Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

ĐỀ TÀI : TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.41 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN MƠN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN
ĐỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
1. BÙI PHI CÔNG

10327441

2. NGUYỄN TẤN CƯỜNG

10307391

3. HÀ SƠN ĐẠI

10307331

4. PHẠM VĂN ĐẠT

10318891

5. VƯƠNG ANH VIỄN ĐÔNG

10358531

6. NGUYỄN TRƯỜNG HẢO


10318921

7. PHAN HIẾU PHƯỚC

10326581

8. VÕ THANH SƠN

10339351

9. TRẦN VINH THẠNH

10313371

10.NGUYỄN HỮU TRÍ

10339371

11.CAO VĂN TRÍ

10345911

12.NGUYỄN CƠNG ỬNG

10329871

GVHD: TS. NGUYỄN MINH TRÍ.


TP.HCM, THÁNG 3/2011


2


LỜI CAM KẾT
Nhóm chúng em cam kết đây là tiểu luận của riêng nhóm chúng em
khơng sao chép của bất cứ ai. Chỉ sử dụng các đoạn văn trích dẫn bằng
1/10 số chữ trong tiểu luận.
Ký tên
Nhóm trưởng
Bùi Phi Cơng

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi thời đại muốn chiến thắng kẻ thù xâm lược xây dựng đất
nước thì chính sách quan trọng nhất chính là tạo một khối đoàn kết trong
nhân dân. Quả thật nếu trong một đất nước khơng có sự đồn kết chắc chắn
đất nước sẽ suy đồi, vì thế khi sinh thời Hồ Chí Minh ln quan tâm đến
chính sách đại đồn kết dân tộc, vì theo Người muốn giải phóng đất nước
thì phải giải phóng dân tộc trước, tức là phải tạo một khối đồn kết giữa
các dân tộc với nhau. Chính vì chính sách này mà cách mạng ta đã thành
công và ngày nay tiếp bước tư tưởng của Bác, Đảng và nhà nước ta khơng
ngừng phát huy tinh thần đại đồn kết dân tộc. Để hiểu rõ hơn tư tưởng
Hồ Chí Minh vể vần đề này, nhóm chúng em đã chọn đề tài Tư Tưởng Hồ
Chí Minh Về Vấn Đề Đại Đồn Kết Dân Tộc làm tiểu luận mơn học.
2. Mục đích nghiên cứu
Như Hồ Chí Minh đã nói :
“ Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết,
Thành cơng, thành cơng, đại thành công.”


3


Đồn kết là sức mạnh mà khơng một kẻ thù nào có thể đánh thắng
được. Có đồn kết sẽ có thành cơng, có đại đồn kết sẽ có đại thành cơng,
vì thế mà Hồ Chí Minh khơng ngừng kêu gọi sự đoàn kết trong toàn dân,
dù họ là ai, thuộc tầng lớp hay tơn giáo nào. Có thể nói Bác chính là ngọn
cờ đầu khơi lên tinh thần đồn kết dân tộc mở ra một chiến lựơc giải
phóng, xây dựng đất nước. Khi chọn đề tài này làm tiểu luận mục đích của
nhóm chúng em là hiểu và nắm bắt được tầm quan trọng của việc đoàn kết
giữa các dân tộc, đồng thời trang bị cho mình một kiến thức về tư tưởng
của Bác trong việc thực hiện đại đoàn kết dân tộc.
3. Tóm tắt nội dung nghiên cứu
Nội dung chính của bài tiểu luận của nhóm chúng em gồm có 3
chương như sau:
3.1.

Chương 1: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc.

Nội dung chính của chương này nói về việc Hồ Chí Minh nhận thức
một cách sâu sắc của việc đoàn kết toàn dân chống giặc cứu nước. Từ
những lần thất bại của các phong trào khởi nghĩa trước đó và sự thành
cơng mạnh mẽ của cách mạng tháng 10 Nga, Bác nhận thấy muốn cách
mạng thành cơng điều cần thiết là phải đồn kết các dân tộc lại thành một
lực lượng thống nhất và từ đó đã hình thành nên tư tưởng của Bác.
3.2.

Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh kết hợp sức mạnh dân tộc

với sức mạnh thời đại.

