Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Bệnh vảy nến: Cẩn trọng và kiên trì khi dùng thuốc pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.32 KB, 10 trang )

Bệnh vảy nến: Cẩn trọng và kiên
trì khi dùng thuốc

Vảy nến là bệnh tăng sinh da lành tính, không ảnh hưởng
nhiều đến sức khỏe, tuổi thọ, song ảnh hưởng tới sinh hoạt,
thẩm mỹ, tâm lý. Bệnh mạn tính suốt đời, có các đợt bùng
phát mạnh, xen kẽ các đợt thuyên giảm. Bệnh không chữa
khỏi, nhưng nếu dùng thuốc đúng cách sẽ giảm triệu chứng,
giảm tái phát và có thời gian ổn định kéo dài.


Đặc điểm của bệnh
Bệnh vảy nến (psoriasis) gặp ở mọi
lứa tuổi, nhiều ở tuổi đôi mươi, có khi
ở tuổi dưới 10 hay trên 50. Nam hay
nữ đều mắc. Ở nữ mang thai, bệnh có thể nặng hơn, dễ bùng
phát đợt mới hơn; thêm nữa, nữ thường mặc cảm về thẩm mỹ
nhiều hơn, nôn nóng chữa không đúng, có khi làm nặng thêm.
Biểu hiện bệnh dễ nhận biết. Khởi phát ở bất cứ vị trí nào, có
nhiều người khởi phát ở da đầu phía sau, tồn tại ở đó suốt đời

Ảnh minh họa
hoặc rất nhiều năm, rồi lan ra toàn thân. Da đầu bị đỏ ở một hay
nhiều đám rồi dày lên, hình thành vảy hết lớp này đến lớp khác.
Vảy khô không bết dính, tóc vẫn mọc xuyên qua vảy, nhiều lớp
xếp chồng lên nhau, cứ lớp vảy này bong ra thì lớp khác xuất
hiện, có giới hạn rõ, làm thành gờ trên mặt da màu hồng hoa đào
hay đỏ thẫm. Sẩn có kích thước rất nhỏ từ các chấm giọt (khoảng
0,2 - 1cm) đến thành các mảng lớn, có khi bao phủ toàn bộ cơ
thể. Trên bề mặt sẩn có vảy da trắng như khảm xà cừ. Nếu cạo
thấy vảy bong ra từng lớp, dưới cùng là nền da đỏ hồng, rớm các


giọt máu nhỏ li ti. Một điểm nữa dễ nhận biết là các tổn thương có
vị trí đối xứng ở hai bên cơ thể, hiếm khi xảy ra ở da mặt. Ngoài
thể vảy nến thông thường, còn có thể khác như: thể giọt, thể đảo
ngược, thể ở lòng bàn chân, thể mủ, thể móng - khớp, thể gây
viêm đầu chi liên tục.
Nguyên nhân bệnh đến nay chưa hoàn toàn sáng tỏ. Trong số
các yếu tố gây bệnh, nhận thấy có yếu tố di truyền. Nếu chỉ có
cha hay chỉ có mẹ bị bệnh thì chỉ có 8%, còn nếu cả cha hay mẹ
bị bệnh thì có tới 41% con có thể bị mắc. So với các bệnh có yếu
tố di truyền khác, thì tỷ này không phải cao. Không vì lý do này
mà dấu giếm không chữa. Ngay các nước Âu - Mỹ, tỷ lệ mắc
chiếm tới 1 - 2% dân số, vẫn chữa như những bệnh thông
thường khác. Bình tĩnh, không mặc cảm, không nôn nóng, sẽ có
nhiều ích lợi trong chữa bệnh, phòng tái phát.
Một số thuốc thường dùng
Mỡ goudron, mỡ anthracin: là loại cổ điển. Có hiệu quả khá. Kích
thích da, làm cho da bị đen. Nay ít dùng.
Mỡ hay cream corticoid: nếu tổn thương trên da đầu có thể bôi
cream hay bôi lotion beprosalic (chứa betamethason, salycilic
acid) chống viêm và bong vảy nhẹ, không làm nhờn da. Nếu tổn
thương da ở mình hay tay chân thì chọn dùng một trong các loại
steroid như: beprosalic, lorinden A, diprosalic, daivonex. Mỡ hay
cream corticoid có hiệu quả không bền vững, các triệu chứng
xuất hiện lại ngay sau khi ngừng dùng. Nếu dùng liên tục, sẽ bị
hại da. Nhiều thầy thuốc không thích. Người bệnh ngại đi khám,
tự ý dùng hay dùng kéo dài nên bị tai biến da (mất sức đề kháng
của da, dễ bị nhiễm khuẩn, nhăn da, teo da). Có thể dùng thuốc
uống hay thuốc tiêm corticoid, có hiệu quả cao hơn song có nhiều
tác hại hơn (bị ứ nước, suy thận), không thể dùng lâu dài vì gây
tai biến.

