Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

CHÁN ĂN Ở TRẺ EM pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 7 trang )

CHÁN ĂN Ở TRẺ EM


TÓM TẮT:
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu nguyên nhân gây chán ăn kéo dài ở trẻ em.
Khảo sát 132 trẻ dưới 4 tuổi có tình trạng chán ăn kéo dài. Kết quả cho thấy
các mức độ chán ăn nhẹ, vừa và nặng xấp xỉ 25%, có 96,2% trẻ bắt đầu chán
ăn ở độ tuổi dưới 36 tháng, 79,5% có nguyên nhân gây ra chán ăn, trong đó
có 49% do nhiễm trùng, 11% do chuyển tiếp chế độ ăn không đúng cách, 8%
do stress, 12% do các nguyên nhân khác và 20,5% không rõ nguyên nhân.
Dù nguyên nhân đã được giải quyết tốt, nhưng đa số trẻ vẫn tiếp tục chán ăn.
Ðiều này cho thấy cần tìm hiểu sâu hơn về mặt cận lâm sàng.
SUMMARY
EXPLORATION OF ANOREXIC STATUS IN CHILDREN
Nguyen Thanh Danh * Y hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 3 - N
o
1 - 1999: 160-
164
The study aimed to find out the causes of the chronic anorexia in children.
Explorating132 chronic anorexic children under years of age. The result
have shown that : degrees of mild, moderate, severe anorexia were
approximate 25% ; 96,2% of the children began to be anorexia at under three
years of age, with 79,5% of them had the first causes. In which, infection
49%, wrong transfer in diet 11%, stress 8%. Other causes 12%, and
unknown causes 20,5%. Almost the anorexia in children were still
continuing even though the anorexic causes were solved, so it is necessary to
find out the paraclinical profound causes of the anorexia in children.
ÐẶT VẤN ÐỀ:
Chán ăn kéo dài là nguyên nhân quan trọng gây ra suy dinh dưỡng (SDD) và
chậm phát triển ở trẻ em, dù trẻ thuộc gia đình không thiếu ăn. Chỉ riêng tại
Trung Tâm Dinh Dưỡng Trẻ Em TP.Hồ Chí Minh, tùy theo mùa hàng ngày


có từ 25% - 30% trẻ đến khám vì lý do chán ăn và hàng năm có đến hàng
chục ngàn lượt trẻ đến khám vì lý do này và thường kèm theo đứng cân,
chậm tăng cân, suy dinh dưỡng. Các báo cáo thường đề cập đến vấn đề tâm
lý, lứa tuổi các sai lầm do ăn uống và đã có những thành công nhất định
(10,12)
. Tuy vậy, trên thực tế không khỏi tránh được những bế tắc khi áp dụng.
Do đó khảo sát này nhằm tìm hiểu nguyên nhân và đánh giá mức độ chán ăn
để giúp cho việc điều trị và phòng ngừa được tốt hơn.
ÐỐI TƯỢNG VÀ PHUƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Ðối tượng nghiên cứu:
Trẻ em dưới 4 tuổi có tình trạng chán ăn kéo dài, ít nhất là nửa tháng gồm 72
nam và 60 nữ với tình trạng dinh dưỡng từ bình thường đến SDD ở các mức
độ khác nhau đến điều trị tại Trung Tâm Phục Hồi Trẻ Mồ Côi Suy Dinh
Dưỡng vào các sáng thứ 3, 5, 7 và tại Trung Tâm Dinh Dưỡng Trẻ Em vào
các sáng thứ 2, 4 hàng tuần trong 10 tháng, từ tháng 10 năm 1997 đến tháng
8 năm 1998.
Tiêu chuẩn loại trừ: Các trẻ chán ăn cấp tính với nguyên nhân đã rõ ràng như
nhiễm trùng cấp, đang mắc các bệnh nội khoa, dị tật bẩm sinh, gia đình
không đủ sức nuôi.
Phuơng pháp nghiên cứu:
- Loại hình nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả.
- Kỹ thuật thu thập số liệu: Tất cả các cháu được khám và ghi nhận các số đo
về nhân trắc, tiền sử, bệnh sử, các biểu hiện lâm sàng, các nguyên nhân gây
chán ăn. Nguyên nhân do nhiễm trùng được ghi nhận từ bệnh án, giấy ra
viện, sổ y bạ và toa thuốc của bệnh nhi.
- Số năng lượng tiêu thụ theo kilogram thể trọng trong ngày (Kcal/Kg/Ngày)
được ước lượng dựa vào số lượng và chất lượng thức ăn đưa vào cơ thể bằng
phương pháp hỏi ghi trực tiếp 24 giờ trong 3 ngày liên tiếp có đối chiếu với
các dụng cụ đo lường chuẩn
(9)