Từ thành công của cách mạng tháng 10 Nga đã làm tình hình thế
giới bắt đầu có nhiều chuyển biến tích cực cho các nước thuộc địa. Bác đã
áp dụng hoàn cảnh nước nhà vào hoàn cảnh thời đại, Bác cho rằng muốn
cách mạng Việt Nam thành cơng thì điều cần thiết là phải phát huy sức
mạnh toàn dân với sự đoàn kết quốc tế, và từ đây Bác đã khơng ngừng kêu
gọi sự đồn kết giữa các nước vô sản với nhau để làm cách mạng thành
cơng. Đặc biệt là sự đồn kết giữa các dân tộc Việt Nam với thế giới.

4


3.3.

Chương 3: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong bối cảnh hiện nay.
Tiếp bước tư tưởng của Bác về vấn đề đại đoàn kết dân tộc Đảng và
nhà nước ta không ngừng áp dụng tư tưởng vào thực tiễn xã hội. Nhiều
nghị quyết của Đảng vể vấn đề dân tộc cho thấy nhà nước ta đang cố gắng
đưa tư tưởng của bác vào để xây dựng một xã hội cơng bằng hơn, đồn kết
hơn.
4. Kết quả nghiên cứu
Trong q trình nghiên cứu đề tài nhóm chúng em đã học được rất
nhiều điều. Chúng em hiểu thêm về tầm quan trọng của việc đại đoàn kết
dân tộc, quả thật cũng từ tư tưởng của Bác mà quân và dân ta đã chíên
thắng kẻ thù xâm lược giành độc lập dân tộc. Nhờ chính sách đại đồn kết
dân tộc mà giờ đây đất nước ta đã trở thành một khối đồn kết anh em dù
chúng ta có tới 54 dân tộc, đây cũng là một thành công lớn của Đảng và
nhà nước ta trong việc thực thi tư tưởng của Bác. Từ tư tưởng của Bác mà
Đảng ta cũng tổ chức nhiều buổi,chương trình đa dân tộc như cuộc gặp các

dân tộc thiểu số gần đây[3], chứng tỏ nhà nước đang đặc biệt quan tâm đến
việc làm sao cho 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam trở thành một khối
đoàn kết vững mạnh.
5. Kết luận và đề suất

CHƯƠNG I
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT DÂN TỘC
1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.1 Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần đoàn kết cộng đồng
của dân tộc Viện Nam.

5


Dân tộc ta hình thành, tồn tại và phát triển suốt bốn nghìn năm lịch
sử, gắn liền với yếu tố đoàn kết cộng đồng dựng nước và giữ nước. Để tồn
tại và phát triển, dân ta phải chống lại thiên tai thường xuyên và liên tục, trị
thủy các con sông lớn, cải tạo xây dựng đồng ruộng, trồng lúa nước. Với
nền văn minh nơng nghiệp trồng lúa nước chính là văn hóa tạo ra yếu tố
đồn kết cộng đồng, của những người cùng sống trên một dải đất, có chung
một kiểu sinh hoạt và kinh tế.
Mặt khác dân tộc ta phải thường xuyên đối đầu với các thế lực ngoại
bang hung bạo. Để chiến thắng dân ta phải xiết chặt muôn người như một
chống xâm lược tạo nên truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc. Yêu
nước – nhân nghĩa – đồn kết đã trở thành một tình cảm tự nhiên, in đậm
dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống, tạo thành quan hệ ba tầng chặt
chẽ : gia đình – làng xã – quốc gia. Từ đời này sang đời khác, tổ tiên ta đã
có rất nhiều những câu ca dao, chuyện cổ tích, ngạn ngữ ca ngợi truyền
thống dân tộc.
Hồ Chí Minh đã sớm hấp thụ và nhận thức được vai trò của truyền

thống yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định: “
dân ta có một lịng nịng nàn u nước. Đó là truyền thống quý báu của ta.
Từ xưa đến nay, mỗi khi quốc gia bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sơi nổi,
nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự
nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết cộng đồng của dân tộc
Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đồn kết dân tộc.
1.2 Người trăn trở về vấn đề đoàn kết lực lượng chống Pháp và cách
mạng giải phóng dân tộc trên thế giới
Hồ Chí Minh thấy các phong trào chống Pháp của dân ta tuy rầm rộ
nhưng đều thất bại, do không quy tụ được sức mạnh của dân tộc. Người
thấy được những hạn chế trong việc tập hợp lực lượng yêu nước của các
6


