Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Bệnh vảy nến và cách điều trị pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.27 KB, 8 trang )

Bệnh vảy nến và
cách điều trị

Vảy nến là một bệnh ngoài da thường gặp, do nguyên nhân
sinh bệnh phức tạp, vảy nến là một trong những bệnh về da
khó chữa hết hẳn. Bệnh lành tính, thường không ảnh hưởng
đến sức khoẻ nhưng tác động xấu đến thẩm mỹ, tâm lý và
những hệ
Biểu hiện vảy nến trên da
Bệnh vảy nến biểu hiện trên da bằng
các mảng đỏ có giới hạn rõ và đóng
vảy trắng đục. Khi đè lên, màu đỏ này
biến mất. Các thương tổn này phân
bổ một cách đối xứng ở rìa chân tóc, da đầu (trông giống như
gàu), cùi chỏ, đầu gối, vùng xương cụt, bộ phận sinh dục hoặc
các nếp gấp. Các mảng đỏ có ranh giới rất rõ với vùng da lành
bên cạnh, kích thước từ vài centimet đến hàng chục centimet

Tổn thương do bệnh vảy
nến.
(vảy nến mảng) hoặc chỉ là các thương tổn màu đỏ, hơi gồ lên
mặt da, kích thước chừng vài milimet, khá đồng đều (vảy nến
giọt). Trường hợp nặng, bệnh lan rộng toàn thân (vảy nến toàn
thân).
Bệnh không đau, có thể ngứa với mức độ ít nhiều tuỳ người.
Móng có thể bị hỏng, có các chất bột vụn đội bờ tự do lên và bị
ăn khuyết dần hoặc phiến móng trở nên xù xì, lỗ chỗ như kim
đâm vào. Trường hợp nặng, có thể gây sưng, đau và biến dạng
các khớp. Da có thể nổi nhiều mụn mủ ở bàn tay, bàn chân hoặc
rải rác khắp người. Lúc này bệnh nhân thường bị sốt, mệt mỏi
hoặc căng đau vùng da bệnh. Bệnh cũng có thể làm cho da cả


người bị đỏ không hồi phục (đỏ da toàn thân).
Bệnh có tính di truyền
Bất thường miễn dịch được cho là nguyên nhân chính gây ra
bệnh vảy nến. Thêm vào đó, yếu tố di truyền, các xáo trộn sinh
hoá, chấn thương tâm lý, thuốc cũng ảnh hưởng trên sự khởi
phát, tái phát hoặc làm bệnh nặng thêm.
Bệnh vảy nến có tính di truyền, theo các bác sĩ, nếu trong gia
đình chỉ có cha hoặc mẹ bị bệnh thì khoảng 8% các con sẽ mắc
bệnh, còn nếu cả cha và mẹ cùng bị vảy nến thì khả năng mắc
bệnh của các con là 41%.
Các phương pháp điều trị bệnh vảy nến
Thuốc uống: bác sĩ thường kê đơn các thuốc giúp giảm triệu
chứng ngứa, lo âu, thuốc nâng tổng trạng Thuốc đặc trị cân
nhắc cho các trường hợp nặng: biến chứng khớp, vảy nến mủ,
đỏ da toàn thân
Thuốc bôi: các thuốc giúp lột sừng, tiêu sừng như axit salicylic,
AHA, các dẫn xuất của retinoid (tarazotene), ure, hắc ín, dầu
Cade Thuốc bôi có chứa các chất corticoid giúp thuyên giảm
nhanh triệu chứng ngứa, đỏ. Các thuốc này nếu dùng lâu sẽ gây
teo da, rậm lông, nổi mụn, đỏ da, tăng nguy cơ bội nhiễm (vi
khuẩn, vi nấm, siêu vi khuẩn) hoặc làm nặng tình trạng bệnh
Quang và quang hoá liệu pháp: Phương pháp này dùng cho bệnh
nhân vảy nến dai dẳng hoặc người có diện tích da bệnh khá
nhiều (hơn 40% diện tích cơ thể). Tuy nhiên không phải ai cũng
được áp dụng. Người có tiền căn nhạy cảm ánh sáng, đục thuỷ
tinh thể, suy gan thận, có các bệnh gắn liền với nguy cơ ung thư
da như ngộ độc arsenic, có các bệnh mà phơi nắng sẽ làm nặng
thêm như bệnh lupus ban đỏ, porphyrie hoặc trẻ em dưới 12 tuổi
đều không được chỉ định.
Tuy không chữa khỏi triệt để nhưng việc trị liệu sẽ giúp cải thiện

chất lượng sống, thuyên giảm các biểu hiện ngoài da, giảm nguy
cơ dẫn đến các biến chứng nặng nề, khó chữa. Không những
thế, trị liệu đúng cách còn giúp bệnh nhân giới hạn các tác dụng
phụ do thuốc gây ra.
Phòng bệnh thường chỉ nhằm ngăn chặn sự trầm trọng, hơn là
ngăn bệnh không xảy đến. Vì vậy tìm hiểu cách sống chung với
bệnh là một việc cần thiết, giúp người bệnh có một cuộc sống
thoải mái.
Khi mắc bệnh, không cào gãi, chà xát thương tổn vì ở bệnh vảy
nến có hiện tượng Koebner, là hiện tượng nổi thêm sang thương
mới sau khi có kích thích cơ học. Không tự điều trị theo mách bảo
hoặc dùng đi dùng lại đơn thuốc đã đỡ bệnh trước đây mà không
qua ý kiến của bác sĩ. Không tắm nước quá nóng vì có thể làm
nặng thêm tình trạng khô da, tróc vảy. Không uống rượu.

×