. Tất cả các thức ăn được qui đổi ra trọng
lượng lương thực, thực phẩm sống sạch. Sau đó dựa vào bảng thành phần
dinh dưỡng thức ăn Việt Nam
(4)
để tính ra giá trị sinh năng lượng của khẩu
phần. Sữa do bú mẹ được tính dựa theo lượng sữa bài tiết của các bà mẹ cho
con bú ở Việt Nam và các nước đang phát triển
(6,11)
, kết hợp với tình trạng
tiết sữa, số lần và khoảng cách cho bú trong 24 giờ :
0-6 tháng: 500-700ml sữa/ngày; một lần bú: 60ml
6-12 tháng: 400-600ml sữa/ngày; một lần bú: 50ml
12-24 tháng:300-500ml sữa/ngày; một lần bú: 35ml
CÁC TIÊU CHUẨN ÐÁNH GIÁ
Tình trạng dinh dưỡng của trẻ được phân loại theo Tổ Chức Y Tế Thế



Giới và quần thể tham khảo National Center For Health Statistic với chỉ tiêu
cân nặng theo tuổi.
Cách đánh giá mức độ chán ăn được dựa vào số năng lượng tiêu thụ mỗi
ngày cho mỗi kg cân nặng thường ít hơn nhu cầu tối thiểu 100
Kcal/Kg/Ngày. Mức độ được đánh giá như sau :
Nhẹ: (70-<90 Kcal/Kg/Ngày)
Vừa: (50-<70 Kcal/Kg/Ngày)
Nặng: (Dưới 50 Kcal/Kg/Ngày)
So với tuổi dưới 4, nhu cầu năng lượng /Kg/24 giờ tối thiểu là 100
Kcal/Kg/24 giờ. Nếu chán ăn sẽ làm cho trẻ ăn ít và không đủ đáp ứng nhu
cầu. Mức độ thiếu năng lượng và các chất dinh dưỡng tăng song song với
mức độ chán ăn.

Phân tích thống kê:
Các test thống kê được dùng trong nghiên cưú này là phép kiểm X
2
và phép
kiểm t và được coi là có ý nghĩa thống kê khi P<0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Khảo sát 132 trẻ chán ăn gồm 72 nam và 60 nữ, có độ tuổi từ 3 tháng đến 48
tháng, có tình trạng dinh dưỡng : 30 trẻ bình thường, 36 trẻ SDD độ I, 56 trẻ
SDD độ II và 10 trẻ SDD độ III và có vùng cư ngụ được phân bố như sau:

%

BIỂU ÐỒ 1: Tỉ lệ % phân bố theo vùng cư ngụ của trẻ đến khám.
Tuổi bắt đầu chán ăn và tuổi đến
khám

%

BIỂU ÐỒ 2 : So sánh tỉ lệ phân bố theo tuổi bắt đầu chán ăn và tuổi đến
khám.

Hầu hết (96,2%) trẻ khởi sự chán ăn trước 36 tháng và tập trung nhiều nhất ở
lứa tuổi bắt đầu ăn dặm cho đến 2 tuổi (87,1%) và đỉnh cao nhất của lứa tuổi
xuất hiện chán ăn là 6-12 tháng tuổi (31,8%), đỉnh tuổi lúc đến khám từ 12-
24 tháng (39,4%). Tuổi bắt đầu chán ăn và tuổi đến khám có sự sai biệt
thống kê rất lớn (P<0,001).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×