nhà yêu nước tiền bối. Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái
Học… đều yêu nước thương dân, nhưng về tập hợp lực lượng thì các bậc
tiền bối này đều có vấn đề, cho nên tập hợp khơng được rộng rãi, khơng
đầy đủ vì thế tất cả các cuộc khởi nghĩa đều thất bại. Như cụ Phan Bội
Châu chủ chương tập hợp 10 hạng người chống Pháp: Phú hào, Quý tộc,
Nhi nữ, Anh sĩ, Du đồ, Hôi đảng, Thông ngôn, Ký lục, Bồi bếp, tín đồ
Thiên Chúa giáo nhưng lại khơng có cơng nhân và nơng dân.
Người đã đi khắp các thuộc địa và nhiều nước đế quốc, nhưng vẫn chưa
thấy dân tộc nào làm giải phóng thành cơng, do thiếu sự lãnh đạo đúng
đắn, chưa biết tổ chức đoàn kết lực lượng. Nghiên cứu Cách mạng Tháng
10 Nga, Người thấy nổi bậc bài học về đoàn kết tập hợp lực lượng cơng
nơng để làm cách mạng giành chính quyền và bảo vệ chính quyền non trẻ,
đánh tan sự tấn công của 14 nước đế quốc và bọn Bạch vệ, xây dựng đất
nước theo con đường XHCN.

1.3 Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về đoàn kết lực
lượng trong cách mạng XHCN
Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản muốn thực
hiện vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công
nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin là vì chủ nghĩa MácLênin đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Khi
Người đọc được tác phẩm của V.I.Lênin: sở khảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, Người đã vui đến phát
khóc[4.tr21]. Lênin cho rằng, sự liên minh giai cấp, trước hết liên minh
công nông là hết sức cần thiết bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô
sản, nếu khơng có sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân lao động với đội
ngũ tiên phong của nó, tức giai cấp vơ sản, thì cách mạng vơ sản khơng thể
thực hiện được.
7


Như vậy chủ nghĩa Mác-Lênin có ý nghĩa rất to lớn, khơng những
đã chỉ ra vai trị của quần chúng nhân dân trong lịch sử mà còn chỉ ra vị trí
của khối liên minh cơng nơng trong cách mạng vơ sản. Đó cịn là những
quan điểm lý luận hết sức cần thiết để Hồ Chí Minh có cơ sở khoa học
trong đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn chế trong các
di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của các nhà yêu
nước tiền bối, các nhà cách mạng lớn trên thế giới và từ đó hình thành nên
tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
1.4 Tổng kết kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong trào
cách mạng thế giới
Trong quá trình đi tìm đường cứu nước cũng như sau này, Hồ Chí
Minh đã ln chú ý nghiên cứu, tổng kết những bài học kinh nghiệm của
phong trào yêu nước Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc ở các

nước thuộc địa. Đặc biệt, Hồ Chí Minh nghiên cứu những bài học của cách
mạng Tháng 10 Nga. Là bài học về huy động, tập hợp lực lượng quần
chúng cơng nơng đơng đảo để giành chính quyền cách mạng, để xây dựng
chế độ XHCN đã giúp Hồ Chí Minh thấy rõ tầm quan trọng của việc đoàn
kết, tập hợp lực lượng cách mạng, trước hết là công nông.
Những kinh nghiệm rút ra từ thành công hay thất bại của phong trào
dân tộc dân chủ, nhất là kinh nghiệm thắng lợi của cách mạng Tháng 10
Nga là cơ sở thực tiễn cần thiết cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về đại đồn kết dân tộc.
2. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân
tộc
2.1 Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành cơng
của cách mạng
Hồ Chí Minh đã nói:
“Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành công.”
8


Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân ta
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX bị thất bại có một nguyên nhân sâu xa là
cả nước đã khơng đồn kết được thành một khối thống nhất. Người thấy
rằng, muốn đưa cách mạng đến thành cơng phải có lực lượng cách mạng
đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công xã hội mới, muốn
có được lực lượng cách mạng đủ mạnh phải thực hiện đại đoàn kết, quy tụ
mọi lực lượng cách mạng thành một khối vững chắc. Do đó đồn kết trở
thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng, là nhân tố bảo đảm cho sự
thắng lợi của cách mạng.
Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức
và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách

