗ đứng vững vàng trong
tất cả các trung tâm y khoa lớn ở Mỹ.
KỸ THUẬT
(4,3)

Ở Ðại học thuộc Trung tâm khoa học sức khoẻ Virginia, nhà giải phẫu bệnh
học thực hiện FNA tuyến giáp cùng với nhà nội tiết học hoặc nhà phẫu thuật.
Tư thế bệnh nhân
Bệnh nhân thường được thực hiện FNA ở tư thế nằm ngửa, gối kê dưới cổ
và vai hoặc ngồi, cổ ngửa ra sau
Dụng cụ
Thường sử dụng kim số 22 đến 25, ống chích 20 cc hoặc 10cc gắn vào
một dụng cụ cầm tay đặc biệt (hình 1). Khi cắt nghe thấy tiếng sừn sựt (mô
xơ hoá) hoặc như chạm phải khối đá cứng (canxi hoá) nên dùng kim lớn
hơn. Kỹ thuật chọc hút
+ Không cần vô cảm vì chọc hút rất nhanh, thường không đau trừ khi bệnh
nhân bị viêm tuyến giáp De Quervain hoặc viêm tụ mủ cấp.
+ Có thể chọc nhiều vùng khác nhau và nếu chất bệnh phẩm lấy ra không
đủ, có thể làm lại ngay.
+ Các giai đoạn chọc hút:
* Giai đoạn 1: sát trùng da, đâm kim vào giữa tổn thương.
* Giai đoạn 2: rút nhanh piston của ống chích, tạo áp lực âm, hút bệnh phẩm
vào kim.
* Giai đoạn 3: cắt nhanh 3 - 5 lần, thay đổi hướng kim mỗi lần cắt. Ngưng
cắt khi bệnh phẩm (dịch mô hoặc máu) xuất hiện ở đốc kim.
* Giai đoạn 4: trả piston lại vị trí ban đầu để cân bằng áp lực và rút kim ra
khỏi tổn thương

Lưu ý
- Nếu hút ra trên 0, 3 ml máu, nên ngưng hút và làm lại.
- Nếu chọc nhầm vào mạch máu lớn, máu sẽ ùa vào ống chích ngay khi kéo
piston.
- Nếu chọc nhầm vào khí quản, ngừng chọc và chọc ở vị trí khác.
- Nếu chọc vào vùng hoại tử, nên chọc lại ở vị trí ngoại vi tổn thương.
- Chọc hút một nang giáp chỉ cần kéo piston không cần cắt.
- Phải cân bằng áp lực trước khi rút kim ra khỏi tổn thương, nếu không chất
bệnh phẩm sẽ bị hút vào ống chích.
- Tỷ lệ lấy không đủ bệnh phẩm cho chẩn đoán, dù là người làm có đầy đủ
kinh nghiệm, là 4-8%.
Trải và nhuộm bệnh phẩm
* Trải bệnh phẩm
- Bệnh phẩm được xịt ra trên lam thành một giọt duy nhất, nên để mũi kim
tiếp xúc với mặt lam lúc xịt
- Tránh xịt bệnh phẩm ra thành nhiều giọt nhỏ, bệnh phẩm sẽ mau khô làm
tế bào và hồng cầu chồng chất lên nhau, còn nếu cố gắng trải giọt bệnh phẩm
đã khô sẽ làm tế bào bị biến dạng (hình 2, 3).
- Dùng một lam thứ hai hoặc lamelle đè nhẹ lên bệnh phẩm rồi kéo. Nếu
bệnh phẩm có nhiều dịch và máu thì kéo như trải phết máu. Nếu là dịch thì
quay ly tâm 1000 vòng/phút trong vòng 10 phút và trải phần cặn lắng như đã
mô tả ở trên. (hình 4)

×