Thuốc uống methotrexat: vốn là thuốc chữa ung thư, được dùng
uống chữa bệnh vảy nến. Có tác dụng gián phân. Thuốc gây độc
cho gan. Nếu dùng liều cao và/hoặc kéo dài sẽ gây xơ gan. Ngay
người bình thường, khi dùng thuốc này cũng có thể bị mỏi mệt,
nhức đầu, rụng tóc. Dùng liều cao và/ hoặc kéo dài, các tác hại
này càng nặng hơn. Giá thành thấp nên thích hợp với một số
người.
Thuốc uống dẫn xuất của vitamin A: hay dùng là biệt dược
etretinate, acitretin. Có hiệu quả cao nhưng có thể gâydị dạng
thai, gây khô niêm mạc, mắt, mũi,môi, gây tróc da ở lòng bàn tay
lòng bànchân, làm rụng tóc, tăng lipid máu. Muốndùng phải thử
chắc chắn không có thai.Trong thời gian trước và sau khi dùng
thuốcmột tháng phải dùng các biện pháp tránhthai hữu hiệu.
Thuốc uống ức chế miễn dịch: vốn là các thuốc chống thải loại cơ
quan ghép. Không phải dùng mọi thuốc ức chế miễn dịch, mà có
chọn lọc. Hay dùng thuốc ức chế miễn dịch ciclosporin. Thuốc
này không gây suy giảm hệ miễn dịch đặc hiệu, không ức chế
hoạt động tủy xương, làm giảm nhanh độ nặng và diện tích vùng
da bị tổn thương, nhưng ảnh hưởng đến huyết áp, creatinin huyết
(cần theo dõi). Thuốc có thể gây ức chế hấp thu tự nhiên, ức chế
miễn dịch của thai, không dùng cho người có thai.
Thuốc uống kết hợp chiếu tia tử ngoại: dùng thuốc uống gây cảm
ứng với ánh nắng (như psoralen) kết hợp chiếu tia tử ngoại nhóm
A (có bước sóng 320 - 400 nanomet). Có hiệu quả tốt. Tuy không
gây cháy da như tia tử ngoại nhóm B (có bước sóng 290 - 320
nanomet) song chiếu tia tử ngoại nhóm A lâu dài cũng làm đỏ da,
ngứa da, thúc đẩy lão hóa da, làm cườm mắt, đặc biệt gây ung
thư da. Dùng cách này tốn kém, mất nhiều thời gian.
Trong các độc tính chung, có một số độc tính gây bất lợi nhiều
hơn cho nữ như tàn phá da (các loại corticoid) có hại cho thai

(vitamin A, thuốc ức chế miễn dịch), vì vậy, có những thuốc
không nên dùng cho người có thai. Tuy là bệnh dễ nhận biết
nhưng trong mọi trường hợp cần phải khám tại chuyên khoa da
liễu, thầy thuốc sẽ cân nhắc, cho dùng loại thuốc có lợi nhất. Khi
chữa đã đến mức ổn định (tạm chấp nhận được) thầy thuốc cho
ngừng dùng. Khi bệnh tái phát trở lại, tùy theo tình trạng người
bệnh và bệnh cảnh lúc ấy, thầy thuốc cho dùng thuốc trở lại, có
khi không phải là thứ thuốc đã cho lần trước. Không vì mong
muốn chữa khỏi mà tự ý dùng kéo dài hay ngại đi khám mà dùng
theo đơn cũ. Hai điều này đều nguy hiểm.
Ngoài ra, ở một số người, có khi da đầu bị tổn thương sớm nhất,
vảy nến bong ra gây ngứa khó chịu, nhầm là gầu. Ơ một số
người có thể tổn thương móng, móng bị tách, sùi, dễ gãy, nhầm
với nấm móng. Do không đi khám, nhầm lẫn bệnh, nên dẫn đến
dùng thuốc trị gàu, trị nấm sẽ không đỡ, mà có hại. Các sang
chấn tâm lý (stress), nhiễm khuẩn do gãi, chà xát mạnh sẽ làm
cho bệnh nặng thêm, cần tránh.

×