mạng. Người đã vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
cách mạng vô sản vào thực tiễn Việt Nam, xây dựng lý luận cách mạng
thuộc địa, trong đó người quan tâm nhiều đến vấn đề lực lượng cách mạng
và phương pháp cách mạng.
Hồ Chí Minh ln ln nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần
quan điểm coi sức mạnh của cách mạng là sức mạnh của nhân dân: “Dễ
trăm lần khơng dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”[4.tr45].
Đồng thời, người lưu ý rằng, nhân dân bao gồm nhiều lứa tuổi, nghề
nghiệp, nhiều tầng lớp, giai cấp, nhiều dân tộc, tơn giáo, do đó phải đồn
kết nhân dân vào trong Mặt trận dân tộc thống nhất. Để làm được việc đó,
Người yêu cầu Đảng, nhà nước phải có chủ trương, chính sách đúng đắn,
phù hợp với giai cấp, tầng lớp, trên cơ sở lấy lợi ích chung của Tổ quốc và
những quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động, “làm mẫu chung” cho sự
đoàn kết.
2.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Đối với Hồ Chí Minh, yêu nước phải thực hiện thành thương dân,
khơng thương dân thì khơng thể có tinh thần yêu nước. Dân ở đây là số
9


đơng, phải làm cho số đơng đó ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành, sống tự do, hạnh phúc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc, chúng ta
khơng chỉ thấy rõ việc Người nhấn mạnh vai trò to lớn của dân mà cịn coi
đại đồn kết dân tộc là mục tiêu của cách mạng. Do đó, tư tưởng đại đồn
kết dân tộc phải được quán triệt trong mọi đường lối, chủ chương, chính
sách của Đảng. Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt
Nam ngày 3-3-1951, Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng tuyên bố trước toàn
thể dân tộc mục đích của Đảng lao động Việt Nam có thể gồm trong 8 chữ

là: Đoàn kết toàn dân, phụng sự tổ quốc[4.tr98].
Xem dân là gốc, là lực lượng tự giải phóng nên Hồ Chí Minh vấn đề
đồn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân để tạo ra sức mạnh là vấn đề cơ bản
của cách mạng. Hồ Chí Minh cịn cho rằng, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ
là mục tiêu nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ
hàng đầu của cả dân tộc.
2.3 Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm dân dùng để chỉ “ mọi con
dân đất Việt ” , mỗi một người đều là “ con rồng cháu tiên ”, không phân
biệt “ già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý tiện ”[4.tr99]. Đại đồn kết dân
tộc có nghĩa là phải tập hợp được mọi người dân vào một khối trong cuộc
đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nêu rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho
thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta cịn phải đồn kết để xây dựng nước
nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lịng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân
dân thì ta đoàn kết với họ”[4.tr100].
Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Người đã đưa ra những
nguyên tắc sau:
2.3.1 Phải thừa kế truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa của
dân tộc, phải có tấm lịng khoang dung, độ lượng với con người. Hồ Chí

10


Minh cho rằng, ngay cả đối với những người lầm đường, lạc lối nhưng đã
biết hối cải, chúng ta vẫn kéo họ về phía dân tộc, vẫn đồn kết với họ.
2.3.2 Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất, có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là để tạo nên lực lượng cách mạng,
để làm cách mạng xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Do đó, đại đồn
kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở tư tưởng, ở những lời

kêu gọi, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu
hành động của tồn Đảng, tồn dân ta. Nó phải trở thành sức mạnh vật
chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức và tổ chức đó là Mặt trận dân tộc
thống nhất.
Từ khi tìm thấy được con đường và sức mạnh để giải phóng dân tộc,
Hồ Chí Minh đã chú ý đến việc đưa quần chúng nhân dân vào những tổ
chức yêu nước phù hợp với từng giai cấp, tầng lớp, từng giới, từng ngành
nghề, từng lứa tuổi, từng tôn giáo. Đó là các trưởng bản, các hội ái hữu,
tương trợ, cơng hội, nơng hội, đồn thanh niên, hội phụ nữ, đội thiếu niên
nhi đồng, hội Phật giáo cứu quốc, Công giáo yêu nước, v.v., bao trùm nhất
là Mặt trận dân tộc thống nhất. Mặt trận chính là nơi quy tụ mọi tổ chức và
cá nhân yêu nước, tập hợp mọi người dân nước Việt, không chỉ ở trong
nước mà cả những người định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời
nào nếu có tấm lịng hướng về đất nước, về Tổ quốc.
Để Mặt trận dân tộc thống nhất trở thành một tổ chức cách mạng to
lớn, theo Hồ Chí Minh, nó cần được xây dựng theo ngun tắc cơ bản
sau[4.tr103-108]:
Thứ nhất: Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên
cơ sở yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, nghèo nàn lạc hậu.
Hồ Chí Minh cho rằng, nước độc lập mà dân khơng được hưởng tự
do, hạnh phúc, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì. Sự đồn kết phải lấy lợi ích

11


tối cao của dân tộc, lợi ích căn bản của nhân dân lao động làm mục tiêu
phấn đấu.
Thứ hai: Đại đoàn kết dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng liên
minh cơng – nơng – lao động trí óc.
Phải trên cơ sở của khối liên minh cơ bản đó mà mở rộng Mặt trận,

làm cho Mặt trận thực sự quy tụ được cả dân tộc, tập hợp được toàn dân,
kết thành một khối vững chắc.
Thứ ba: Hoạt động của Mặt trận theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ.
Khi có những lợi ích riêng biệt, Mặt trân sẽ giải quyết bằng việc nêu
cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo
ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về lợi
ích chung và lợi ích riêng.
Thứ tư: Khối đồn kết trong Mặt trận là lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết
thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những
điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần bàn bạc để đi đến nhất
trí, bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần
phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn
mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng.
Mặt cịn lại, Người nêu rõ: “ Đồn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để
tăng cường đoàn kết”. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình
trạng đồn kết xi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình
để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ.

CHƯƠNG II
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KẾT HỢP SỨC MẠNH
DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
12


1. Qúa trình nhận thức của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Nhân dân ta có lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước.
Trong đấu tranh chống kẻ thù xâm lược cũng như trong lao động sản xuất

nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần chiến đấu ngoan cường, sự thông
minh sáng tạo, ý thức độc lập tự chủ, tự lực, tự cường. Trong truyền thống
dân tộc ấy Hồ Chí Minh nhìn thấy nổi bật lên sức mạnh của lòng yêu nước.
Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam có những đặc điểm riêng biệt,
đặc sắc, vì phải ln ln đối đầu với nhiều khó khăn của tự nhiên và
chiến tranh xâm lược, sự đô hộ của kẻ thù từ nhiều phương kéo đến. Lòng
yêu nước Việt Nam đã trở thành sức mạnh, một thứ đạo lý, một lẽ sống của
mỗi người dân, cũng là một tiêu chí cao nhất để đánh giá con người trong
xã hội ta.
Hồ Chí Minh xác định con đường cứu nước đúng đắn để giải phóng
dân tộc đã phát huy lịng u nước truyền thống và nâng thành lòng yêu
nước xã hội chủ nghĩa. Tinh thần, ý chí độc lập, tự chủ, tự cường và lòng
yêu nước phát huy được sức mạnh to lớn, tạo nên truyền thống đoàn kết
dân tộc, đoàn kết tồn dân. Hồ Chí Minh đã làm nổi bật sức mạnh của con
người Việt Nam, đó là sức mạnh thể lực và trí tuệ, sức mạnh của bề dày
lịch sử và trong cuộc đấu tranh hiện tại, sức mạnh của sự thơng minh và
dũng cảm, của lịng tin chân chính khơng gì lay chuyển. Sức mạnh ấy bền
vững và được nhân lên nhiều lần dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam.
Thời đại của chúng ta mở đầu bằng Cách mạng tháng Mười Nga
1917[xem phụ lục 1]. Cuộc cách mạng này đã mở ra con đường giải phóng
cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu thời đại mới trong lịch sử. Theo
Hồ Chí Minh sức mạnh thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới,
của nhân dân lao động thế giới. Trong quá trình nhận thức và vận dụng
13


sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Vịêt Nam, Hồ
Chí Minh nhận thấy phải dựa vào sức mạnh của dân tộc là chủ yếu, đồng
thời phải khai thác sức mạnh của thời đại. Những nội dung, nguyên tắc về

kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một bộ phận quan trọng
của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thời đại ngày nay, đặc biệt là giai đoạn hiện nay đang diễn ra một
cuộc đấu tranh gay gắt trên mặt trận tư tưởng cũng như về hoạt động thực
tiễn mà chúng ta cần nhận thức đúng đắn để tiến hành những hoạt động
quốc tế phù hợp phục vụ sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Do vậy phải giáo dục cho nhân dân có được niềm tin về lý tưởng
XHCN trong điều kiện thế giới có nhiều biến đổi. Cần phải xử lý nghiêm
minh, công bằng đối với những hành vi vi phạm pháp luật làm suy thoái tư
tưởng, băng hoại đạo đức xã hội. Hội nhập quốc tế mà không được chệch
hướng XHCN, bảo đảm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hồ bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào cách
mạng thế giới.
Khơng ngừng bảo vệ và pháy huy bản sắc văn hóa truyền thống của
dân tộc, làm cho bản sắc văn hoá được giữ vững và phát triển. Giữ vững
tinh thần độc lập tự chủ trong tiếp thu sức mạnh bên ngoài, kết hợp sức
mạnh trong nước. Việc giáo dục tinh thần yêu nước, lịng tự hào dân tộc
chính đáng, ý thức bảo vệ văn hố dân tộc, tiếp thu có chọn lọc văn hố
nước ngồi là những u cầu cấp thiết được đặt ra đối với việc “mở cửa”.
Công tác đối ngoại được xác định có vai trị quan trọng đối với việc kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại.
Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một
nội dung lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó được vận dụng và
phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nội dung cuả tư tưởng này rất phong phú, sâu sắc về thời đại, về sự kết
hợp các sức mạnh này trong thực tiễn đấu tranh. Tư tưởng của Người còn
14


thấm đượm chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, tính cách mạng triệt để tạo nên

ảnh hưởng to lớn đến cuộc đấu tranh lâu dài cho nhân dân các nước vì sự
nghiệp”Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người”.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại
Đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam trong sự gắn bó với
cách mạng vơ sản thế giới
Thời đại mà Hồ Chí Minh sống và hoạt động là thời đại đã chấm dứt
sự tồn tại biệt lập giữa các quốc gia, mở ra mối quan hệ quốc tế ngày càng
lớn giữa các dân tộc.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX khơng phải vì nhân dân ta thiếu anh dũng, các lãnh tụ
phong trào kém nhiệt huyết mà do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên
nhân thiếu đường lối cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng không
phù hợp với xu thế thời đại.
Do nhận thức sự biến chuyển của thời đại, Hồ Chí Minh đã sớm đến
được với cách mạng Pháp, gặp được luận cương của V.I.Lênin, tán thành
Quốc tế III, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con
đường cách mạng vô sản. Người viết: “ Thời đại của CNTB lũng đoạn
cũng là thời đại một nhóm nước do bọn tư bản tài chính cầm đầu thống trị
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, bởi vậy cơng cuộc giải phóng các
nước và các dân tộc bị áp bức là một bộ phận khắn khít của cách mạng vơ
sản. Do đó mà trước hết nảy ra khả năng và sự cần thiết phải có liên minh
chiến đấu chặc chẽ giữa các dân tộc thuộc địa với giai cấp vô sản của các
nước đế quốc để thắng kẻ thù chung”
Hồ Chí Minh nhấn mạnh chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn
liền với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng. Tinh thần vị quốc chân chính
đối lập với tinh thần vị quốc của bọn phản động cầm đầu các nước tư bản,
đế quốc. Trong kháng chiến chống, Pháp, Mỹ, người luôn giáo dục cho
15



nhân dân ta phân biệt rõ người Pháp-Mỹ chân chính với những người
Pháp-Mỹ thực dân, đế quốc; những người lao động u hịa bình cơng lý ở
các nước tư bản, đế quốc, với những người Pháp-Mỹ hiếu chiến, xâm lược.
Hồ Chí Minh đã chứng kiến sự thối nát của chủ nghĩa thực dân khi
còn ở trong nước cũng như khi đi tìm đường cứu nước, song người cũng đã
chứng kiến về sự chan hòa giữa các dân tộc. Người rất phấn khởi nhìn thấy
ở trường đại học phương Đơng hình ảnh đồn kết giữa các dân tộc đủ màu
da.
Hồ Chí Minh là người đã đóng góp lớn vào lý luận Mác-Lênin về
kết hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đề cao sự giúp đỡ quốc tế với
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đồng thời nhấn mạnh trách
nhiệm của cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới. Khi phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế bị chia rẽ, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã hoạt
động khơng mệt mỏi để mong góp phần khơi phục sự đồn kết quốc tế.
Như vậy theo Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc khơng chỉ là đồn
kết dân tộc trong nước mà cịn phải đoàn kết quốc tế, đại đoàn kết dân tộc
đúng đắn là cơ sở cho việc thực hiện đoàn kết quốc tế trong sáng. Đại đoàn
kết dân tộc là một trong những nhân tố đảm bảo cho thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Đoàn kết quốc tế là một nhân tố hết sức quan trọng giúp
cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi hồn tồn của sự nghiệp giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa nước ta quá độ lên CNXH[5].
Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vơ sản địi hỏi
phải đấu tranh chống lại mọi biểu hiện chủ nghĩa dân tộc vị kỷ, chúng ta
chiến đấu khơng chỉ vì tự do cho nước mình mà cịn vì độc lập, tự do cho
nước khác, khơng chỉ vì bảo lợi ích sống cịn của dân tộc mình mà cịn vì
lợi ích của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Ta không nhận sự giúp đỡ một chiều của bạn bè quốc tế, mà phải
bằng thành quả của cách mạng nước ta để góp phần tăng cường sức mạnh

16


cách mạng thế giới, theo tinh thần giúp bạn là tự giúp mình. Hồ Chí Minh
đã khằng định: trong đấu tranh cách mạng ta phải “tự lực cánh sinh, dựa
vào sức mình là chính”. Người cịn viết: “muốn người giúp thì trước tiên
mình phải tự giúp lấy mình đã”, “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà
cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập”. Và
trong lời kêu gọi gửi tới những người anh em ở các nước thuộc địa, Người
viết: Anh em làm thế nào để được giải phóng? Vận dụng cơng thức của
Các-Mác, chúng tơi xin nói với anh em rằng, cơng cuộc giải phóng anh em
chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em.
Mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng làm bạn với các nước
dân chủ:
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, phong kiến lạc
hậu, phải bơn ba tìm đường cứu nước cho dân tộc Người thấu hiểu sâu sắc
nỗi nhục mất nước của các dân tộc và sự thống khổ của nhân dân lao động
trên thế giới. Vì vậy, trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí
Minh ln ln chăm lo, xây dựng tình hữu nghị, hợp tác đồn kết giữa
dân tộc Việt Nam và các dân tộc trên thế giới, nhằm tạo nên sức mạnh to
lớn cho sự nghiệp cách mạng của các dân tộc.
Những năm bơn ba Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở đầu tiên cho tình hữu
nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân nhiều nước trên thế giới. Sau
khi giành được độc lập Người đã tuyên bố: “Chính sách ngoại giao của
chính phủ thì chỉ có một điều, tức là thân thiện với tấc cả các nước dân chủ
trên thế giới để giữ hịa bình”.
Hồ Chí Minh thực hiện quan điểm đối ngoại hịa bình , hữu nghị và
đã thể hiện là một nhà ngoại giao mẫu mực, vừa cứng rắn vùa nguyên tắc,
vừa mềm dẻo vừa sách lược. Hồ Chí Minh chủ trương giương cao ngọn cờ
hịa bình, đồn kết quốc tế, đồng thời ln phân biệt rõ bạn và thù, tỉnh táo

với mọi âm mưu xấu xa của kẻ thù.

17


Trong lời kêu gọi gửi tới Liên hiệp quốc năm 1946, Hồ Chí Minh đã
nêu rõ trong chính sách đối ngoại, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ theo
những nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Đối với Campuchia, Việt Nam sẽ tôn trọng nền độc lập
của hai nước đó và bày tỏ lịng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng
tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền.
Thứ hai: Đối với các nước dân chủ, Việt Nam sẵn sàng thi hành chính
sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực.
Trong quan hệ mở rộng, Hồ Chí Minh đã dành ưu tiên đối với các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, những nước trên bán đảo Đơng Dương Hồ
Chí Minh dành sự quan tâm đặc biệt, ra sức xây dựng quan hệ đoàn kết,
thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng trong khu vực.
Với trí tuệ của mình Hồ Chí Minh đã vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, từ trong mối quan hệ chồng chéo, phức tạp của thời đại, Người đã
đề ra những chủ trương, phương châm, đối sách, ứng xử quốc tế đúng đắn
để đưa dân tộc ta hòa nhập vào thế giới.

18


CHƯƠNG III
PHÁT HUY SỨC MẠNH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC, KẾT
HỢP SỨC MẠNH DÂN TỘC VỚI SỨC MẠNH THỜI ĐẠI
TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc dưới ánh sáng tư tưởng Hồ

Chí Minh trong bối cảnh hiện nay:
Hiện nay Đảng và nhà nước đã thực hiện công cuộc đổi mới thành
công. Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng và phát huy hết sức mạnh đại
đoàn kết dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Trong
thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức được mở
rộng hơn, đó là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã
hội, chính trị - xã hội được ổn định. Tuy nhiên, cơng cuộc đổi mới cịn hạn
chế ở những vùng dân tộc ít người, những nơi cịn nghèo nàn lạc hậu.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn hiện nay là phải củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của
toàn dân, tiến hành thắng lợi của sự nghiệp cơng nghiêp hóa, hiện đại hóa
đất nước, giúp đỡ những nơi cịn nghèo nàn, lạc hậu vươn lên thốt khỏi
đói nghèo.
Trong tình hình nước ta hiện nay, để đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng, cũng cố, mở rộng khối đai đàon kết dân tộc, thì cần chú ý
những điểm sau:
Thứ nhất: Phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết dân tộc là nguồn
sức mạnh, là động lực chủ yếu để đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng Tổ quốc.

19


Thứ hai: Lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm
tương đồng, xóa bỏ những mặc cảm, định kiến, quá khứ trước đây để
hướng đến tương lai cho dân tộc.
Thứ ba: Bảo đảm cơng bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích và
đời sống của nhân dân. Chống lại những tham ơ, lãng phí, nêu cao phong
trào yêu nước trong nhân dân. Xây dựng và phát triển nền giáo dục của

nước ta, khuyến khích các lớp đàn em học tập.
Thứ tư: Đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó chủ trương của Đảng, chính sách pháp
luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đảng và Nhà nước ta chủ trương: thực hiện nhất quán và lâu dài
chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nói gọn là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chấtkỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Sử dụng cơ chế
thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh
tế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tinh thần năng động, sáng tạo
của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa; phát triển nền kinh tế đúng định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại là nền tảng chính trị trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Thấm
nhuần Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng trong những năm
đổi mới đều khẳng định sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo tư tưởng kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại do Người nêu lên. Nghị quyết
Đại hội VII của Đảng ( 1991 )khẳng định[6] ; Trong điều kiện mới càng
phải coi trọng vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
20


thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống
với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ SUẤT

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc có ý nghĩa rất to lớn
và là món q vơ giá của dân tộc ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn
kết dân tộc cũng có ý nghĩa to lớn đối với thế giới, Tư tưởng của Bác đã
giúp cho dân tộc ta đoàn kết chống lại kẻ thù chủ nghĩa tư bản, tạo tình
hữu nghị của dân tộc ta với dân tộc thế giới.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay thì tư tưởng Hồ
chí minh về đại đồn kết dân tộc cũng có ý nghĩa rất to lớn, tập hợp được
sức mạnh của toàn dân, hoàng thành được công cuộc đổi mới thành công,
đưa nước ta ra khỏi tình trạng thốt nghèo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc sẽ mãi mãi là tư
tưởng của dân tộc ta.
Đại đoàn kết dân tộc là một chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà
nước làm theo lời Bác mà ta phải phát huy. Tuy nhiên cũng cịn một số vấn
đề nhóm em xin đề suất thêm:
1. Sự quan tâm đến các dân tộc chưa nhiều nhất là dân tộc thiểu
số.
2. Trình độ văn hố cịn chênh lệch nhiều giữa các dân tộc, nhất
là với những dân tộc ở vùng sâu vùng xa.
3. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhiều dân tộc thiểu
số cịn khó khăn.

21


Từ đó chúng ta phải có những chương trình giúp cho dân tộc thiểu
số được học tập, tiếp thu khoa học kỹ thuật, tăng hiểu biết… Có nhiều
những chương trình giao lưu giữa các dân tộc nhằm trao đổi thông tin, kiến
thức. Tạo điều kiện cho học sinh dân tộc thiểu số được học tập như giảm
học phí, tiếp cận internet…


22


PHỤ LỤC 1: Cách mạng tháng 10 Nga

Nguồn: [7]

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc ở Việt Nam, Ngơ Quang
Định, hanhchinh.com.vn, 11/5/2008

2.

Chính sách đại đoàn kết dân tộc, viet.vietnamembassy.us, 21/4/2001

3.

Đại đoàn kết toàn dân tộc – cội nguồn sức mạnh phát triển đất
nước, Thanh nien Online, 12/5/2010

4.

Giáo trình Tư Tưởng Hồ Chí Minh, trường Đại học Cơng Nghiệp TP

5.


Tư tưởng đồn kết quốc tế trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Nguyễn Đức Thắng, 1/9/2009, tapchicongsan.org.vn

6.

Hội nghị triển khai Nghị quyết Ðại hội VII MTTQ Việt Nam ,báo
Nhân Dân, 6/1/2010, baohoabinh.com.vn

7.

93 năm cách mạng tháng 10 Nga, Ngọc Oanh, vtv.vn, 7/11/2010

24



×